Trước khi Sài G̣n sụp đổ, tôi đă có một thời gian dài sống tại Lăng Cha Cả, gần nhà thờ Tân Sa Châu. Để đến được trung tâm Sài G̣n, từ Lăng Cha Cả phải đi qua những con đường Trương Minh Kư – Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sĩ). Ở đoạn chân cầu Trương Minh Giảng có một cái chợ mang cùng tên và sau này, ở bên kia đường, Đại học Vạn Hạnh của Phật giáo được xây dựng. Có một thời, đây là nơi nhà thơ Bùi Giáng thường xuất hiện. Phan Nhiên Hạo trong bài viết Bùi Giáng Như Tôi Thấy có nhiều chi tiết khá lư thú:


Ông là một nhân vật khá nổi đ́nh đám ở khu vực cầu Trương Minh Giảng. Có những buổi chiều đông đặc xe cộ, tôi ngồi uống cà phê bên đường nh́n ông đứng làm cảnh sát giao thông nơi đầu cầu Trương Minh Giảng. Ông đội một chiếc quần lót đỏ chói trên đầu, áo quần te tua, tay cầm chiếc roi tre dài, xoay ngang xoay dọc chỉ đường cho xe cộ. Người ta đi qua, cố gắng tránh xa ngọn roi tre dài, nhưng không ai chú ư đến ông. Ông loay hoay như vậy giữa ḍng xe cộ hàng giờ liền, rồi chán, bỏ đi.


Có lần tôi thấy ông mặc một chiếc áo chim c̣ rộng thùng th́nh. Chiếc áo rất mới có vẻ hàng ngoại đắt tiền, chắc ai đó ở nước ngoài về tặng ông. Nhưng chỉ vài hôm đă thấy chiếc áo trở nên cũ bẩn. Đôi khi tôi bắt gặp ông ngồi dưới hành lang trong sân Vạn Hạnh, chỗ gần cổng. Ông nửa ngồi nửa nằm, tựa lưng vào cột. Dưới bóng cây phượng xanh mát, những lúc như vậy trông ông có vẻ tỉnh và buồn. Ông ngồi một ḿnh, ánh mắt sau cặp kính cận dày nh́n xa xăm ra ḍng xe cộ bên ngoài cổng trường.


H́nh như Bùi Giáng không chỉ lang thang trong “lănh địa” chợ Trương Minh Giảng và trường Vạn Hạnh. Một lần tôi thấy ông ở một chỗ khác, khá xa “nhà”. Hôm đó trời mưa to, tôi đứng chơi trên lầu nhà một anh bạn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đối diện một cái chợ, không nhớ rơ là chợ Vườn Chuối hay chợ Nguyễn Thiện Thuật. Trước chợ có một đống rác cao nghệu, đen x́, bục ướt và rất hôi thối. Bùi Giáng đang đứng căi nhau với một bà bán hàng ngay cạnh đống rác.


Chắc ông phá phách ǵ nên bị bà này mắng xối xả, c̣n ông th́ chỉ la ó những câu vô nghĩa để đáp lại. Nhưng ông cũng hoa tay múa chân vẻ khá hung hăng. Cuối cùng người đàn bà xô mạnh Bùi Giáng. Ông ngă chỏng gọng vào đống rác đen, miệng la bai bải. Cặp kính cận dày và cái thân h́nh lèo khoèo trong tư thế nằm ngửa khiến ông trông giống một con bọ ngựa bị bẻ chân. Dưới trời mưa tầm tă, ông có vẻ không gượng dậy được v́ đống rác quá nhăo. C̣n người đàn bà vẫn tiếp tục chửi bới.


Tôi cũng đă thấy Bùi Giáng trong một trường hợp khác, rất đáng nhớ. Một buổi sáng chỉ mới khoảng 6 giờ, sinh viên kư túc xá bỗng nghe tiếng la hét từ phía dăy pḥng các sinh viên nữ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe những tiếng la như vậy khi có trộm lẻn vào bên khu nữ. Tôi vội chạy ra hành lang. Nh́n qua bên dăy nữ, thấy các mái tóc dài tḥ ra rồi thụt vào, hết người này đến kẻ khác. Tiếng la oai oái vẫn không ngớt, nhưng bây giờ xen lẫn tiếng cười khoái trá của các sinh viên nam. Nh́n xuống, tôi thấy giữa sân trường, Bùi Giáng đang trong tư thế trồng chuối, nhưng hoàn toàn... khỏa thân, quần áo cởi hết ra để bên cạnh. Mấy sinh viên bảo vệ từ ngoài cổng vội chạy đến, nhét quần áo vào tay ông lôi ra khỏi sân trường. Thật là một buổi “điểm tâm” đặc biệt cho cả kư túc xá.




Theo thầy Thích Nguyên Tạng (chùa Pháp Vân, Gia Định, Sài G̣n), Bùi Giáng tự ghi tiểu sử của ḿnh cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày 10/11/1993 như sau:
  • 1926 - được bà mẹ đẻ ra đời
  • 1928 - bị té bể trán, vết sẹo c̣n nguyên kỷ niệm, hai năm trời chết đi sống lại
  • 1933 - bắt đầu đi học a, b, c... trường làng tại Thanh Châu với Thầy Cù Đ́nh Qúy
  • 1936 - học trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn
  • 1939 - ra Huế học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần Đ́nh Đàn, Hoài Thanh Nguyễn đức Nguyên, Đào duy Anh, vân vân
  • 1940 - về Quảng Nam chăn ḅ
  • 1942 - trở ra Huế, v́ nhớ nhung gái Huế
  • 1949 - nhập ngũ, bộ đội công binh. Hai năm sau giải ngũ
  • 1952 - vào Sài g̣n, 1955 (57) khởi sự viết về Nguyễn Du và một vài nhận xét về Truyện Kiều và một vài nhận xét về Bà Huyện Thanh Quang, một vài nhận xét về Chinh Phụ Ngâm ... (TÂN VIỆT xuất bản)
  • 1957 - TÂN VIỆT xuất bản: giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, giảng luận về Chu Mạnh Trinh, giảng luận về Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị.
  • 1969 - Bắt đầu điên rực rỡ
  • 1970:
    1. 1. Lang Thang Du hành Lục Tỉnh (Khách sạn Long xuyên Bà Chủ cho ở đầy đủ tiện nghi không lấy tiền)
    2. 2. Gái Châu Đốc Thương yêu và Gái Long Xuyên Yêu dấu
    3. 3. Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)

  • 1971 - 75 - 93:
    • Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
    • Rong chơi như hài nhi (con nít)
    • Được gia đ́nh ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh.
    • Kính dâng Kim Thúy, Kim Hồng, Kim Hoa, đôi lời rốt cuộc.....
    • B́nh sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)
    • Do đâu mà ra được như thế?
    • Đáp: Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ đi về tập họp tại Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh Xá Trung Tâm và Pháp Vân và xiết bao Chùa Chiền Miền Nam nước Việt, không biết nói sao cho hết.



Trong tiểu sử tự ghi, ông có nhắc đến đích danh một vài người. Tuy nhiên, những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn vinh như là ‘mẫu thân sinh đẻ ra ḿnh’, tuyệt không có chút ǵ là quan hệ nhục thể của t́nh yêu nam nữ, nhớ mong, hờn ghen, đau khổ, hẹn ḥ, mộng mơ như trong thơ t́nh của những nhà thơ khác.Em vui - nước ngọt xuôi ḍng
Em buồn - toàn diện đèo ḅng buồn theo
Em vui - tinh thể bọt bèo
Em buồn - toàn diện thu vèo sang đông
Ngổn ngang g̣ đống chất chồng
Em về vĩnh viễn đêm mồng một giêng
Em đi thanh thản ngọc tuyền
Anh ngồi nốc rượu nốc phiền thiên thu
Kim Cương Nương Tử tuyệt trù
Thơ thần chất vấn dặm cù t́nh điên
(Kim Cương Nương Tử)
Ngày xưa, nghệ sĩ Kim Cương được giới hâm mộ gọi là ‘Kỳ nữ’ và Bùi Giáng cũng là một trong những người đă ‘mê Kim Cương như điếu đổ’. Nói về mối t́nh si của Bùi Giáng dành cho ḿnh, Kim Cương đă thổ lộ:


Đúng hơn đó là mối t́nh thơ, như một thi sĩ cần một nàng thơ, mà nàng thơ th́ bao giờ cũng nên là một h́nh ảnh không chạm tới được. Thi hứng được nuôi sống bằng t́nh yêu bị bỏ đói là vậy. Bùi Giáng là một thiên tài, nhưng ngô nghê say say tỉnh tỉnh. Nói là yêu th́ bảo sao yêu được ông nhà thơ liêu xiêu, ḿnh treo trái cây ṭng teng. Hôm nào vui th́ làm thơ tặng, tôi c̣n giữ cả chục bài, hôm th́ ổng qua ổng... chọi đá. Thơ th́ tôi cất giữ, người thơ tôi trân quư. Ngày ổng mất tôi chỉ biết cám ơn anh đă là một thi sĩ thiên tài, và đă cho tôi một mối t́nh đơn phương chung thủy suốt 40 chục năm trời.



Đối với Bùi Giáng, mối t́nh si của ông mang một sắc thái Tiên chứ không phải Tục:Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
(Kính thưa)
Kim Cương biết Bùi Giáng lúc khoảng 19 tuổi khi c̣n theo đoàn cải lương của bà Bảy Nam. Thật ra, ông chú ư đến KC trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh - Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo KC: “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị”. KC trả lời: “Ừ, th́ mời ổng tới”.


Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có “điên điên” như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời KC lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi lại cầu hôn... Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái ǵ đó “kỳ kỳ”, bất b́nh thường, nên bà sợ.


Đeo đuổi măi không được, Bùi Giáng thở dài nói: “Thôi, chắc cô không ưng tôi v́ tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn KC mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim Cương ngần ngừ: “Thưa anh, chuyện t́nh cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn ǵ đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng tính...”. Ư bà muốn hoăn binh. Nhưng Bùi Giáng đă đùng đùng dắt cháu tới. Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới... 8 tuổi. KC hết hồn. Thôi rồi, ổng đúng là không b́nh thường!


Bùi Giáng cũng bày tỏ ḷng thương kính ni sư Trí Hải (1938 - 2003), có tên đời là Tôn Nữ Phùng Khánh, nên thường gọi bà là ‘Mẫu thân Phùng Khánh’. Sau khi ông mất, Ni Sư Trí Hải có giảng cho Tăng Ni Phật tử về thâm nghĩa trong thơ ca của Bùi Giáng trong nhiều buổi giảng.Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ c̣n đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
(Thơ điên)
Có lần ông nói: “Phùng Khánh Mẫu Thân là mẹ Việt Nam, tôi là con dân Việt Nam. Vậy th́ tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, th́ chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc là người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, th́ chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?” (Đặng Tiến, Bùi Giáng Thi Sĩ Kỳ Dị


Thương quư ni sư Trí Hải, ông thương lây qua các ni cô khác, nhất là các ni cô ở chùa Dược Sư, nơi mà ông thường lui tới nghỉ chân, được ăn cơm chay lại c̣n được ĺ x́ tiền tiêu vặt. Cảm nghĩa, cảm t́nh ông đă coi chùa Dược Sư là thơ mộng nhất, các ni cô là người hiền thục nhất, đẹp nhất trong giới nữ lưu.Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nh́ ở tận cuối mùa lang thang
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân

Hai chữ ‘tần thân’ nhiều người không hiểu. Tự điển Hán Việt giải thích: Tần là luôn luôn và Thân là rên rỉ. Đọc bốn câu thơ lục bát của ông, mới thấy được cái tài hoa, cái xuất khẩu thành thơ, cái uyên bác trong tứ thơ của ông. Có lẽ chỉ thi sĩ ‘Bùi Bàng Giúi’ mới có thể giảng giải hết thâm ư của chính ḿnh.


Theo Vơ Đắc Danh, hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn c̣n trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3. Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi:


“Bệnh tái phát từ tháng 4/1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ư tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ư kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá trọng đại, có ư nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3/1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quư báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...”


Cung Tích Biền kể: “Khoảng đầu thập niên 70 người ta đưa ông vào nhà thương điên Biên Ḥa chữa cái bệnh ‘đứng ngă ba nh́n ra ngă bảy’. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường t́nh: ‘Nhà thương Biên Ḥa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!’. Ông trả lời tỉnh queo: “Chữa trị quái ǵ đâu. Chẳng là ở ngoài ḿnh thấy ḿnh điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra ḿnh là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn ḿnh nhiều. Do vậy mà ḿnh tự động thôi điên”.Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lí nhí thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
C̣n đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu c̣n thêm điên rồ
(Người điên uống rượu)


Ông điên từ bữa hôm qua
Tới hôm nay nữa gọi là ba hôm
Thanh thiên về dự hội đàm
Thành thân thiên hạ muôn vàn mai sau
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông điên)
‘Ông Điên’ đă tự viết về ḿnh như sau: “Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ điên, th́ trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy”.Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
Đời xưa đất đá đều đờ đẫn điên
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi
Cũng đành chấm dứt ĺa đời hết điên
(Dzách)

Tiên hay Điên? Phải chăng Điên là một cách hành Thiền của Bùi Giáng? Và Điên cũng là cách né tránh đối diện với thực tại, thực tại thời chiến tranh Việt Nam, trước và sau 1975? Ta không thấy Bùi Giáng bày tỏ bất cứ chính kiến nào về thực tại đó như thơ văn đương thời. Bài thơ Về Quảng Nam được viết bằng ngôn ngữ đời thường thể hiện rơ thái độ né tránh ấy:Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng Nam
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng B́nh...
T́m người bạn cũ không ra
C̣n phong cảnh cũ khác xa những ngày...
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ c̣n dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên h́nh ảnh đậm đà
C̣n trong kỷ niệm bao la tuổi nào...
Ngắm nh́n. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
(1995)


Nguyễn Minh Vương viết về Bùi Giáng: “Vậy Bùi Giáng là ai? Và ai là Giàng Búi? Câu trả lời đă được các bậc nguyên lăo, những người đă cùng lăn lộn với lăo trong cơi trần ai khổ lụy này giải mă. Lư lẽ của các vị thật hợp t́nh hợp lư. Với ‘người thơ’, tác giả đă nói lên cái tính b́nh dân của Lăo Bùi, với ‘Cuồng Bồ tát’, tác giả khác đă nói lên tầm mức cứu độ chúng sinh của Giàng Búi thị hiện trong h́nh tướng của người điên, với ‘thi sĩ kỳ dị’, tác giả cho thấy sức sáng tác kinh hồn bạt vía cũng như những chiêu thức (ngôn từ) mà ông dùng trong thơ th́ xưa nay chưa có ai nghĩ bàn đến. Có thể nói, Lăo Bùi đă được nói rất nhiều, viết cũng rất nhiều, bàn cũng chẳng thiếu, thậm chí nhà văn Phạm Thị Hoài c̣n đề xuất một giải thưởng văn học mang tên Bùi Giáng trên talawas.org để tôn vinh. Như thế, kẻ hậu sinh này [Nguyễn Minh Vương] muốn nói, muốn viết về ông, cũng chỉ là múa ŕu qua mắt thợ, thấy người sang bắt quàng làm họ”.


Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn nói: “Viết đôi lời hay nhiều lời về Bùi Giáng không bằng đọc Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng th́ thật vui mà thật khó vậy!”.


Bùi Giáng là Tiên, là Bụt? Khi ai chửi ông cũng ừ, mà ai khen ông cũng ứ ư… Chẳng thèm phản ứng lại người đời với những ngôn từ như ḥn đá ném vào ông.


Ông chỉ là ‘người b́nh thường’, b́nh thường đến nỗi ông không ư thức được sự b́nh thường đó và cũng không đ̣i hỏi phải thế này, phải thế kia mới b́nh thường. Ấy cũng chính là ư nghĩa của công án “B́nh thường tâm thị đạo”.


Ông là Tiên, là Bụt v́ ông không thách thức, không ham muốn chinh phục cuộc đời, ông chỉ là một đứa trẻ con mơ mộng bay đến cung trăng hay bay lên đỉnh Everest để đùa vui với non nước trong ngần, phiêu bồng trăng mọc non ngàn lá sương.


Ông là ‘người cơi trên’ v́ dám chửi cha bọn nho hương nguyện đầu xanh c̣n chưa ráo máu mà chuyên gùn ghè bám riết, nhe răng hút máu xương tinh thể tài hoa, thị hiện trong sát na thống ẩm cuồng ca và thậm chí, nếu cần thí mạng ḿnh để đổi lại.Máu xương tinh thể thiên tài,
Da xương làm chiếc quan tài chôn thây,
Lũ người trước tớ sau thầy,
Nhai văn nhá chữ miệng đầy máu xương

Nhưng ông cũng là quỷ sứ khi ông chửi bới, rượt đuổi những đứa trẻ trêu chọc ông bằng những lời không ai hiểu được của kẻ điên. Ông là quỷ khi ông mơ mộng được làm t́nh với Nương Tử Kim Cương. Phan Nhiên Hạo viết trong bài đă dẫn:


“Ông dùng ngón trỏ và ngón giữa móc vào nhau tạo thành một dấu hiệu tục tĩu mà trẻ con hay làm. Tay kia cầm một quả chanh, không biết kiếm đâu ra. Ông cố nhét quả chanh vào giữa cái h́nh ô van tạo nên bởi hai ngón tay, miệng lẩm bẩm: “Đây là con cặc nhét vô cái lồn Kim Cương. Con cặc to quá nhét vô không được (!)”.


Ông là ma trong dáng vẻ khùng điên si cuồng đến nỗi người ta hay lấy ông làm biểu tượng để hù dọa con nít. Con ma Giàng Búi lúi húi loanh quanh dạo khắp nẻo phố phường, sẵn sàng đốp chát đến cùng với con mẹ hàng tôm hàng cá.


Lê Bích Sơn có cả một kư ức về Bùi Giáng qua bài viết “Bùi Giáng & Tṛ chơi bán dùi”:


Khác với những ǵ người ta nói về Bùi Giáng, cái tên Bùi Giáng đến với hắn [Lê Bích Sơn] bằng tất cả những cảm giác rùng rợn và lo sợ… mỗi khi phạm phải một sai lầm. Bùi Giáng trong hắn đích thực là
Ông Ba Bị”, nhân vật đen đủi, gớm ghiếc với chiếc bị lớn trong tay chuyên bắt con nít bỏ bao, trong những câu chuyện răn đe của người lớn…


Năm bảy, tám tuổi ǵ đó, lần đầu tiên hắn
diện kiến” Bùi Giáng trong một lần tan học. Bùi Giáng mặc áo quần rách tả tơi, gầy đen, tay cầm một cây gậy quấn vải có cột vài chai lọ trên đó, và dĩ nhiên không cầm chiếc bị nào để bắt cóc con nít… Ông Ba Bị Bùi Giáng hiền hơn những ǵ hắn nghe người ta kể!


…Sau đó, hắn tham gia cùng lũ trẻ trong vùng
chơi tṛ Bùi Giáng”. Tṛ chơi vừa thích thú, vừa lo âu sợ hăi lạ lùng. Bọn trẻ thi nhau t́m đến gần ông rồi bất chợt hô to: Bùi Giáng…bán dùi, Bùi Giáng…bán dùi…” rồi xô nhau mà chạy… Không biết ông có đuổi theo phía sau hay không, nhưng chơi tṛ Bùi Giáng” quả là một điều thích thú của lũ trẻ ngày đó.


Thời gian sau, bọn trẻ không c̣n thấy h́nh bóng Bùi Giáng nữa. Đoạn đường từ cầu Diêu Tŕ đến Ngă Ba Phú Tài vắng bóng ông. Người ta thay nhau truyền những
bản tin”, đại loại như: Bùi Giáng do C.I.A cài lại, và đă được “bốc” đi Mỹ tháng trước…”, hoặc Bùi Giáng đă được một nhóm người vượt biên “tóm cổ” lên một chiếc tàu ra đi từ cảng Quy Nhơn…để thông dịch”; v.v… Nói chung, Bùi Giáng đă rời khỏi Quy Nhơn để… đi Mỹ.


Bùi Giáng không đi Mỹ như người ta đồn. Bùi Giáng vẫn c̣n sống và sống rất mănh liệt ngay trên mảnh đất Sài G̣n vừa đổi chủ. Thỉnh thoảng, người ta nh́n thấy Bùi Giáng ”làm cảnh sát giao thông” giữa cầu Trương Minh Giảng; có lúc ông trú mưa dưới mái hiên Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Sư phạm (Đại học Vạn Hạnh trước 1975); đôi khi ông đến thăm chư tăng ni và các thiền viện qua những câu chuyện kể của quư thầy… Bùi Giáng bụi bặm, gầy g̣, nghêu ngao, tự tại:“…Sài G̣n Chợ Lớn rong chơi,
Đi lên, đi xuống đă đời du côn…”

Xét cho cùng ông chẳng hề ‘du côn’ chút nào! Phần ‘du côn’ ông đă ‘khiêm tốn’ ‘nhường lại’ kẻ khác...Ở đời sáng uống cà phê
Quán trong hẻm nhỏ như quê quán nhà
Ngoại ô thành phố phồn hoa
Ấy Sài G̣n ấy thiết tha bấy chầy.



Thơ ông không thiếu những từ ‘lạ’ như ‘hạ quyết tâm’, ‘bốc lột’... chỉ xuất hiện sau ngày Sài G̣n sụp đổ:Ngày nay hạ quyết tâm rồi
Về trần thế bốc lột người thế gian
T́nh yêu đă lỗi muôn vàn
Chỉ c̣n bốc lột vạn ngàn máu tim…
Mỗi năm mồng một ra giêng
Con dẫn ông dạo suốt miền vực khu
Khu này B́nh Thạnh quận khu
Khu trên G̣ Vấp tuyệt trù lưu phong
Dưới kia Bà Chiểu Lăng Ông
Lên xe buưt thẳng dông chơi Sài G̣n.


Sau khi Sài G̣n thất thủ, người ta cũng bắt gặp một Bùi Giáng quẩy trên vai bó củi, đầu kia th́ loảng xoảng nồi niêu soong chảo… Một h́nh ảnh khiến ta liên tưởng đến những người từ vùng Kinh tế mới trở lại đô thành. Bao h́nh ảnh chợt thoáng qua như một đoạn phim ngắn về cuộc sống của người Sài G̣n. Đời trở nên chật vật, trật tự xáo trộn, kinh tế khó khăn. La Toàn Vinh viết về Bùi Giáng sau 1975:


Đến những ngày sau 1975, Bùi Giáng vẫn cứ làm con người Bùi Giáng. Con người nhân chứng cho cảnh đời, cho bao bể dâu biến đổi và nếu như cuộc đời ví như một vở kịch th́ người thắng cuộc lại là những người đóng trọn vai tuồng một cách xuất sắc.


Cuộc đời Bùi Giáng, về cuối, rất ngang tàng. Đă có rất nhiều giai thoại về ông. Người ta kể, có lần nhà thơ Huy Cận từ miền Bắc vào Nam, nói chuyện ở Cao đẳng Mỹ Thuật, Bùi Giáng xuất hiện, đi tới đi lui ở trước cổng trường và chửi đổng: “Mẹ mày Huy Cận, mẹ mày Huy Cận.” Sinh viên vào báo cho ban giám hiệu, nhưng tất cả đều im lặng.


Họa sĩ đồng hương Hồ Thành Đức, phu quân họa sĩ Bé Kư, có lẽ là người biết rất nhiều về Bùi Giáng trong giai đoạn ‘hậu giải phóng’. Đại khái chuyện như sau:


Huy Cận, Thứ Trưởng bộ văn hóa, có bài thơ được Bùi Giáng sửa lại khi mang ra giảng dạy. Huy Cận biết được, phục tài sửa thơ của họ Bùi nên lúc vào miền Nam đă cho người t́m Bùi Giáng để thăm. Nhưng, sau 75 Bùi Giáng đă thành ‘Chủ Cái Bang’, biết đâu mà t́m. Nhân viên ông Thứ Trưởng t́m đến nhờ họa sĩ Hồ Thành Đức, bởi sau 75 nơi ở của họa sĩ xem như chỗ văng lai của nhiều nhân vật văn nghệ miền Bắc.


Anh Đức chạy kiếm nhà thơ và khuyên ông: “Anh à, đến thăm ông Thứ Trưởng, anh phải ăn mặc cho đàng hoàng, về nhà em tắm rửa rồi lấy áo quần em thay”. Bùi Giáng không nghe cứ mặc nguyên áo quần rách rưới hôi hám, ai đời quần xà lỏn mà thắt cà vạt, lại ṭn ten trên người lon hũ linh tinh.


… Huy Cận ra tận cửa đón Bùi Giáng, nhưng thoạt nh́n đă phải quay đi v́ không thể nhịn được cười. Huy Cận gọi nhà thơ là Tiên Sinh, chuyện văn thân mật. Cuối cùng ông hỏi Bùi Giáng:


- Tiên Sinh có cần giúp đỡ ǵ không xin cho biết?


Bùi Giáng nói như thật:


- Ông Thứ Trưởng giúp cho mấy chữ để tôi tŕnh công an chớ họ gặp là đánh tôi bầm ḿnh bầm mẩy.


Huy Cận viết cho Bùi Giáng mảnh giấy đại ư: Nhà thơ Bùi Giáng, bạn tôi, ông ta có tính hay đi lang thang, các anh em công lực thông cảm giúp đỡ.


Mảnh giấy như lá bùa hộ mệnh, anh Đức bảo đưa photo để cất bản chính, nhưng Bùi Giáng không chịu. Mấy bữa sau, gặp lại, anh Đức hỏi:


- Sao công an c̣n khó dễ với anh không?
- Nó vẫn đánh tao học máu.
- Sao không tŕnh giấy cho họ?
- Th́ tao chưa kịp lấy giấy ra nó đă đánh rồi.


Lai có chuyện đồn một hôm nhà thơ lang thang trên đường Lê Lợi, gặp một phụ nữ người Âu, ông thản nhiên… bóp vú cô đầm. Công an can thiệp, ông nói tỉnh bơ: “Tôi chỉ muốn thử xem hai bầu vú Liên Sô có c̣n nuôi nổi Việt Nam không”.



Một lần khác trong chợ An Đông, ông giật một chiếc xe đạp của bà bán dạo trên đường. Bà hàng đuổi theo, ông trả lại và nói: “Mất cả nước th́ không la, mất cái xe đạp lại la oai oái”!



Thơ lục bát của Bùi Giáng cũng gần gũi như lục bát của Đoạn Trường Tân Thanh, và gần như ca dao, có cả thơ đùa cợt kiểu ca dao. Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ Lăng Mạn 1930-1945. Cảm hứng chính của thơ Bùi Giáng là cảm hứng lăng mạn có màu sắc Thiền. Bùi Giáng có rất ít bài thơ nói về thực tại bằng ngôn ngữ đời thường:

Tôi gọi B́nh Dương là B́nh Dưỡng
Dượng d́ ơi thương nhớ cháu nhiều không
Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở
Cần Thơ ơi… cần thở đến bao giờ?


Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ h́nh hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
C̣n hai con mắt khóc người một con

(Mắt buồn)


Chính câu cuối cùng trong bài Mắt buồn đă gợi ư cho nhạc Trịnh Công Sơn: “C̣n hai con mắt khóc người một con/ C̣n hai con mắt một con khóc người/Con mắt c̣n lại nh́n một thành hai/ Nh́n em yêu thương nh́n em thú dữ/ Con mắt c̣n lại ngờ vực t́nh tôi/ Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ...” (Con mắt c̣n lại).


Điều thú vị là năm 1992 thi sĩ Bùi Giáng không hề có ư tranh giành về chuyện bản quyền với người bạn của ḿnh, khi có người thắc mắc v́ sao nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề bản nhạc được sáng tác theo ư thơ của ông. Có lẽ với tính cách bất cần của thi sĩ họ Bùi th́ ông cũng chẳng coi đó là sự xúc phạm. Và hơn nữa, bài thơ Mắt buồn của ông đă quá nổi tiếng, vậy thêm một lần đề tên ḿnh lên bản nhạc th́ cũng chỉ là thêm được ‘tiền rượu’ mà thôi.


Hai nghệ sĩ Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng, lúc sống cũng là chỗ giao du thâm t́nh, trong nhạc của người này có thơ của người kia:

Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
C̣n chăng? chỉ một ấy là là chi


Ngày Bùi Giáng qua đời Trịnh Công Sơn có ghi vào sổ tang của Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm:

Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giáng
Ô hay trăm ngơ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô tận ứ ừ viển vông



Ta hăy nghe chính Bùi Giáng bàn về thơ: “Thơ là cái ǵ không thể bàn tới, không thể dịch, diễn ǵ được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Th́ có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, th́ ngoài việc làm thơ ra, con người không c̣n phép ǵ khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chứ không bao giờ điên rồ ǵ mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luân lư, không được “bốc đồng” vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy.


“Thơ tôi làm (...) trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách d́u ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm băo dông một lúc th́ lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá ṿng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cách tay mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm bay về Sương Hy Lạp, nghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng rộng, làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu ḅ chạy lạc, phá phách mùa màng, khoai sắn, th́ tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi th́ tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một ḿnh thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lăng đăng th́ từ đó vần bất tuyệt cũng lăng đăng chiêm bao...


“Hăy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi không c̣n sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống... Người yêu đừng bén mảng đến, bạn bè hăy đi xa. Để tôi một ḿnh tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần th́ hăy thử điên dại như tôi...


“...Ông Whitman ôi. Tại hạ làm thơ nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas, nhưng giống theo một thể thái bê bối đười ươi, chứ không có được cái phong độ tiên thiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách tiên thiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng h́ hục bắt chước tiên thiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút, chẳng dám kư tên dưới tờ thư cay đắng.”


Xin hăy đọc một trong những bài thơ sau cùng của ông:

Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đă từng đầu tiên.
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời
Em c̣n ở lại vui chơi
Suốt năm suốt tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lư Bạch nghênh ngang Tản Đà
Em c̣n ở với sơn hà
Anh c̣n mất hút gần xa mất hoài
(Uống rượu)


Tin Bùi Giáng ‘vĩnh viễn ra đi’ lại một lần nữa “chấn động” giới cầm bút. Lần này người ta không những chạy đi t́m mua các tờ báo in, mà gần như hiệu sách nào cũng được khách hàng hỏi:
“Ở đây có thơ Bùi Giáng?”. Tin, tùy bút, phóng sự, truyện tự kể, b́nh luận, sách và thư pháp “Bùi Giáng” được người ta thi nhau phát hành, bày bán… Người ta thay nhau kể công, viết lách, phô trương trên những trang viết về những mối “thâm t́nh” cùng Bùi Giáng… khi nhục thân ông được đưa từ chùa Vĩnh Nghiêm đến nghĩa trang G̣ Dưa - Thủ Đức và mộ phần ông chưa xanh cỏ.


Xin được kết thúc bài viết này với Nguyễn Viện trong Nh́n thấy Bùi Giáng lần cuối:


Lúc đó, tôi đang làm ở báo Thanh Niên. Sếp tôi, tổng thư kư ṭa soạn Nguyễn Khắc Nhượng, bảo ông Bùi Giáng đang nằm cấp cứu trong bệnh viện Chợ Rẫy, ông vào xem thế nào. Tôi vào, cùng với một phóng viên ảnh. Lẽ ra, không một ai được phép vào gặp ông ấy trong thời điểm đó, nhưng nể tôi là nhà báo, bác sĩ trưởng khoa cấp cứu Tề Văn Tiếng đă đồng ư cho chúng tôi vào.


Ở Sài G̣n, không mấy ai (trong giới văn nghệ) lại đă không từng gặp Bùi Giáng. B́nh thường ông ăn mặc kiểu “Cái bang”, múa may ngoài đường, bất cứ ai có vài đồng lẻ cũng có thể mời ông uống một ly cà phê, nói dăm ba câu, hoặc được ông tặng vài câu thơ viết trên một tờ giấy vụn. Bảo ông điên cũng được, bảo tỉnh cũng không sai.


Cái con người rất “bụi” ấy, giờ đây, trước mắt tôi, đang nằm trên chiếc giường sắt của bệnh viện, chuẩn bị giải phẫu. Toàn bộ thân thể ông đă được cạo trắng, sạch sẽ. Trần truồng. Được đắp trên người tấm drap trắng. Trông ông nhỏ bé và thơ dại, dù khuôn mặt hóm hém. Phóng viên ảnh nháy máy.


Bác sĩ Châu, người phụ trách mổ cho Bùi Giáng, nói với tôi không hy vọng lắm, nhưng sẽ cố gắng. Bác sĩ Châu cũng cho tôi biết, ngoài gia đ́nh nhà thơ, người đầu tiên và có lẽ cũng là người cuối cùng đến với Bùi Giáng trong bệnh viện là nghệ sĩ “mẫu thân” Kim Cương.


Tôi cũng c̣n biết vài chuyện xung quanh chuyện hậu sự của ông, như có một số anh em văn nghệ đă tự vận động để ông được mai táng trong nghĩa trang thành phố. Thành ủy chấp thuận. Nhưng gia đ́nh ông đă từ chối ân huệ ấy. Ông vốn sống là nhân dân, chết cũng là nhân dân, nên chôn ở nghĩa trang nhân dân G̣ Dưa. Tôi cũng biết rất nhiều anh em tranh nhau để được đọc “đít cua” trước quan tài ông.


Tôi muốn viết những ḍng này, v́ tôi không thể nào quên được, không phải h́nh ảnh một nhà thơ điên nhảy múa hồn nhiên rất tuồng chèo trên đường phố, mà một h́nh hài thơ dại trước cái chết. Trần truồng.