Vào năm 2020, các nhà khoa học đă t́m thấy những loài động vật sau gần một thế kỷ tưởng bị tuyệt chủng.


Trong số những loài động vật tuyệt chủng bất ngờ "sống dậy từ cơi chết" có các loài lưỡng cư, ḅ sát, và thậm chí cả động vật có vú. Một số động vật đă được t́m thấy không phải ở những vùng xa xôi khó tiếp cận, mà tại những khu vực sinh sống của con người.


Dưới đây là một số loài động vật mà các nhà nghiên cứu đă phát hiện lại vào năm 2020.


Loài tắc kè hoa Voeltzkow


Năm 1913, loài tắc kè hoa Voeltzkow (Furcifer voeltzkowi) chính thức bị tuyên bố tuyệt chủng trong môi trường tự nhiên, và không bao giờ c̣n được nh́n thấy ở quê hương Madagascar trong hơn một thế kỷ.


Vào năm 1913, nhà nghiên cứu về cỏ dại, người Đức, Oscar Boettger đă chụp ảnh con tắc kè hoa quư hiếm để bổ sung vào mô tả mà ông đă làm vào năm 1893. Sau đó, mọi nỗ lực của các nhà động vật học nhằm t́m ra loài ḅ sát này đều thất bại. Hơn nữa, một số chuyên gia đă tin rằng, loài này không tồn tại và chỉ bị nhầm với một loài tắc kè hoa khác - Furcifer labordi.


Để làm sáng tỏ vấn đề này, các nhà nghiên cứu từ Bộ sưu tập Động vật học của bang Bavaria ở Munich (Đức) đă thực hiện chuyến thám hiểm tới Madagascar. Trong một tuần, họ đă quan sát không thành công những nơi xa xôi và hẻo lánh nhất ở tỉnh Mahajanga, phía tây bắc của ḥn đảo - ở đó, hơn một trăm năm trước, nhà khoa học Oscar Boettger lần đầu tiên nh́n thấy một con Voeltzkow.


Kết quả là, con tắc kè hoa quư hiếm đă được t́m thấy không phải ở những khu rừng khó tiếp cận, mà trong khu vườn của khách sạn, nơi các thành viên đoàn thám hiểm đang ở.




Phát Video


02:56

Loài tắc kè hoa Voeltzkow bất ngờ được phát hiện ở trong khách sạn
Các nhà khoa học đă quan sát ba con đực và mười lăm con cái Furcifer voeltzkowi. Những con cái của tắc kè hoa Voeltzkow, mà các nhà khoa học đă nh́n thấy lần đầu tiên, là nhỏ hơn con đực và thay đổi màu sắc thường xuyên hơn. Phân tích di truyền các mẫu lấy từ ba con tắc kè hoa cho thấy rằng, mặc dù chúng có quan hệ họ hàng gần với Furcifer labordi, nhưng, đây là hai loài khác nhau.


Các tác giả của công tŕnh khoa học cho rằng, những con tắc kè hoa mới sinh sống ở tỉnh Mahadzanga trên vùng lănh thổ chạy dài hơn một trăm km dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, t́nh trạng quần thể vẫn c̣n khó ước tính. Những con tắc kè hoa Voeltzkow thường chỉ sống được dưới một năm.


Theo các nhà khoa học, chúng sinh con vào tháng 10-11, các con lớn lên rất nhanh, sinh sản, và đến đầu tháng 5 chúng chết sau khi đẻ trứng.


Nhân tiện, điều này giải thích tại sao các nhà khoa học đă không thể t́m thấy loài tắc kè hoa quư hiếm này trong hơn một trăm năm. Vào tháng 10, ở Madagascar bắt đầu mùa mưa phủ kín các tuyến đường dẫn đến môi trường sống của chúng. C̣n vào mùa khô, khi có khả năng tiếp cận tỉnh Mahajangi, tất cả những con tắc kè hoa Voeltzkow đă chết rồi.


Chuột chù voi Somali


Các nhà khoa học cũng đă phát hiện ra chuột chù voi Somali c̣n gọi là sengi Somali (Elephantulus revoilii). Hóa ra, loài động vật có vú nhỏ bé ăn côn trùng vẫn sống ở đông bắc châu Phi. Sengi Somali đă không được nh́n thấy trong gần nửa thế kỷ.


Tổ chức Bảo tồn Động vật hoang dă toàn cầu (GWC) đă đưa chuột chù voi Somali vào danh sách 25 loài mất tích được t́m kiếm nhiều nhất. Nhân tiện, trong danh sách này có cả tắc kè hoa Furcifer voeltzkowi vừa được t́m thấy ở Madagascar.


Tất cả những ǵ đă được biết về Elephantulus revoilii là dữ liệu về loài động vật có vú nhỏ bé này đến từ 39 mẫu vật riêng lẻ được thu thập cách đây hàng thập kỷ cho đến hàng thế kỷ và hiện được lưu trữ trong các bảo tàng. Lần cuối, một con chuột chù voi đă rơi vào tay các nhà động vật học vào năm 1973. Sau đó, các nhà nghiên cứu không thể t́m thấy được chúng.



Nhấn để phóng to ảnh

Vào năm 2019, một nhóm các nhà khoa học do nhầ động vật học, người Mỹ, Steven Heritage đứng đầu đă đến châu Phi để t́m kiếm loài này. Họ không dám vào Somalia, nơi cuộc nội chiến vẫn đang tiếp diễn, và thử vận may trên lănh thổ của nước láng giềng Djibouti. Điều kiện tự nhiên ở đất nước này tương tự như ở Somalia.


Nhóm nghiên cứu đă đặt hơn một ngh́n cái bẫy ở những vị trí có thể bắt gặp chuột chù voi. Họ bắt được năm con đực và ba con cái Elephantulus revoilii, chụp ảnh và quay video.


Xét theo dữ liệu thu thập được, chuột chù voi Somali không bị tuyệt chủng mà vẫn c̣n tồn tại và có quần thể rất đông.


Ếch nước trên sa mạc


Các nhà động vật học Chile cũng gặp may trong năm nay. Vào mùa xuân năm 2020, một nhóm các nhà khoa học từ Đại học Công giáo Temuco đă đến sa mạc Atacama với hy vọng t́m thấy loài ếch nước Hall nhỏ bé (Telmatobius halli). Loài ếch này được nh́n thấy lần cuối vào năm 1935, khi nhà thám hiểm người Mỹ Frank Gregory Hall đă bắt được sáu con cái, chụp ảnh và mô tả loài.


Sau đó, các nhà nghiên cứu tiếp tục làm việc để thiết lập mối quan hệ phân loại của ếch với các loài khác được t́m thấy trong khu vực nhằm xác định mức độ khác biệt cho thấy nó thực sự hiếm đến mức nào.



Nhấn để phóng to ảnh

Giờ đây, các nhà nghiên cứu về động vật ăn cỏ đă phát hiện thấy một số con trưởng thành và ṇng nọc Telmatobius halli tại một ốc đảo suối nước nóng nhỏ trên sa mạc Atacama ở độ cao hơn ba ngh́n mét so với mực nước biển.


Theo các nhà khoa học, những con vật này là loài sống dưới nước nhỏ bé. Chỉ trong 5 phút ra khỏi mặt nước, chúng sẽ chết. Do đó bảo vệ môi trường sống của nó là cực cần thiết trước khi quá muộn.


Chó biết hát New Guinea


Cho đến năm 2020, loài chó biết hát New Guinea đă bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên. Chó biết hát New Guinea có họ hàng gần với chó dingo ở Australia, chỉ nhỏ hơn. Chúng được biết đến với tiếng sủa pha lẫn tiếng hú độc đáo tới mức được so sánh với tiếng kêu của cá voi lưng gù. Ngày nay, chó biết hát New Guinea chỉ có thể được nh́n thấy trong các vườn thú. Tổng cộng có khoảng ba trăm cá thể được nuôi nhốt, hầu hết đều phải chịu hậu quả của việc lai tạo giữa các cá thể có quan hệ họ hàng gần nhau.


Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đă t́m ra được tổ tiên của loài chó biết hát ở vùng núi phía tây New Guinea. Các nhà khoa học đă phát hiện ra sự tồn tại của loài này vào năm 2016, nhưng, khi đó họ cho rằng, đây chỉ là một phân loài khác. Mới gần đây, các nhà nghiên cứu đă có thể thu thập mẫu máu từ ba cá thể trưởng thành và phân lập DNA hạt nhân từ chúng.




Phát Video


01:37

Chó biết hát New Guinea
Họ đă so sánh dữ liệu thu được với bộ gen của 16 con chó biết hát bị nuôi nhốt, 25 con chó dingo, 1.346 con chó nhà thuộc nhiều giống khác nhau và DNA của 9 loài chó khác. Hóa ra, các con chó hoang dă được t́m thấy ở New Guinea thuộc cùng một nhánh tiến hóa với chó biết hát - bộ gen của chúng trùng khớp tới 72%.


Các tác giả của công tŕnh cho rằng, những con chó biết hát hiện đại là hậu duệ của một số ít cá thể thuộc cùng một quần thể với tổ tiên của những con chó được t́m thấy ở vùng núi phía tây New Guinea. Tuy nhiên, v́ được lai giống với nhau, chúng đă mất đi một phần đáng kể tính đa dạng di truyền của ḿnh. Điều này có nghĩa là những động vật được t́m thấy có thể được sử dụng để làm phong phú thêm quần thể của những con chó biết hát đang được nuôi nhốt.