Lê Đức Luận


(VNTB) – “Chúng ta trải qua nhiều thời kỳ, từ đồ đá đến đồ đồng, đồ sắt, nay th́ đă sang thời kỳ Đồ Đểu”?

Một ngày cuối năm Con Trâu, ra chợ thực phẩm Á Đông (Asia Market) mua mấy món đặc biệt để sửa soạn mâm cơm cúng rước Ông Bà về với con cháu trong ba ngày Tết theo tục lệ cổ truyền, tôi t́nh cờ gặp một ông già trạc độ bảy mươi lăm, đang nheo mắt nh́n chăm chú vào tờ giấy rồi kiểm lại từng món hàng chất đầy trong xe. Thấy ông già này cẩn thận giống ḿnh – mỗi lần đi chợ bao giờ tôi cũng xem lại cái “toa” trước khi đẩy xe đến quày tính tiền; “đồng bệnh tương lân” nên tôi đến gần ông già bắt chuyện làm quen. Tôi hỏi:

– Chắc bà nhà đang bận – Anh đi chợ một ḿnh?

Ông già ngẩng lên nh́n tôi với nụ cười thân thiện, trả lời giọng đặc sệt Nam Kỳ:

– Đây là việc của mấy thằng “đực” ông ơi! Đổi đời … đổi đời rồi!

Nghe ông già xài chữ ngồ ngộ, rồi nh́n bộ ria mép tỉa khéo mấp máy trên cái miệng móm mém thiếu răng, nhưng trông ông c̣n phong độ nhờ nước da hồng hào với ánh mắt tinh anh duới đôi chân mày rậm xếch ngược; mái tóc dày cắt ngắn theo kiểu plat-top “muối nhiều hơn tiêu” làm rơ nét cái trán vuông và dồ – trông vừa bướng bỉnh vừa tiếu lâm. Tôi đoán ông ta đă trải qua một thời oanh liệt …

Bỗng tôi cảm thấy vui và muốn kết thân, tôi tiếp lời:

– Đám “đực” từ ngày qua đây chẳng làm nên tích sự ǵ, nên phải đảm đang việc nôi trợ …

Ông già cười tủm tỉm, đáp lại:

– Không phải đợi đến lúc qua đây mà từ ngày “trời sập”- cái ngày “phỏng dái” ấy, cánh đàn ông Miền Nam bị “phỏng ….” gần hết. Mấy bả không có cái … để “phỏng …”, do đó bây giờ “ngon cơm” hơn đám tụi ḿnh?

Ông già nh́n tôi hỏi:

– Ông về hưu chưa? Sao đi chợ ḿnh ên?

– Tôi nghỉ hưu ba bốn năm nay. Nhà tôi c̣n đi làm, nên thủ vai nội trợ …

Ông già vui ra mặt, nói:

– Vậy là tôi có đồng minh. Hơn mười năm nay tôi ôm mấy cái jobs: đi chợ, lau nhà, rửa chén mà trong ḷng cứ buồn buồn … tủi tủi…

– Vậy là bà chị c̣n trẻ và bận rộn nhiều việc bên ngoài? Tôi hỏi.

– Không! Già rồi! Bây giờ bả ở nhà làm Bác sĩ kiêm Dược sĩ. Ông già trả lời.

Tôi ngần ngừ chưa biết an ủi ông già thế nào cho phải lẽ, v́ hai cái việc của vợ ông thuộc giới thượng lưu. Ông già hiểu ư, bèn nói:

– Làm Bs là bả kê “toa” cho tôi đi chợ, cấm tôi hút thuốc lá và bắt tôi ăn kiêng. C̣n Job Dược sĩ bả làm hơn 10 năm nay. Tôi mang đồ chợ về, giao bả biến chế thức ăn …

– Trước đây tôi vừa đi chợ vừa nấu ăn, nhưng tôi chỉ có hai món tủ gia truyền là “gà kho sả ớt” và món tươi cho có chất xơ (fiber) theo lời khuyên của BS là “bắp cải luộc chấm với hột gà dầm nước mắm”. Ăn riết tụi nhỏ nhà tôi ngán tới cổ … Chúng nó làm reo, bả cho tôi nghỉ việc.

– Bây giờ tôi chỉ c̣n 3 jobs chính. Đi chợ, lau nhà, rửa chén và một job phụ (part time) là làm tài xế chở bả đi shopping.

Ông già nói tiếp với giọng ngậm ngùi:

-Thời xưa học sách thánh hiền là một đấng nam nhi quân tử phải nghĩ đến việc “tu thân – tề gia – trị quốc – b́nh thiên hạ”. C̣n bây giờ lo việc “tu thân – nội trợ” đă thấy hụt hơi, nói chi đến việc cao xa …

– Thời Ông, Bà ḿnh th́ – “Phu xướng Phụ tùy”. Bây giờ ở đây th́ “Phu xướng Phụ xù”

Tôi thêm vào cho vui câu chuyện:

– Ở Mỹ đàn bà “nằm trên” đàn ông …Cánh đàn ông xếp tới hàng thứ tư mà anh.

Tôi chưa nói hết câu, ông già xua tay ra vẻ khinh bạc:

– Xưa rồi … xưa rồi …Cái chuyện con nít, chó mèo, đàn bà được coi trọng hơn đàn ông nghe đă ṃn tai và bây giờ trở thành lẽ đương nhiên …

Ông già vỗ nhẹ vào vai tôi, hạ giọng:

– Nghĩ mà tủi cho đám đàn ông chúng ḿnh: hồi nhỏ th́ sợ cha, sợ me; lớn lên th́ sợ vợ, bây giờ già th́ sợ con …

Ông già nói tiếp như có vẻ cam chịu:

Sợ đủ thứ mà vẫn không yên. Cái “sợ” nó ám ảnh và lây lan ra ngoài khung cảnh gia đ́nh trong cánh đàn ông sinh bất phùng thời. Nguyễn Tuân, một văn tài hoa và khinh bạc thời tiền chiến mà c̣n nói: “Tôi c̣n sống đến bây giờ là nhờ biết sợ”. Xem ra “sợ” không phải v́ “hèn” mà trở thành cái vỏ bọc tự vệ khôn ngoan trong một xă hội bát nháo ông ạ …

Thấy ông già có vẻ bi quan, yếu x́u … tôi bèn thêm lửa:

– Ḿnh phải “vùng lên” chứ chịu “lép vế” để mấy bà “lừng” măi sao anh?

– Đấy! Cũng có mấy ông già, dân Bắc Kỳ gọi: “già mà thích chơi trống bỏi” đă vùng lên: đổi mới, sửa sai … Nhưng xem ra bị thất bại ông à. Lúc đầu các ông ấy muốn chứng tỏ cho các bà thấy: – ta đây không phải “đồ vô dụng”, nhưng rồi bị “lậm”- từ “phở tái, phở gầu” tới “bồ nhí, bồ già”… Cuối cùng te tua – nhất y nhất quỡn …

– Nhất y nhất quỡn là sao? Tôi hỏi.

– Là chỉ c̣n cái áo thun với quần đùi. Dân Nam Kỳ hay ví von như dậy.

Ông già nói tiếp với giọng chua chát:

– Luật lệ ở xứ này kỳ cục – cái ǵ cũng kiện – động một chút là kêu 911- mấy bà chỉ nhấc phone nói: “tôi đang bị chồng bạo hành” là 5 phút sau police có mặt; lỗi phải chưa rơ, điều đầu tiên là ông chồng ôm cái c̣ng số 8, lên xe police về bót, rồi hạ hồi phân giải …

– Khi ở bót cảnh sát về, tùy theo mức độ và ḷng “nhân đạo” của bà vợ, anh chồng có thể ôm mền ra ngủ garage để “ăn năng hối cải” hay đưa nhau ra ṭa li dị. Li dị th́ bao giờ thiệt tḥi cũng về cánh đàn ông. Bây giờ “cái nhà là nhà của bà – con cái cũng là con của bà”, nhưng hằng tháng anh chồng phải chi tiền cấp dưỡng cho bà nuôi con nếu đang có job thơm không nỡ bỏ; c̣n cái đám phất phơ, không có nghề ngỗng ǵ ra hồn th́ “ta buồn ta đi lang thang” rồi nhập vô với đám homeless …

– Ông có biết về Lưu Quang Vũ, một nhà viết kịch nổi tiếng ở trong nước vào khoảng thập niên 80 đă nói: “Chúng ta trải qua nhiều thời kỳ, từ đồ đá đến đồ đồng, đồ sắt, nay th́ đă sang thời kỳ Đồ Đểu”?

– Cho nên một số ông già “ham chơi trống bỏi” về VN ôm nhầm “đồ giả” hay gặp “đồ đểu”, khi trở lại Mỹ bị “đồ cổ” ruồng bỏ, hất hủi đâm ra hận đời đi làm những việc chẳng ích lợi ǵ cho sức khỏe của tuổi già c̣n khiến con cháu mất vui.

Ông già nói mấy chữ ẩn dụ hay thật, tôi cảm thấy thích thú khi nói chuyện với ông.

Tôi hỏi:

– Mấy ông già dịch ấy bây giờ làm ǵ mà nên cớ sự?

– Th́ mấy ổng hết “làm biếng” rồi lại “làm thinh” làm cho không khí gia đ́nh thêm nặng nề.

Ông già nói tiếp:

– Tuổi già ai chẳng tủi thân, nhớ lại cái thời vang bóng mà thấy ngậm ngùi, nhưng “ Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”- Ngày xưa Cụ Ngô Th́ Nhậm đă bảo như vậy mà.

Ông già ngừng một chút, lấy xấp giấy in mấy bài thơ, đưa cho tôi một tờ, rồi bảo:

– Ông đọc đi … Đó là truyền đơn quảng bá “Hội Thằng Đực” đấy.

Tôi nhẩm đọc: “Ngậm một mối u hoài bên cạnh vợ/ Ta lờ khờ và lớ ngớ ngu ngơ/ Giận vợ già quá ngạo mạng khó ưa/ Giương mắt lăo nh́n ta như con trẻ/Nay già rồi chịu gông cùm lép vế/ Để mụ già nổi hứng mụ hành chơi/Chịu ngang bầy cùng lũ chó dở hơi/Thường đẩy xe sau mỗi lần đi chợ…

Ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ/Thuở tung hoành hống hách những ngày qua/ Ngoài chiến trận ta vẫy vùng ngang dọc/ Thật kiêu hùng quyết bảo vệ quê hương / Có toàn dân và em gái hậu phương / Nàng ngưỡng mộ tôn ta làm thần tượng/

Than ôi! thời oanh liệt nay c̣n đâu! / Để giờ đây ta ngậm mối u sầu /Nơi xứ Mỹ thôi ta đành lép vế/ Đành ngu ngơ đành nhẫn nhục chờ thời/ Cho đến lúc tự nhiên ta đâm… nhát/Để ǵờ đây những đêm dài ngao ngán/ Ta lâu ngày…phở tái vẫn thèm ăn/ Vẫn đợi chờ gió đủ để bẻ măng/ Nằm phục kích chờ nai vàng nạp mạng/

Hăy vươn lên khi c̣n chút sức/ Hăy la to cho “chằng lửa” giật ḿnh/ Nói cho đă rồi sao ḿnh lại nín/ V́ vợ kêu ta đi rửa chén mau lên …”

– Nhái thơ tuyệt vời! Tôi tán thưởng.

Ông già lại lấy ra xấp giấy khác, đưa cho tôi một tờ, rồi bảo:

– Ông xem thử có hay không?

Tôi chăm chú đọc: “Bắc thang lên hỏi Ông Trời/Đời con đau khổ đă nhiều thấu chăng/Ông Trời cúi mặt than rằng/Tao đây cũng khổ cắn răng chịu đ̣n/

Bắc thang lên hỏi Ông Trời/Vợ con nó quái dữ như bà chằng/Ông Trời Ổng trả lời rằng/Vợ tao c̣n dữ gấp trăm vợ mày/

Bắc thang lên hỏi Ông Trời/Kiếp này con có bỏ nàng được không?/ Ông Trời Ổng trả lời rằng/Tao c̣n chưa được xá chi là mày/

Bắc thang lên hỏi Ông Trời/Vợ con dữ quá con xin bỏ nàng/Ông Trời ngó xuống trả lời/ Mày bỏ được nó th́ đời mày tiêu…”

Đợi tôi đọc xong, ông già lên tiếng:

– Tôi “lượm” trên internet đấy. Mấy tay này cũng thuộc loại sợ vợ có hạng, làm thơ đưa lên mạng mà bảo “tạm dấu tên”. Không biết tác giả là ai để xin phép nhưng thấy hay, tôi dawnloadd, copy gởi cho mấy ông bạn già đang bị vợ “đ́…” đọc chơi cho vơi “nỗi sầu lép vế”…

Ông ǵa vỗ nhẽ vào lưng tôi, cười hóm hỉnh, tiếp tục câu chuyện:


– Nói ǵ th́ nói. Cứ ôm “đồ cổ” là bảo đảm không bị mắc lừa “đồ giả, đồ dởm, đồ đểu”. “Đồ cổ” th́ không ghép “đồ giả” vào đâu được và càng ngày càng quí hiếm đấy ông ạ …

Có lẽ ông già ưng ư câu nói vừa rồi nên hứng chí ghé sát vào tai tôi:

– Ông đă vào Hội Đoàn nào chưa? Nếu chưa th́ vào cái “Hội Thằng Đực” này đi. Dzui hết biết !!!

Ông già hạ giọng ra vẻ thuyết phục:

– Thế hệ của chúng ta ít nhiều cũng c̣n ảnh hưởng nếp sống thời phong kiến “chồng chúa vợ tôi” nên nhiều ông già hay than thân, trách phận; có ông tỏ ra cam chịu, có ông hờn hờn …tủi tủi … có lúc nổi trận lôi đ́nh nói lời cay cú…

– Tôi thấy mấy ông bạn già của tôi sau khi vào “Hội Thằng Đực” bỏ được cái tật “làm biếng và làm thinh”; c̣n mấy ông hay nhớ lại thời oanh liệt như “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ cũng bỏ được cái vẻ tư lự để “ vui với tuổi trẻ mà lại khỏe cho tuổi già” …

Nói đến đây, ông già đưa tay nh́n đồng hồ:

– Ấy chết! Ham nói chuyện đời. Trễ quá rồi! Ông đi mua đồ kẻo về lại nghe “đồ cổ càm ràm”…

Tôi vui vẻ trấn an:

– Không sao! Nghe quen tai rồi … Người Nhật đang khai thác cái dịch vụ “càm ràm”, làm CD bán cho mấy ông bà già, đắt như tôm tươi đấy …

Ông già lại cười hóm hỉnh móc bóp đưa cho tôi tấm card visit, rồi đẩy xe đến quay tính tiền và nói:

– Muốn vào “Hội Thằng Đực” th́ phone cho tôi.

Chia tay ông già, trở lại các kệ bán thực phẩm tôi thấy lâng lâng một niềm vui trong buổi chiều cuối năm …Có lẽ tôi đă t́m được nguồn vui cho tuổi già.

Nh́n ông ǵa vội vă đẩy chiếc xe đầy ắp thực phẩm ra cửa khi tuyết đang rơi mà thấy thương “ông già ham vui”, ba hoa những chuyện “bao đồng” quên cả thời ǵờ …

Tôi tưởng tượng – chắc ông già đang nghĩ cách đối đáp với những lời “càm ràm” của “đồ cổ” đang đợi ở nhà, giống như thời trai trẻ mỗi khi đi “chơi hoang”, về nhà trễ, đám “mày râu” bao giờ cũng chuẩn bị trước câu trả lời cho cô vợ trẻ…?!