Trong Phật giáo có câu chuyện kể rằng, Tôn giả Mục Kiền Liên v́ muốn cứu ngạ quỷ đă phải dựa vào uy đức rất nhiều cao tăng. Nhưng ngày nay có những người xưng là ‘thầy’ này, ‘cậu’ nọ, ‘cô’ kia, chẳng cần khổ nhọc tu hành sao lại có thể sai khiến được quỷ Thần?

Chuyện một ngôi chùa nọ truyền bá “Vong báo oán” và cúng vong, giải nghiệp kiếm hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, thiết nghĩ đă có các cơ quan có trách nhiệm vào cuộc. Tuy nhiên hiện nay, nhiều nơi thờ tự của cá nhân và tổ chức cũng đang tiến hành những việc như cầu hồn, gọi vong, dâng sao giải hạn, giải nghiệp tiêu tai, cầu phúc cầu b́nh an…

Vậy tại sao lại nở rộ những sự việc này? Việc ấy đúng sai thế nào, lư lẽ ra sao, có tác dụng như thế nào, có hại ǵ không…? Đó cũng là câu hỏi chung của nhiều người. Người viết mạn phép góp đôi lời về vấn đề này theo thiển nghĩ nông cạn của bản thân.

Vong là ǵ?

“Vong” là từ Hán Việt, chữ Hán viết “亡” nghĩa là ‘mất, chết’ như trong các từ diệt vong, vong linh. Trong cụm từ ‘vong báo oán’, chữ vong nghĩa là vong linh, vong hồn, tức là linh hồn người đă khuất.

Hiện nay khoa học dù chưa chứng minh được nhưng cũng không phủ nhận sự tồn tại của vong, v́ có rất nhiều trường hợp cận tử đă nói về trải nghiệm khi linh hồn thoát xác.

C̣n các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian th́ đều tin là con người có tồn tại linh hồn, linh hồn bất diệt. Theo quan điểm Phật gia, sau khi nhục thân chết đi th́ linh hồn sẽ tùy theo nghiệp lực mang theo mà sinh vào một trong sáu đạo luân hồi sau: Cơi Trời (deva), cơi A Tu La (asura), cơi người (manussa), cơi súc sinh (tiracchānayoni), cơi ngạ quỷ (petta), cơi địa ngục (niraya).


Ảnh: Shutterstock

Cũng theo quan điểm Phật gia th́ thông thường sau khi chết, trong ṿng 49 ngày linh hồn người quá cố (Phật giáo gọi là ‘thân trung ấm’) sẽ đầu thai luân hồi chuyển thế. Khi chưa chuyển thế th́ linh hồn vẫn c̣n lưu luyến duyên trần. Đó cũng chính là lư do v́ sao có tục cúng 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, 100 ngày. Khi con người đă đầu thai sang kiếp khác rồi th́ không c̣n tồn tại linh hồn, nên ‘vong’ lúc này cũng không c̣n tồn tại.

Văn hóa truyền thống tin rằng con người là có định số. Phật gia cũng cho rằng một đời người là đă được định trước, con đường nhân sinh chính là như thế, tuy nhiên cũng có yếu tố bất định. Khi một sinh mệnh chưa đi hết đường đời đă định nhưng lại bị giết hại oan uổng, th́ sinh mệnh này chưa thể đầu thai luân hồi được. Những linh hồn ấy lang thang chờ đợi, có thể vài năm, vài chục năm hoặc lâu hơn. Đây chính là ‘cô hồn dă quỷ’ được nói đến trong Phật giáo. Có lẽ đây cũng chính là ‘vong’ trong tín ngưỡng dân gian. V́ thế rằm tháng 7 được gọi là ngày “Xá tội vong nhân”, chính là cúng những ‘cô hồn dă quỷ’ này, cúng siêu độ để giúp vong linh sớm siêu thoát đầu thai.

Chuyện ‘vong báo oán’ có hay không?

Phật gia giảng nhân quả báo ứng, tức là mỗi việc làm thiện ác sẽ tạo ra đức và nghiệp tương ứng, khi chết rồi chuyển sinh vào lục đạo th́ tùy theo đức và nghiệp mà có phúc họa nhiều hay ít. Thế nên nói, con người sinh ra là đă có mệnh, chính là đức và nghiệp mang theo sẽ quyết định đường đời của họ. Tuy nhiên sau khi sinh ra, những hoạt động của người này cũng tạo ra đức mới khi làm việc tốt và nghiệp mới khi làm việc xấu.

Cổ nhân nói ‘hành thiện tích đức được phúc báo’, hay ‘chịu khổ là trả nợ nghiệp’. Trong Kinh Dịch cũng viết: “Nhà tích thiện th́ dư phúc lành, nhà tích bất thiện th́ thừa tai ương” (Nguyên văn: “Tích thiện chi gia hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia hữu dư ương”). Thế nên tất cả chính giáo cũng như các tín ngưỡng truyền thống đều khuyên con người hành thiện tránh làm ác.

Nhân loại sống chính là tạo nghiệp và hoàn trả nợ nghiệp. Đức Phật dạy con người làm việc thiện để tránh tạo nghiệp, và chịu khổ để hoàn trả nghiệp. Phật Đà thần thông quảng đại nhường ấy, Ngài chỉ cần phẩy tay là có thể tiêu tai giải nạn cho con người thế gian. Nhưng tại sao Ngài không phát tâm trừ bỏ hết thảy nghiệp lực cho chúng sinh? Chính là bởi v́ Ngài cũng tôn trọng luật Nhân Quả, vốn là quy luật của vũ trụ. Thế nên mới có việc Phật Thích Ca từng thấy trước ḍng họ Thích Ca bị tiêu diệt mà chẳng thể can thiệp.

Các cơi khác nhau đều có quy luật vũ trụ tại các tầng thứ khác nhau chế ước, không thể tùy tiện can thiệp được. Thế th́ một vong linh nhỏ bé, một ‘cô hồn dă quỷ’ đang vất vưởng chờ đợi về nơi trở về kia, sao có thể làm được ‘vong báo oán’ đây? Nếu quả thực vong đó bị giết hại oan uổng th́ kẻ sát nhân kia đă tạo nghiệp lực rất to lớn. Vong linh vẫn chưa siêu thoát kia có thể vẫn tức giận kẻ giết hại ḿnh, th́ cái nghiệp do tức giận gây ra sẽ cấp thêm lên kẻ sát hại. Khi nghiệp lực lớn đến một mức độ nhất định th́ sẽ xảy ra các tai nạn như ốm đau bệnh tật, tiêu tán tiền tài, nặng hơn nữa là mất đi sinh mạng. Đó hoàn toàn là luật Nhân Quả báo ứng khống chế chứ không có chuyện ‘vong báo oán’ bằng cách nhập hồn điên đảo, tác oai tác quái, gây bệnh gây họa… đến mức phải ‘chuyển khoản’ cho vong th́ vong mới chịu ngừng.


Ảnh: Shutterstock

Chuyện ‘gọi hồn’, ‘vong nhập’ th́ thế nào?

Cũng có người nói rằng, họ đă chứng kiến chuyện gọi hồn, vong nhập, rồi chuyện thầy này cao tay, cô kia linh nghiệm, hay Thần này, Thánh kia nhập vào người nào đó, v.v.

Thế gian dưới con mắt chư Thần là cơi ô uế dơ bẩn, hồng trần cuồn cuộn, nghiệp lực đen thui, trong khi Thần Thánh là sinh mệnh cao cấp, ngự trong những thế giới tinh khiết và long lanh như châu ngọc. Thế nên mới gọi cơi Phật là Tịnh Thổ – Cơi Tinh Khiết. Thần Phật muốn đến chốn nhân gian th́ cũng phải giáng sinh hạ phàm như Đức Phật Thích Ca, Chúa Jesus, rồi lại phải trải qua tu luyện gian khổ mới quay trở về nơi thượng giới. Thế th́ làm ǵ có chuyện Thần Thánh nhập vào người phàm tục đầy rẫy tham sân si, đầy rẫy các chủng dục vọng ham muốn và những toan tính bẩn thỉu nhơ nhớp kia được? Chỉ có những bậc chân tu đắc Đạo và những bậc đại đức, tâm trong sạch tinh khiết, không mưu cầu danh-lợi-t́nh-tiền th́ mới có thể linh ứng đến Thần Phật. Họ là những cao tăng, đại sư, hay các nhà tiên tri như chúng ta đă biết.

C̣n chuyện gọi hồn, vong nhập th́ thế nào? Chuyện này có lẽ rất hiếm có, và chỉ trong trường hợp đặc biệt ví như có duyên nợ, và bản thân người bị nhập cũng là bệnh nhân nặng, thể trạng yếu ớt, tinh thần yếu đuối, hốt hoảng tỉnh tỉnh mê mê. Người tin khoa học th́ cho rằng đó là họ bị hôn mê thần hồn điên đảo, c̣n người theo Thần học th́ tin là nhập hồn. Nhưng hiện tượng này rất hiếm, và có xảy ra th́ cũng rất ngắn, thường là ‘vong’ v́ muốn truyền một thông điệp nào mà lúc họ chết vẫn chưa hoàn thành, và thường là khuyến thiện.

Như đă nói trên, sau khi con người chết, linh hồn đă đầu thai sang kiếp khác rồi th́ chẳng c̣n nhớ được các tiền kiếp, cũng chẳng có khả năng thoát xác, trừ trường hợp cận tử, hoặc tu luyện có thành tựu. Thế nên, về căn bản là không có chuyện nhập hồn. Thế th́ v́ sao vẫn có người chứng kiến chuyện nhập hồn? Kỳ thực đó không phải ‘hồn nhập’ hay ‘vong nhập’, mà là do có mang tâm truy cầu rất lớn, như cầu danh lợi, cầu t́nh tiền, cầu tiêu tai giải hạn…nên mới khiến những linh thể tầng thấp ở không gian khác nhập vào.

Những linh thể ấy ở không gian khác, không phải là cơi mê của nhân loại nên nó có thể nh́n thấy một số điều như quá khứ của một người nào đó, rồi kể ra rành rọt, khiến người ta tin là ‘hồn nhập’. V́ nó ở tầng rất thấp nên mới thích được người ta cúng rượu, thịt, thuốc lá, tiền, vàng, hương khói… Nó cũng có chút năng lượng có thể ức chế bệnh tật khiến người ta lầm tưởng rằng bệnh đă được chữa khỏi, từ đó lại càng có nhiều người tin theo và thờ cúng nó. Nó cũng tự xưng là Thần nọ Thánh kia, là Người Trời, là Phật… để người ta tin theo, thờ cúng sùng bái ḿnh. Thực ra là chỉ ức chế bệnh thôi, sau một thời gian bệnh lại phát ra. Loại này rất nguy hiểm, nó hút tinh khí của người. Thế nên những kẻ xưng là ‘thầy’ kia, ‘cậu’ nọ, sau một thời gian chuyên đi chữa bệnh cho người lại thường gặp những chuyện không hay. Có người nói là v́ họ ‘tiết lộ thiên cơ’ nên bị trừng phạt. Thực ra, là do họ tự chiêu mời linh thể tầng thấp đến, tự ḿnh hại ḿnh mà thôi.

Có thể đuổi vong trừ tà không?

Với chính nhân quân tử, trên thân đầy chính khí th́ chẳng ma tà quỷ quái vong hồn nào nhập vào được. Người xưa nói: “Nhất chính áp bách tà”, hay “Ma quỷ cũng sợ người chính trực”, hoặc là “Người không làm chuyện trái lương tâm, nửa đêm không sợ quỷ gơ cửa” chính là đạo lư đó.

Thế nên, nếu làm người chính trực, thiện lương, không trái với lương tâm th́ không thể bị ‘vong nhập’. C̣n những ai đă lỡ làm chuyện xấu, hành ác th́ có thể thông qua hối lỗi, tu thân tích đức, bỏ ác theo thiện, tự kiểm điểm từng hành vi, suy nghĩ của ḿnh trong đời sống thường nhật th́ sẽ ‘hóa hung thành cát’, ‘biến nguy thành an’. C̣n những kẻ đă làm nhiều việc xấu, việc đại ác mà vẫn không biết sám hối, không biết hướng thiện, th́ khi nghiệp lực tích tụ nhiều lên sẽ phát ra thành tai họa như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, thậm chí mất mạng. Những người như thế th́ cầu Trời khấn Phật, cúng thầy nọ cô kia, lễ đền này chùa nọ cũng đều vô ích, bởi v́ “thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải không báo mà là chưa đến lúc”.

Chúng ta có thể thấy trong câu chuyện cổ Phật giáo, Tôn giả Mục Kiền Liên là đệ tử “đệ nhất thần thông” của Phật Thích Ca. Ngài dùng thần thông nh́n thấy mẹ ḿnh phải đọa vào đạo ngạ quỷ, chịu đói khát khổ sở hành hạ. Ngài đem thức ăn cho mẹ nhưng bà vừa đưa lên miệng th́ thức ăn biến thành lửa thiêu đốt. Bất lực, Ngài thỉnh cầu Đức Phật. Theo lời Phật dạy, vào ngày 15 tháng 7 âm lịch, tôn giả Mục Kiền Liên và các tăng nhân dùng trăm loại thức ăn gồm ngũ quả, đồ cúng chay để cúng chúng sinh ở địa ngục, rồi cùng tăng đoàn đọc kinh, niệm chú. Nhờ vậy những ngạ quỷ đói khát lâu ngày kia mới được ăn. Nhờ tích đức của chúng tăng nên Mục Kiền Liên mới cứu được mẹ ra.

Qua câu chuyện trên có thể thấy, để ‘cứu ngạ quỷ’ c̣n cần phải hợp đức của một tập thể gồm rất nhiều cao tăng. Thế th́ một người xưng là ‘thầy’, ‘cô’, ‘cậu’ kia, chẳng hiểu công phu tu hành đến đâu mà có thể sai khiến quỷ Thần?

Thật và giả, thiện và giả thiện, chính và tà

Nước ta vốn có nền văn hiến lâu đời, từ hàng ngàn năm nay người dân vẫn luôn tin ‘ở hiền gặp lành’, ‘ác giả ác báo’, ‘cha mẹ hiền lành để phúc cho con’, ‘đời cha ăn mặn đời con khát nước’. Cội nguồn văn hóa truyền thống với trung tâm là Tam Giáo: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian luôn coi trọng việc thờ cúng ông bà tổ tiên, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, biết ‘uống nước nhớ nguồn’, ‘ăn quả nhớ người trồng cây’. Trong đó Phật giáo du nhập vào nước ta sớm nhất, cách đây trên 2000 năm, trước cả Phật giáo Trung Quốc, nên cũng có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa, tinh thần, tín ngưỡng của người dân.

Thế nên truyền thống tín ngưỡng kính Trời, kính Phật, thờ Thần đă ăn sâu vào ḍng máu Việt. Tuy nhiên đă có chính th́ có tà, đă có Phật th́ có ma, đă có người th́ có quỷ, đă có chính đạo th́ có tà đạo, đă có chánh kiến th́ có tà kiến, đă có quân tử th́ có tiểu nhân, đă có người xả thân v́ nước th́ cũng có kẻ bán nước cầu vinh, đă có người v́ nghĩa quên thân th́ cũng có kẻ v́ tiền tài mà mờ mắt.

Xă hội nhân loại vốn thế, con người sống trong cơi mê, thật giả lẫn lộn, chỉ có thể dựa vào lư trí tỉnh táo mới phân biệt được. V́ cái giả thiện nói giống như cái thiện nên mới lừa được người ta. Ví như một việc có trăm điều th́ 99 điều thiện và trộn 1 điều giả thiện vào th́ việc đó vẫn là ác. Tại sao? Cũng giống như một nồi canh thơm ngon, toàn thứ tốt lành cả, nhưng đổ một th́a thuốc độc vào th́ nó chính là nồi thuốc độc. Nồi canh độc đó, mặc dù trông vẫn là nồi canh, nếm vẫn thơm ngon, nên mới lừa được người ăn, mà ăn vào trúng độc, tàn hại biết bao nhiêu người.

Trước khi niết bàn, Đức Phật Thích Ca căn dặn các đệ tử rằng: “Dĩ giới vi sư”, nghĩa là hăy lấy giới luật làm thầy. Có lẽ Ngài biết rơ rằng sau khi Ngài niết bàn th́ có những người hoặc vô t́nh, hoặc cố ư mà làm loạn Pháp. Một trong những điều giới luật đó là “không tồn tiền, tồn vật”. Thế nên, những người tu hành theo pháp môn của Phật mà không làm theo lời Phật, cúng bái, dâng sao giải hạn, tiêu tai trừ tà để kiếm tiền ‘cúng dường’ th́ có thực sự là đệ tử của Phật không? Do đó chân tu, giả tu có thể phân biệt được.

Sau khi Đức Phật nhập niết bàn khoảng 300 năm là thời đại vua A Dục. Khi đó Phật giáo rất phát triển, dân chúng cúng dường nhiều, rất nhiều tín đồ các tôn giáo khác v́ tham cúng dường nên đă tự xưng là tăng nhân Phật giáo, trà trộn lẫn vào trong tăng đoàn. Họ coi thường giới luật, vượt khỏi quy phạm của tăng đoàn, đồng thời thường đưa ra kiến giải của bản thân đối với Pháp và giáo nghĩa của Phật giáo. Vua A Dục cùng các cao tăng thanh lọc những người này, nhưng vẫn c̣n khoảng 300 người giỏi biện luận, thuộc kinh sách, không cách nào đuổi đi được. Đó cũng là ư nghĩa câu nói trong dân gian: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Nếu không tu cái tâm, buông bỏ những danh vọng, địa vị, chức quyền, tiền tài, và những lời tán dương chốn thế tục th́ thiên kinh vạn điển cũng chỉ là hư giả.

Thời c̣n tại thế, để giúp các đệ tử phân biệt chính đạo với tà đạo, Đức Phật giảng trong Kinh Tăng Chi Bộ rằng:

“Đừng tin tưởng vào một điều ǵ v́ phong văn. Đừng tin tưởng điều ǵ v́ vin vào một tập quán lưu truyền.

Đừng tin tưởng điều ǵ v́ cớ được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều ǵ dù là bút tích của Thánh nhân.

Đừng tin tưởng điều ǵ dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng.

Đừng tin tưởng điều ǵ do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đă khai thị cho ta.

Đừng tin tưởng bất cứ một điều ǵ chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy các người.

Nhưng khi nào tự ḿnh biết rơ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hăy từ bỏ chúng.

Nhưng chỉ tin tưởng cái ǵ mà chính các người đă từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho ḿnh và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hăy lấy đó làm chỉ chuẩn”.

Xưa thầy tṛ Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, các đồ đệ đều thần thông quảng đại mà c̣n đi nhầm vào chùa Tiểu Lôi Âm. Thế nên người tín Phật chỉ có thể chiểu theo lời dạy của Đức Phật th́ mới phân biệt được chân tu với giả tu, chính đạo với tà đạo, chùa Lôi Âm thật và Lôi Âm giả, từ đó bước đi cho chính trên con đường hướng tới tương lai của ḿnh, tránh bị cái giả thiện lừa gạt để rồi phải ôm nỗi hận thiên thu.