Results 1 to 2 of 2
  1. #1
    Anamit
    Guest

    Tài liệu đặc biệt: CỤ TRẦN TRỌNG KIM NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆT MINH

    Thủ bút Trần Trọng Kim
    Thư gửi Hoàng Xuân Hăn năm 1947


    Nguyễn Đức Toàn
    Viện Nghiên cứu Hán Nôm





    Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đă để lại nhiều công tŕnh nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ b́a ngoài gấp đôi đă bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô t́nh rơi ra.

    Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đ́nh GS. Hoàng Xuân Hăn. Bức thư này có lẽ đă đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ b́a của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện.

    Đối chiếu với tập hồi kư Một cơn gió bụi của cụ Trần đă được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, v́ những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi kư đă nêu trên.

    Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im ĺm trong một tập sách cũ. Thấy rơ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.

    Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt.

    Nội dung như sau :

    Sài G̣n, ngày 8 tháng 5, năm 1947 (1)

    Ông Hăn (2),

    Hôm ông Phan văn Giáo (3) đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rơ sự t́nh và tôi đă phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài (4) xem.

    Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái t́nh thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đă dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, th́ ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đă về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự Ngài về chắc là không có.

    Tôi sở dĩ về đây là v́ Ngài và tôi ở bên ấy(5), hoang-mang chẳng biết rơ ǵ cả, nhân có ông Cousseau(6) do ông D’argenlieu(7) sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn ḷng đổi thái-độ để cầu ḥa-b́nh. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ư tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc ǵ ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, th́ ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của ḿnh, nếu không th́ lương-tâm ta cũng yên, v́ đă cố hết sức mà không làm được(8).

    Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây(9), không gặp ông D’argenlieu, v́ ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện th́ tử-tế lắm và đồng ư hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền(10) và Khiêm(11), họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng măi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ư [tr1]cũng không hỏi nữa.

    Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy ǵ là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng v́ thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, th́ cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hăy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài(12).

    Dù sao, tôi cũng không ân-hận v́ việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rơ sự thực. Biết rơ sự thực th́ cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm ǵ cả. Nếu thời cục yên-ổn th́ tôi về ngoài Bắc, nếu không th́ xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.

    C̣n về phương diện người ḿnh, th́ tôi thấy không có ǵ đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói v́ ḷng ái-quốc, nhưng cái ḷng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là v́ địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mă lẫn nhau.

    Tôi về đây chỉ gặp Thảo(13), Hoè(14) và Sâm(15). Tôi bảo Sâm nên t́m cách đoàn kết nhau thành khối, th́ mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ư kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất th́nh-ĺnh xuất hiện ra Mặt trận quốc gia(16), mà không cho tôi biết. Măi mấy hôm nay mới đến nói rằng v́ sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của ḿnh. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến(17), họ [tr2] có đồng ư, th́ việc ông làm họa may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra ǵ cả mà ông đă vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đă trót rồi, đă ném lao th́ phải theo lao.

    Tôi thấy t́nh thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà ḿnh th́ thân cô thế cô, không làm ǵ được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là:




    (Thân tại Nam phiên vô sở dự,
    Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.

    = Thân ở cơi Nam không tham dự việc chính trị,
    Ḷng đă ôm trăm mối lo lắng lại thêm ngh́n điều ưu lự)

    Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng v́ chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái tṛng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đă dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, th́ họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.

    Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và t́m cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, th́ có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, th́ có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước ḿnh, V.M phải chịu cái tiếng (Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ư kiến riêng của tôi, c̣n các ông nghĩ thế nào tôi không biết.

    Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh(18) bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:

    Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ

    Đất khách mơ-màng những thở-than,
    Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
    Ngắn dài giọt lệ ḷng thương bạn,
    Căm giận quân thù đă tím gan.

    Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may v́ duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] th́ cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.

    Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi c̣n một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19 gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có c̣n nữa không. Nếu c̣n, th́ ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công tŕnh mất mấy năm trời mà mất đi, th́ tiếc quá.

    Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu(20), xem có ai coi giữ cái nhà đă bị đốt(21) đó không. Nếu có người coi, th́ nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có c̣n ǵ nữa, th́ nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. C̣n cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm th́ nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong c̣n có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, v́ tôi đă gặp Khiêm ở đây rồi.)(22)

    Ông có biết tin ông Bùi Kỷ(23) bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức ǵ về đường nhà ông Bảng cả.

    Nhà tôi và Chương(24) đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm ǵ?

    Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc
    chắn vào đây, đưa đến cho tôi th́ hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.

    Nay kính thư
    Trần Trọng Kim [tr4]

    Chú thích :

    1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.

    2. Ông Hăn: Chỉ Hoàng Xuân Hăn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hăn c̣n đang ở Hà Nội.

    3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.

    4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đă thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, th́ ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)

    5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra th́ Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Lại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 th́ về Hà Nội, không tham gia việc ǵ nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc t́m bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.

    6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ư người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)

    7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 th́ về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)

    8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...

    9. Hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài G̣n. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài G̣n, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”

    10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hăn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)

    11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”.

    12. Trần Trọng Kim lúc này đă không c̣n giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ư đồ thành lập một chính phủ theo ư muốn của người Pháp.

    13. Thảo : Luật sư Trịnh Đ́nh Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài G̣n, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà b́nh Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.

    14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lư văn pḥng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông t́m cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi kư “Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi kư này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)

    15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội kư giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng v́ những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện th́ cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)

    16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đă tiếp xúc với Bảo Đại và đă thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xă Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đă gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc"và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đă thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.

    17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
    18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.

    19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công tŕnh nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)

    20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi,Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)

    21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quư, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu v́ lẽ ǵ mà họ đốt nhà tôi, hoặc là v́ đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc v́ Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bơ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.

    22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi v́ đă nhờ được rồi.

    23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm :Truyện Thuư Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)

    24. Chương : Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd).

    24. Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ tra cứu được 1 người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Đến hôm 9.2.2014, bài viết nhận được phản hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều Mỹ cung cấp thông tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức bà "Trần Thị Diệu Chương, v́ trong thư Cụ Kim thường kêu các Cụ ngang tuổi là Ông… mà không nói tên trống không như thế này, vả lại Cụ viết“nhà tôi [tức là vợ của Cụ] và Chương đều có lời chúc ông bà…” th́ chắc chắn phải là người trong gia đ́nh Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn c̣n sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang tuổi ông Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần Diệu Chương, v́ Cụ Bùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở dĩ tôi dám quả quyết như thế này là v́ tôi là người trong họ của Cụ bà Trần Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân Hăn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong họ th́ mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho anh ở trên." (trích thư phản hồi của bà Phạm).

    T
    ôi xin sửa lại chú thích này theo ư kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà.


    _____________
    Thư mục tham khảo
    1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
    2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đ́nh Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
    3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. S,.1982
    4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987
    5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hăn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)

    Phụ lục ảnh nguyên bản:
    .





  2. #2
    Senior Member Quada09's Avatar
    Join Date
    Sep 2015
    Posts
    2,275
    Post Thanks / Like



    Một tài liệu lịch sử hiếm hoi, soi sáng thêm bối cảnh nhiểu nhương của thời kỳ quyết định vận mạng của dân tộc.

    Riêng với ḿnh th́ là 1 tài liệu vô giá v́ cụ Trần trọng Kim cho biết thêm hoạt động của 1 người rất thân ở...... Sóc Trăng !!!

    Merci Mít....

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •