Văn Nguyên Dưỡng
Lời oà soạn
Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng hiện sống tại Hawaii, nguyên trưởng pḥng 2 ( Pḥng T́nh Báo) bộ tư lệnh sư đoàn 5 BB. Người tham dự trận chiến An Lộc từ bắt đầu đến kết thúc. Trong bài viết của ông dưới dây có thể có một vài chi tiết khá nhạy cảm với một vài người.
1. Quân Đoàn Iii & Vùng 3 Chiến Thuật với Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Văn Minh
Trung tướng Nguyễn văn Minh nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến Thuật (QĐIII & V3CT) sau khi vị tướng lănh lỗi lạc nhất của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa (QLVNCH) Trung tướng Đỗ Cao Trí, tử nạn trực thăng trên không phận tỉnh lỵ Tây Ninh vào ngày 23 tháng 2, năm 1971.
Trước đó ở cả bốn Vùng Chiến Thuật, QLVNCH đă mở những cuộc hành quân sâu vào căn cứ địa của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào và truy diệt chúng xa hơn vào lănh thổ Miên và Lào. (Về lư do v́ sao QLVNCH tổ chức các cuộc hành quân vượt biên sang Cao Miên và Lào, sẽ tŕnh bày trong một dịp khác, hoặc xin mời đọc “The Tragedy of The Vietnam War” của tác giả, ở tiểu mục “A Controversal Escalation of the War in Indochina”, do McFarland xuất bản tháng 9, 2008, từ trang 135 đến 141).
Lực lượng hành quân QĐ III & V3CT [Quân Đoàn lll& Vùng 3 Chiến Thuật] của Tướng Đỗ Cao Trí đạt thành quả lớn lao nhất. Từ tháng 4, 1970, đă đánh bạt Sư đoàn Công trường 7 CSBV (SĐ-7/CSBV) và Sư đoàn Công Trường 9 Cộng Sản của TWC/MN (SĐ-9/CS) [Trung Ương Cục Miền Nam] ra khỏi các căn cứ địa quan trọng Lưỡi Câu, ở biên giới tây bắc B́nh Long và Mỏ Vẹt ở biên giới tây nam Tây Ninh, đồng thời phá tan các căn cứ hậu cần lớn, nhỏ, của Trung Ương Cục Miền Nam (TWC/MN) cơ quan chính trị và quân sự đầu năo của CSBV ở Nam Việt Nam; hạ hơn 11,000 quân CSBV, bắt hơn 2,200 tù binh và thu hoặc phá hủy hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược, trang bị và hậu cần của họ. Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản của TWC/MN (SĐ-5/CS) lúc đó đă rút sang Cao Miên hoạt động bên ngoài biên giới Kiến Phong và đang là mục tiêu của QĐIV & V4CT [Quân Đoàn lV & Quân Khu 4]
Ở mặt trận phía bắc, dọc Liên Quốc lộ 7, các Chiến đoàn QĐIII & V3CT vượt qua các đồn điền cao su Mimot, Krek và Chup, đến tận Tonle-Bet đông ngạn Sông Mékong ngang thành phố Kampong-Cham -nơi trú đóng Bộ Tham Mưu Quân Khu I của Tướng Fan Muong thuộc Quân lực Quốc gia Cao Miên (Forces Armées Nationales Khmères -FANK). Ở mặt trận phía nam, trên Liên Quốc lộ 1, các Chiến đoàn khác của Tướng Trí cũng tiến đến bên ngoài thành phố Sway-Riêng yểm trợ cho các đơn vị của Đại tá Dap Duon, Tỉnh trưởng của tỉnh phía đông Cao Miên này, giáp với tỉnh Tây Ninh của Việt Nam.
Suốt trong gần một năm hiện diện trên lănh thổ Miên, QLVNCH đă liên lạc với chính quyền quân sự Cao Miên, đưa khoảng trên dưới vài chục ngh́n đồng bào Việt Nam ở đó trở về nước. Chính Tướng Đỗ Cao Trí đă làm việc này. Nỗi bận tâm của Trung tướng trong các cuộc Hành quân Toàn Thắng trên lănh thổ Miên không chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng CSBV và các căn cứ hậu cần quan trọng của chúng ở biên giới Miên, hay chỉ để yểm trợ cho lực lượng quân đội non yếu của Tướng Lon Nol (Ông này là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miên, vừa làm cuộc đảo chính lật đổ Norodom Sihanouk trong tháng 3, 1970, khi Sihanouk công du nước ngoài) nhưng c̣n để giải thoát hàng chục ngh́n Việt kiều bị chính quyền địa phương của chính phủ Lon Nol nghi ngờ là Việt Cộng, bắt giam giữ. Trung tuần tháng 4, 1970, tôi được Trung tướng Trí cử sang làm Sĩ quan Liên lạc ở Tỉnh Sway-Riêng thay thế Đại tá Lê Đạt Công lúc đó là Trưởng Pḥng 2 QĐIII & V3CT. Tôi nhận rơ chỉ thị và hiểu rơ mối quan tâm của Trung tướng Trí về vấn đề Việt kiều ở Miên. V́ vậy, khi biết nhu cầu cần được yểm trợ của Đại tá Đap Duon, Tỉnh trưởng Sway-Riêng, và sau khi thoả măn được vài điều khá quan trọng, việc đầu tiên của tôi là yêu cầu Đại tá Đap Duon đưa đến thăm viếng số đồng bào chừng hai ngh́n người bị chính quyền Miên tập trung giam giữ ở Trường Tiểu học tỉnh lỵ. Trước cổng Trường này, tôi hứa với đại diện Việt kiều nạn nhân ở đó là sẽ tŕnh nguyện vọng muốn về nước của đồng bào lên Tướng Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT. Tôi đă làm như đă hứa.
Trong tháng 5, 1970, khi được Tướng Trí uỷ thác sang Kompong-Cham làm Sĩ quan Liên lạc ở Bộ Tư lệnh Quân khu I Cao Miên của Tướng Fan Muong, với một toán trên mười sĩ quan, hạ sĩ quan Pḥng 2, Pḥng 3, và Truyền tin của QĐIII & V3CT. Ở Komgpong-Cham, tôi cũng yều cầu Trung tá Ly Tai Sun, Tư lệnh phó của Fan Muong, nhất định phải đưa tôi đi xem nơi đồng bào Việt Nam bị họ bắt giam giữ. Hơn vài ngh́n Việt kiều, kể cả đàn bà và trẻ con, chen chúc dưới các đường giao thông hào khá sâu và rộng –mà người Pháp gọi là tranchées– trong khuôn viên chiếc sân rộng lớn của Bộ Tư lệnh Quân Khu trong thành phố. Việc này chỉ diễn ra vào buổi sáng sau khi tôi đă yêu cầu Tướng Trí cho Không Quân Việt Nam (KQVN), đánh giải tỏa Bộ Tư lệnh Quân Khu I, bị Tiểu đoàn J-16 Đặc công và các đơn vị chính qui của CSVN tấn công và bao vây từ đêm trước. Khi chỉ vào nhóm Việt kiều bị giam giữ dưới các giao thông hào đó, Ly Tai Sun nói với tôi bằng tiếng Việt: “Nếu hôm nay Ông không gọi được KQVN đánh giải cứu chúng tôi, th́ số người này sẽ bị bắn hết.” Đó là nguyên văn câu nói của tên Trung tá này. Từ ngày toán Liên lạc của chúng tôi đến Kompong-Cham, tôi tiếp xúc với Thiếu tá John Fernandez Tham Mưu trưởng, Ly Tai Sun Tư lệnh phó và Tướng Tư lệnh Fan Muong bằng tiếng Pháp, v́ tôi không biết tiếng Miên, tôi chưa hề nghe các Sĩ quan Miên này nói một câu tiếng Việt nào. Đột nhiên nghe Ly Tai Sun bật lên câu nói ghê tởm đó, tôi nói với hắn, “Th́ ra Ông là người Việt Nam, họ Lư. Ông nói vậy có nghĩa là các Ông sẽ giết hết số Việt kiều này và cả toán Liên lạc của chúng tôi, đúng không? Hắn cười. Tôi nói tiếp: “Chắc là Ông chưa lường được hậu quả lớn lao sau này.” Lư Tài Sun, hay Lư Đại Sơn –tên thật của Sun– không nói ǵ thêm. Tức tốc, tôi vào gặp Tướng Fan Muong nói việc Ly Tai Sun, và tôi gửi mật điện tŕnh mọi việc với Tướng Trí. Ngay buổi trưa đó, Trung tướng cho trực thăng, kèm theo quân Nhảy Dù, đón toán Liên lạc chúng tôi về Biên Ḥa. Có lẽ sau đó Tướng Fan Muong điện xin lỗi Trung tướng Trí. Dĩ nhiên vấn đề chính phải là chuyện giải quyết số phận của hàng chục ngàn Việt kiều bị chính quyền Miên giam giữ từ mấy tháng trước đó khi quân CSBV phối hợp với các đơn vị Cộng sản Miên tấn công các thành phố Miên và tạo ṿng đai bao vây Thủ đô Phnom Penh của Chính quyền Lon Nol. Mấy ngày sau, Thiếu tá Nguyễn văn Lư của Pḥng 2/BTL/QĐIII & V3CT và một toán Liên lạc khác được đưa trở lại Kompong-Cham. Không lâu sau đó Đại tá Trần văn Tư thay thế Thiếu tá Lư.
Trong tháng 5 đó, vấn đề nội bộ ở cấp cao giữa Trung tướng Đỗ Cao Trí và Tổng thống Nguyễn văn Thiệu hay Chính phủ VNCH, hay vấn đề ngoại giao giữa Việt Nam và Cao Miên diễn ra thế nào tôi không được biết, nhưng các cuộc hành quân thủy, bộ, của QĐIII và QĐIV đă diễn ra, đón đưa nhiều chục ngh́n Việt kiều ở Miên về nước trong các tháng 5, 6 và 7, 1970. Lúc đó tôi tiếp tục phục vụ ở Pḥng 2 QĐIII & V3CT, dưới quyền Đại tá Lê Đạt Công, khi ở Biên ḥa, khi ở Hiếu Thiện, rồi Tây ninh, luân phiên thay thế ông về t́nh báo chiển trường cho đến ngày Trung Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn.
Từ ngày Trung tướng Nguyễn văn Minh về thay thế nắm quyền Tư lệnh, nhất là sau tang lễ trọng thể của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí, t́nh h́nh ngoại biên và trong nội địa Quân đoàn III & V3CT có nhiều thay đổi lớn v́ hai lư do:
Thứ nhất, CSBV tăng cường đáng kể lực lượng của họ ở các mặt trận Lào và Miên với những cuộc phản công dữ dội ở Tchépone và suốt dọc Đường 9 đến biên giới Khe Sanh, cũng như các cuộc phản công ở Đường 7, từ các đồn điền cao su Chup, Mimot đến biên giới Việt-Miên, vùng Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt. Chiến đoàn 8 của Sư đoàn 5 Bộ binh (SĐ5BB) cũng tổn thất nặng và rút khỏi Thị trấn Snoul của Miên trong cuối tháng 5, 1971. Địa điểm duy nhất của Quân đoàn III c̣n duy tŕ trên lănh thổ Miên là căn cứ hỗn hợp Việt-Mỹ ở Thị trấn Krek, giao điểm giữa đường 7 và đường 22 đổ vào nội địa tỉnh Tây Ninh và cách biên giới chừng 12 km.
Thứ hai, Trung tướng Nguyễn văn Minh tánh người ôn nhu, chuộng pḥng thủ hơn tấn công. Ông không phải là một hổ tướng như Đại tướng Trí, nhưng là một túc tướng (tôi sẽ tŕnh bày ở phần sau). Hơn nữa, cục diện chiến trường đă thay đổi sau cuộc Hành quân Lam sơn 719 ở Hạ Lào. Tướng Minh lâm vào t́nh trạng bất cập, khó khăn trong vấn đề chỉ huy. Ông xuất thân Khóa IV Trường Vơ bị Liên quân Đà Lạt, trong khi hai vị tư lệnh Sư đoàn dưới quyền đều thuộc khóa đàn anh. Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu, Tư lệnh SĐ5BB và Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Tư lệnh SĐ18BB, cùng xuất thân Khóa III. Sau trận rút lui khỏi Snoul của Chiến đoàn 8, SĐ5BB, Tướng Hiếu được trao phó trọng trách khác. Đại tá Lê văn Hưng, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Cần Thơ, được Tướng Minh đề nghị thay thế Tướng Hiếu làm Tư lệnh SĐ5BB. Ít lâu sau, Tướng Lâm Quang Thơ cũng được Đại tá Lê Minh Đảo thay thế.
Tuần lễ đầu tháng 6, 1971, tôi được lệnh thuyết tŕnh t́nh h́nh các đại đơn vị địch trong lănh thổ và ngoại biên – mà QĐIII & V3CT phải đương đầu – cho Đại tá Lê văn Hưng, tân Tư lệnh SĐ5BB. Nội dung bài thuyết tŕnh không khác ǵ nhiều so với những ǵ tôi viết trên đây. Dĩ nhiên là không có phần nói về các vị Tướng Tư lệnh Trí, Minh, Hiếu và Thơ. Tôi nói về t́nh h́nh của các đại đơn vị CSBV và TWC/MN đang hoạt động ở biên giới Việt-Miên sau khi QLVNCH rút ra gần hết khỏi lănh thổ Miên, chỉ c̣n duy tŕ cứ điểm cuối cùng ở Krek. Tôi tŕnh bày rơ về qui luật tác chiến, quân số, trang bị, vùng hoạt động của từng đại đơn vị CSBV & TWC/MN theo trận liệt và tin tức mới nhất mà chúng tôi có được. Sau cùng là phần ước tính về hoạt động của các đại đơn vị này và chủ trương của TWC/MN trong thời gian tới. Tôi cho rằng nên giải tỏa áp lực địch có khuynh hướng tập trung để dứt điểm căn cứ Krek v́ lúc đó chúng tôi ghi nhận TWC/MN đang hiện diện trong vùng Snoul, và các căn cứ hậu cần của chúng đang hoạt động trở lại ở vùng biên giới B́nh Long và Tây Ninh. Đây là bài thuyết tŕnh thường lệ ở cấp Vùng Chiến Thuật (là cấp Quân Khu cũ) về “t́nh h́nh địch”. H́nh như Đại tá Hưng nghe rất rơ, không hỏi một câu nào. Ngược lại, khi bài thuyết tŕnh vừa chấm dứt, Đại tá Hưng quay sang Trung tướng Minh, và nói: “Thưa Trung tướng, Dưỡng là bạn cùng Khóa, cùng Trung đội với tôi.” Sau đó, ông đứng lên và bước thẳng đến bục thuyết tŕnh bắt tay, ôm lấy tôi. Đó là dấu hiệu thân thiện đầu tiên khi gặp lại sau hơn 15 năm kể từ khi tốt nghiệp và rời Quân trường Thủ Đức vào tháng 1, năm 1955. Ngày ra trường, chúng tôi đều mang cấp bậc Thiếu úy. Ở buổi thuyết tŕnh này, tôi chỉ là một Thiếu tá, nhân viên của một Pḥng 2 Quân đoàn, c̣n ông là Đại tá, tân Tư lệnh của một Sư đoàn. Địa vị trong quân đội cách xa nhau nhiều lắm!
(*) Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả