Bài tham luận này[1] phân tích và bổ túc quan điểm của bài “Cơi Già Trên Đất Lạ” [CGTĐL], nguyên tác: “Aging in a Foreign Land” của Andrew Lâm.
CGTĐL đưa ra quan điểm của một người mẹ, cao niên, thất tuần, “vào cái tuổi giữa 70”, cùng gia đ́nh định cư nhiều năm tại Hoa Kỳ, thuộc giai cấp trung lưu, với một số giá trị căn bản về truyền thống dân tộc. Hai vấn đề chính được nêu lên: đó là trạng thái tuổi già và sự khác biệt văn hoá mà người Việt cao niên phải đương đầu trong cuộc sống tại hải ngoại.
Nhận định rằng “Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ư nghĩ của chính ḿnh” có lẽ ẩn dụ một sự than thân trách phận chăng? Nhưng trạng thái “càng già” như vậy chỉ là một trạng huống nhân sinh thông thường tại mọi xă hội trên thế giới: t́nh trạng suy giảm về sức khoẻ và trí tuệ là môt hiện tượng b́nh thường của sự gia tăng tuổi tác, sau bao nhiều năm sử dụng cơ thể và trí năo. Kết quả hiển nhiên của tuổi già là thu hẹp và giản dị hoá nơi ăn chốn ở, thu hẹp, giản dị hoá hoặc tập trung sinh hoạt cộng đồng, xă giao. Sự cải tiến về mặt y khoa và dinh dượng chỉ phần nào làm giảm bớt tốc lực phá hoại của tuổi già, giúp các cụ sống lâu hơn, chứ chưa thể đổi ngược tuổi tác, già thành trẻ măi được. Tuổi vàng th́ có, nhưng “suối vàng” cải lăo hoàn sinh th́ vẫn chỉ là một giấc mơ đẹp mà thôi. Vậy, tốt nhất là t́m mọi cách quây quần với con cháu, hội nhập với lớp tuổi cao niên của ḿnh: gặp nhau hỏi thăm bệnh tật, giới thiệu thuốc men, làm việc nghĩa, giúp nhà trường, năng tới cửa Phật, cửa Chúa… Đồng thời lănh hội và thực thi những quyền lợi mà luật pháp và các tổ chức an sinh xă hội thường dành cho giới cao niên. Thông thường, về mặt sinh hoạt cộng đồng, nhiều tổ chức chuyên nghiệp và hội đoàn c̣n hướng dẫn thành phần cao niên tranh thủ nhiều quyền lợi có tính cách tương trợ, giải trí, sáng tạo, bảo tồn văn hoá.
Nhận định rằng: “Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút ǵ quan trọng”. Trong nguyên bản tiếng Anh-Mỹ, tác giả ghi: “The old are obsolete here in America. Neither respected nor deemed important.” Như vậy, tác giả muốn nói rằng “tuổi già là lỗi thời”, cũ kỹ, lạc hậu (obsolete). C̣n nếu dùng chữ của dịch giả, cụm từ “lỡ thời” thuộc vào một phạm trù bao quát hơn, v́ tuổi nào cũng có thể “lỡ thời”, nếu không kịp nắm đúng thời cuộc, với cái nghĩa gần như “lỡ tàu”: cô gái bốn mươi mà chưa chịu lấy chồng cũng có thể coi là “lỡ thời”. Tuy nhiên t́nh trạng “lỡ th́” này cũng c̣n tùy thuộc vào sở trường cá nhân và nền tảng văn hoá của đối tượng.
Về lại vấn đề cho rằng “tuổi già là lỗi thời/obsolete” th́ đúng ở phần nào và sai ở chỗ khác. Đúng về mặt văn minh kỹ thuật: điện tử, máy móc, xe hơi, kiểu mẫu, trang sức v.v. thay đổi mỗi năm, mỗi mùa. Thay đổi từ mặt trái sang mặt phải; lúc to, lúc nhỏ; lúc ngắn lúc dài; lúc xanh, lúc đỏ; lúc tṛn, lúc vuông. Kiến thức chuyên môn cũng vậy: bỏ dở không hành nghề vài năm, một chuyên gia hạng giỏi trước đó cũng tự coi ḿnh là “lỗi thời”. Vậy hiện trạng “lỗi thời” là phản ứng tất nhiên của nền văn minh kỹ thuật thay đổi cấp kỳ, từng giai đoạn một, có thể là tháng trước, năm sau, chứ không chỉ áp dụng riêng cho “tuổi già”.
Nhưng cả hai trạng thái “già” và “lỗi thời” lại có thể bao hàm những “lượng giá” tích cực như khi người ta thường nói: “già dặn”, “già đời” cho những ai có nhiều kinh nghiệm sống, khôn ngoan, vững vàng khi thêm tuổi tác. C̣n biết bao nhiêu cách ứng dụng phạm trù cũ kỹ, già cả, già đời, trong môi sinh, tạo hoá. Vả lại, t́nh già như rượu già cũng tăng thêm những hương vị say đắm đặc biệt, đắt giá:
RƯỢU GIÀ
rừng già chắp ngọn cây gần nắng
gốc tụ trần gian ươm bóng tan
lá ngả trên làn sương suối bạc
thần linh phủ độ giấc an khang
tre già măng mọc quê hương đợi
hạt gạo lúa nàng thơm thắm môi
biển cũ núi non chưa đếm tuổi
trăm năm tạm biệt chút thôi nôi
trăng già tóc bạc xanh như gió
em mặc yếm vàng áo cánh xo
tay trái cài hoa lên tấm lụa
chân thiền đạp nhẹ hoá thân thơ
nước già ngọc quư soi tâm đạo
cửa mở vào đêm nối ánh sao
vạn nẻo đường về nơi cố định
từng ngày nhớ lại chốn thanh tao
rượu già chất ngất môi say lịm
da trắng hồng ngây gió thoáng im
thức giấc ngàn năm nho ướp đọng
giọt nồng nguyên thuỷ tựa ḷng tim
t́nh già em nhỉ nguồn ra biển
ngoảnh lại trùng dương vẫn viễn miên
ngọn sóng c̣n cao như uẩn khúc
hẹn nhau đắm đuối giữa mây miền
LƯU NGUYỄN ĐẠT (NẮNG ĐÊM, 2007)
C̣n cái “lỗi thời” hôm nay, vài năm sau có thể trở lại thành “mốt” [mode] mới, hoặc vẫn được người ta ưa thích v́ “cũ người, mới ta”. Đôi khi chỉ những loại “lỡ cỡ”, dở dở ương ương, chả mới, chả cũ mới là thứ mất giá. Cái “lỗi thời” của quá khứ, vài chục, vài trăm năm sau có thể biến thành của quư, đồ vô giá: những “đồ cổ”, “antiques”, tác phẩm cũ mới t́m thấy, cuốn sách mục nát vài thế kỷ trước nay trở thành khan hiếm, kinh kệ. Chả thế mà đă có kẻ chuyên môn móc rác hoặc mua lạc soong, ga-ra-xen đă vồ được những kho tàng bị “phế bỏ” lầm.
Người cũng vậy. Đừng bỏ người hoặc tự đào thải một cách quá sớm, vô cớ: biết sài th́ vấn đủ chân tướng, vẫn hữu dụng như thường, có lẽ c̣n bền bỉ, đặc sắc hơn là “mặt giá” (face value): tưởng thế mà không thế. Vậy “tuổi già” không luôn luôn bị phế thải, mất giá: dù cũ kỹ, “cổ lỗ sĩ”, tuổi già vẫn có dịp phô trương những giá trị liên quan tới giai đoạn đă qua, hoặc tiêu biểu những giải pháp khả ứng lúc đó. Người ta vẫn t́m ṭi những bài học trong quá khứ, “ôn cố tri tân”, xem cái cũ để biết cái mới: tư tưởng, tôn giáo, chiến lược, món ăn gia truyền, văn hoá cổ truyền v.v. Do đó mà bất cứ ở một xă hội nào, tân tiến hay chậm tiến, vai tṛ của các bậc “Bô Lăo” vẫn là ṇng cốt trong các Hội Đồng Diên Hồng, Conseil des Anciens, Senior Vice President, Senior Advisors v.v. Vậy quư cụ cao niên vẫn có “nước lắm” để ứng dụng ngay tại các xă hôi Âu-Mỹ. Miễn là đừng quá suy sụp, không giữ vững giá trị khả dụng căn bản của đối tượng.
Hơn thế nữa, ngày nay những xă hội văn minh đều khuyến khích các vị cao niên làm nảy nở hay luân/tái dụng (recycle) những khả năng tiềm tàng, mới mẻ. Với quan niệm “dùng người như dùng mộc”, th́ hiện tượng đầu tư nhân sự phải đi song song với khả năng “tái đầu tư” nhân lực, như thay đổi nghề nghiệp, làm những ǵ họ thấy thích thú mà không biết tới, hoặc không có dịp thử thách trước đó. Vậy phẩm giá của các vị cao niên cần được xác định bởi hiệu lực tinh thần đa diện, căn cứ vào phẩm giá nội tại, lâu bền hơn là hiệu lực kim bản vị thức thời.
Vả lại, nếu quả thực quư vị cao niên đă tới giai đoạn về hưu hoặc tới thời kỳ hưởng thú điền viên an nhàn, th́ thế hệ con cháu họ phải thay thế vào những vai tṛ, chức vị nhiều trọng trách trong guồng máy xă hội. Đó là luật tuần hoàn, có ǵ khác lạ? Thế hệ sau thay thế thế hệ trước, “tre già măng mọc”. Hơn nữa với đà tiến bộ kỹ thuật càng lúc càng bành trướng, khi thế hệ trẻ đứng lên đảm nhận thêm trách nhiệm, th́ họ ắt có thêm quyền. Chính quư cụ thường tuyên bố: “con hơn cha, nhà có phúc”. Và đó cũng là lư do chính đáng khiến mấy triệu Người Việt chúng ta bỏ quê hương xứ sở tới xây dựng môt đời sống mới, nhân bản, khả quan trên thế giới tự do Âu-Mỹ: mong muốn con em chúng ta thành đạt, vượt khỏi cảnh khốn đốn mà các thế hệ trước đă từng chịu đựng. Nếu những đứa trẻ lên 9, lên 10 đă biết thông dịch Anh-Mỹ ngữ giúp đỡ bố mẹ chúng lúc mới đến nơi đất lạ, nếu con cái đi làm, mang tiền đóng góp mua chung căn nhà tụ họp cả gia đ́nh, nếu chúng vừa đi học thành tài, chiều về c̣n đứng ra giúp đỡ bố mẹ thu vén thương nghiệp, th́ thời cuộc đă “hoán chuyển” chúng thành những cộng sự viên, những “partners” chính đáng, những đồng sở hữu chủ hợp lẽ và hợp t́nh của gia tài mới trên đất khách quê người. Quyền hạn của chúng đi song song với trách nhiệm mà gia đ́nh và xă hội cũ lẫn mới đ̣i hỏi nơi chúng. Có quyền, nhiều hay ít chỉ là một hiện tượng phân công, phân nhiệm công bằng, minh bạch. Nếu ghép thêm t́nh nghĩa th́ c̣n cao quư, tốt đẹp hơn thế nữa.
Cũng xin lưu ư thêm, ngày hôm nay trong nước, ngoài một số quư cụ thuộc giai cấp lănh đạo, đặc biệt ưu đăi trong xă hội hiện tại, đa số thường dân cao niên trong Nước, đều gặp nhiều khó khăn, từ vật chất tới tinh thần, hơn quư cụ sống già tại Hoa Kỳ, Gia Nă Đại, Úc Châu hoặc Âu Châu. Họ không có an sinh xă hội, không có bảo hiểm sức khoẻ; không có phương tiện di chuyển công cộng miễn hoặc giảm phí. Họ không thể tự do ra khỏi nước một cách dễ dàng để du lịch, thăm viếng họ hàng, bạn bè như họ mong muốn. Như quư cụ cao niên hải ngoại “thông thường” làm trên mảnh đất mới, dù tạm dung. Họ không có xe hơi, nhà lầu đầy đủ tiện nghi, điện nước, điện thoại, ti-vi, máy lạnh, vệ sinh công cộng, cầu thang máy tập thể. Họ không mua được một cách b́nh thường những thực phẩm mới, tốt, chọn lọc, bảo đảm về mặt giá cả, vệ sinh căn bản. Và khi họ ốm đau, họ không có những phương tiện điều trị tân tiến, an toàn, đầy đủ, “miễn phí” hoặc có bảo hiểm như quư cụ sẵn hưởng, sẵn có, một cách đàng hoàng, minh bạch, khi sống già tại Hoa Kỳ, Gia Nă Đại, Úc Châu hoặc Âu Châu. Và khi họ mệnh chung, công việc chôn cất cũng rất lôi thôi về những thủ tục hành chính rườm rà, soi mói. Họ luôn luôn phải chen chúc, luồn cúi, đút lót để được sống và chết một cách rất b́nh thường. Thưa Quư Cụ, đất nước ḿnh ngày hôm nay, không mấy “ngon lành” như quư cụ tưởng. T́nh cảm, dịch vụ căn bản không c̣n được cung cấp một cách đương nhiên, minh bạch, miễn phí, công bằng, tử tế, như trong quá khứ vàng son.
Vậy nói rằng “Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đ́nh, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi” th́ rất đúng. Nhưng t́nh trạng mất mát, ít hay nhiều, là do tư cách và mối liên hệ của người cao niên với con cháu trong gia đ́nh, với bạn bè thân hữu trong xă hội, trong bối cảnh đời sống hiện tại. Đối với con cháu ở xa không tới thăm ḿnh luôn, th́ nếu quư cụ đủ sức khoẻ, đủ phương tiện th́ tự ư tới thăm chúng. Nếu con cái bận bịu không kịp gọi điện thoại, th́ ḿnh rảnh rỗi gọi hỏi thăm chúng. Chứ không nên viện lẽ, nào tự ái, nào lấy quyền làm cha mẹ, ông bà, bề trên, mà đ̣i hỏi t́nh thương, bổn phận phải thi hành theo trật tự “hướng thượng”, một chiều. Chính quư cụ đă từng dạy con cái là “nước mắt chảy xuôi” cơ mà !
Mất hay không cũng tùy thuộc mức độ quư cụ nắm lấy cơ hội “vớt vát” trong tầm tay ḿnh. Một số quư vị cao niên vẫn c̣n trực tiếp đứng ra cổ xuư phát huy những giá trị văn hoá và truyền thống dân tộc một cách tích cực. Cơ thể của quư cụ trưởng thượng có bề b́nh thường suy yếu, nhưng tâm trí, “nỗi ḷng” về đất nước và truyền thống dân tộc, gia đ́nh của quư cụ đó vẫn ở mức độ nhiệt t́nh rất cao, dù phải sinh sống trên đất khách quê người. Tôi đă từng quen biết vài cụ năm nay đă hơn tám chục tuổi, ấy thế mà vẫn luôn luôn bận bịu, sáng đi thăm vợ tại nhà thương, trưa về lo công việc cộng đồng, tối th́ nghe ngóng, b́nh luận những tin tức nóng bỏng về đất nước, về thế thái nhân t́nh. Lăm lúc tôi có cảm giác quư cụ đó c̣n thiết tha nhiều với cuộc sống, tiếp tục t́m ra những lẽ sống, dù hoàn cảnh không toàn hảo.
Ngày hôm nay, tôn trọng nhân phẩm, lẽ phải, công bằng, bắc ái là căn bản. Ông bà, bố mẹ, con cháu, bề trên, kẻ dưới, đều phải t́m hiểu để thông cảm lẫn nhau; t́m cách tôn trọng lẫn nhau, trên căn bản con người, vị t́nh, vị nghĩa, chứ không nhân danh một áp lực siêu h́nh, siêu thực, quá đáng nào cả. Trân trọng, kính nể, thương xót phải là động cơ chính yếu trong mọi giao dịch với gia đ́nh, với tha nhân. Mọi h́nh thức áp bức, độc đoán, độc quyền và một chiều phải gạt bỏ, v́ lỗi thời, v́ lẻ loi và vô hiệu. Kết sinh mọi nỗ lưc, từ trên xuống dưới, ngang và dọc, trong gia đ́nh, nơi xă hội, để sống và sinh tồn mới có cơ hội phát triển vẹn toàn, hài hoà, đúng cách.
Chúng ta không thể độc quyền văn hoá, độc quyền yêu nước yêu ṇi, yêu gia tộc tổ tiên mà bỏ quên vai vế, quyền lợi và trách nhiệm của người khác trong họ hàng, xă tắc. Thành kiến độc tôn quyền lực, khơi khơi “lănh tụ” phải được giải toả bớt với những khái niệm cởi mở, xây dựng: “phân công, phân nhiệm”, phối hợp khả năng, kết lực sinh tạo. Văn hoá là trào lực sinh tồn của cộng đồng, dân tộc, tiếp nối, thêu dệt, uốn nắn, nuôi dượng bằng ngàn, bằng triệu tâm hồn thiết thực, bằng ngàn, bằng triệu ao ước, lựa chọn lối sống. Làm sao truyền thống văn hoá có thể đơn phương hoàn tất, gánh vác bởi một cá nhân, dù đầy thiện chí? Làm sao văn hoá của số đông, của cả một dân tộc có thể tụ tích vào ư muốn và sở thích của một Lănh tụ độc đoán, vị kỷ, một Chủ Tịch bạo quyền, khát máu, một tập đoàn đảng phái ma-phia tham nhũng, bất lực, bất tài?
Giả thử, chúng ta c̣n ở tại quê hương, với những điều kiện lịch sử thuận lợi cho một xă hội b́nh thường, không bị xáo trộn, tha hoá, th́ mọi sinh hoạt, suy nghĩ dễ ăn khớp, diễn tiến một cách hài hoà, hợp t́nh, hợp cảnh. Với những điều kiện nội tại đó, truyền thống tốt đẹp phát xuất bằng cách thẩm thấu tự nhiên. Vậy, tùy hoàn cảnh của từng gia đ́nh trong nước cũng như tại hải ngoại, nếu c̣n ǵn giữ được căn bản truyền thống tốt đẹp, nhân bản vững chắc, th́ hiễu lực hội nhập văn hoá trở nên dễ dàng, thực hiện một cách trực tiếp, cha truyền, con nối. Đó là cách hấp thụ bằng “nội nhập văn hoá” (inculturation): nói tiếng mẹ đẻ và thấu nhận tập tục văn hoá truyền thống gia đ́nh, hàng xóm, dân tộc.
Nhưng với t́nh trạng xáo trộn, tha hoá trong hiện t́nh đất nước, và trong sự khác biệt văn hoá nơi đất khách quê người, th́ truyền thông tốt đẹp của dân tộc Việt, với những giá trị căn bản cao quư, quân b́nh, tử tế, nhân từ nhân ái, cần được hội nhập một cách minh mẫn, lớp lăng, dưới h́nh thức lănh hội từ phía ngoài, hay “ngoại nhập văn hoá” (acculturation): học sinh ngữ, tập tục, văn hoá mới, v́ xa lạ hoặc lăng quên.
T́nh trạng bị cô lập hay tự cô lập, tất nhiên đưa tới sự tách biệt, đứt đoạn cũa truyền thống về mặt xă hội, lẫn gia đ́nh. Với lời tuyên bố: “Tôi là người giữ gia phả của gịng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đ́nh trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu t́nh cờ gặp nhau trên đường phố…”, vô h́nh trung Cụ Bà trong cuộc một mặt dành độc quyền [“nghề đặc biệt của tôi”] ǵn giữ gia phả, truyền thống gia tộc, đồng thời đă thiếu sót bổn phận v́ không chỉ dẫn con cháu t́m kiếm và nuôi dưỡng “những mối dây liên hệ gia đ́nh trong gia tộc.” Kết quả tất nhiên là con cháu Bà trở thành xa lạ với họ hàng thân thuộc, với truyền thống văn hoá. Cái cầu văn hoá nếu bị đứt đoạn cũng v́ thiếu sự chăm sóc của các thế hệ trước. Nếu quư cụ sợ đứt cầu, ít ra quư cụ cũng nên chuẩn bị con cái, người thân kẻ thuộc quen biết thêm về h́nh thù, bản chất và cách thức bảo tŕ, tiếp nối cây cầu đó. Về hoàn cảnh của Cụ Bà, “người con gái trưởng trong nhà”, Cụ có thể tự tay, hay sai bảo con cháu, hay thuê người đánh máy điện tử ghi chép gia phả, rồi gửi tới con cháu để nhắc nhở chúng về tông tích gia tộc. Xa mắt, nhưng không xa ḷng, nếu vẫn nuôi dưỡng được những dây liên hệ máu mủ đó.
Vậy nếu quư cụ cao niên Việt tại Hải Ngoại cũng như trong Nước muốn thực thi ước nguyện, muốn cây cầu văn hoá Việt Nam không bị gián đoạn, cắt cụt, hủy bỏ, nếu quư vị cao niên không muốn thấy mất “cái tôi”, cái thể diện tốt đẹp trong truyền thống cao quư, th́ xin quư cụ ra tay thu ven, chỉ dẫn thêm để con cháu đưộc gần gũi với nguồn gốc và giá trị của nền văn hoá mà quư cụ tôn kính, yêu chuộng.
Trên thực tế, quư cụ cao niên nay khoảng từ bảy mươi tới tám chục tuổi, khi bước chân tới đất khách quê người, dù là Hoa-Kỳ, Gia-Nă-Đại, Pháp, Đức v.v. từ năm 1975 chỉ trên 35, dưới 50 tuổi. Quư vị lúc đó vẫn đủ sức lực, đủ minh mẫn học hỏi thêm một tiếng nói mớí, một nền văn hoá mới, một cách sinh sống, suy nghĩ khác với những ǵ quư vị có và biết trước khi bỏ nước, bỏ quê hương xứ sở. Sau 33 năm trời, sau gần “nửa đời người” sinh sống nơi “đật lạ”, quư vị không c̣n cơ hội trực diện một nền văn hoá cổ truyên thuần túy Việt Nam nữa. Sau 33 năm trời dài đằng đẵng, hay vù đi cái một, quư vị di dân khách trú hay “tân dân” (new citizen) nước tạm dung, cũng phần nào có dịp hay bị thời cuộc lôi cuốn “hội nhập” vào đời sống mới, một đời sống đa văn, đa diện, đa cảm. Đó là chuyện chẳng đặng đừng, một hiệu lực phản xạ (side-effect) của liều thuốc “tỵ nạn”. Được yên ổn, bảo vệ, từ lúc trẻ tới lúc già, thụ hưởng vật chất, được tự do đi lại, hội họp, tự do tư tưởng, tín ngưỡng, thi thố tài nắng, dành lấy cơ hội sinh sống thăng tiến chính đáng cho ḿnh và con cái ắt cũng giúp quư cụ nhận định rằng quư cụ đă nhận được nhiều để cần biết hưởng và biết cho lại: cho lại con cháu, thế hệ sau, và những người c̣n khốn đốn hơn quư cụ rất nhiều. Được như vậy, chắc cũng đáng phải trả giá bằng một sự hy sinh tối thiểu: cảm thấy phần nào cô đơn, lạc lơng, không hoàn toàn “ăn khớp” nơi “đất lạ”.
Nhưng từ đó cho rằng: “Mỹ là …địa ngục giới già” th́ quả thật hơi quá đáng, ngoa ngoắt.
Tôi được kể một câu chuyện khá thương tâm về một cụ bà khoảng tám, chín chục tuổi. Cụ tôn sùng những giá trị cổ truyền một cách tối đa, tuyệt vọng. Nhân dịp Ngày Nhớ Cha (Father’s Day) năm 2008, cụ ra mộ chồng cúng bái, rồi trước linh hồn người quá cố và với sự hiện diện của đại gia đ́nh con cháu ba đời, đông đủ tụ tập từ các Tiểu bang khác tới, Cụ nêu lư do chính đáng về tập tục gia đạo, rồi tuyên bố ly khai, truất bỏ thằng “chắt đích tôn” v́ nó “lai Mỹ, không nói sơi tiếng Việt, nên sợ khi cúng bái lúng túng, Thần Linh, Tổ Tiên không thấu hiểu”. Ngay lúc đó, Cụ chọn một thằng chắt ḍng thứ thay thế làm “đích tôn”, v́ bố mẹ nó là người Việt “chính cống”. Cụ thật thiết tha, chân t́nh với truyền thống gia đạo, sẵn sáng cắt đứt máu mủ để duy tŕ phương thức ngoại vi, phiến diện của truyền thống. Cụ không thể nghĩ rằng một đứa trẻ dù lai, dù sinh đẻ tại Hoa Kỳ, nếu được dạy dỗ, được hấp thụ những giá trị tốt đẹp, khả kính của truyền thống văn hoá Việt Nam, cũng có thể tiếp nối truyền thống đó, nếu không bằng ngôn ngữ, màu da, ít nhất cũng bằng con tim, máu mủ, bằng tấm ḷng nhân bản. “Nươc mắt chảy xuôi” ở chỗ nào nhỉ ? Nước mắt trên màu da trắng, vàng, nâu…, nếu chân t́nh bùi ngùi th́ cũng mặn mà, xót xa như nhau. C̣n nước mắt dân tộc, gia đ́nh thuần túy cũng có cơ hội biến thành “nước mắt cá sấu”, hay cũng nhạt nhẽo như nước ốc, nước lă, nếu hời hợt, khách sáo, giả tạo. Truyền thống dân tộc, gia đạo chỉ là những tục lệ, trí tuệ đáng duy tŕ, kính trọng, nếu thực sự có chân t́nh, lẽ phải, rộng lượng, nhân từ, nhân ái. C̣n những sắc thái phù phiếm, hẹp ḥi, bất nhân, bất nghĩa của bất cứ truyền thống nào, tư tưởng dân tộc nào, cũng nên cải bỏ, tu bổ cho phải đạo làm người, hợp với đạo trời đất, đạo tự nhiên, tự tại.
LƯU NGUYỄN ĐẠT
GHI CHÚ:
[1] người viết bài tham luận trên cũng là hạng “nhân sinh thất thập cổ lai hy”, bảy mươi tuổi đời, định cư tại Virginia, USA, nên cũng rất thông cảm với đời sống và suy tư của giới “Cao Niên Hải Ngoại”.
Viet Thuc