Tranh vẽ Lư Thường Kiệt

Đinh Ngọc Thu

Hoạn quan c̣n được gọi là thái giám (1), dùng để chỉ những người có thể là do bẩm sinh
hoặc tự nguyện chịu tĩnh thân (2) để làm công việc hầu hạ vua chúa, hoàng hậu và các phi tần trong cung cấm ngày xưa. Hoạn quan thường bị người đời khinh khi một phần là do không c̣n khả năng có con để nối dơi tông đường. Hơn nữa, hoạn quan c̣n bị khinh rẻ là v́ có nhiều người bất tài, chỉ v́ ham tiền bạc và danh vọng mà chịu tĩnh thân để làm hoạn quan mong kiếm địa vị hoặc tiền bạc lo cho bản thân và gia đ́nh. Không những thế, hoạn quan c̣n bị mang tiếng xấu v́ ở trong cung họ thường kết bè kết đảng để có quyền hành và nhiều người đă sử dụng quyền hành đó mưu hại trung thần hoặc làm suy yếu hay làm sụp đổ cả một triều đại mà chúng ta có dịp đọc qua trong sử sách.


Xưa nhất phải kể đến Triệu Cao, một hoạn quan được giữ chức thừa tướng dưới thời nhà
Tần và đă làm sụp đổ cả triều đại này. Triệu Cao đă giả di chiếu của Tần Thuỷ Hoàng, buộc con trưởng là Phù Tô phải tự sát để nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hợi lên làm vua, tức hoàng đế Tần Nhị Thế, rồi Triệu Cao cướp ngôi nhà Tần dẫn đến việc nhà Tần rơi vào tay nhà Hán. Hay như dưới thời vua Hán Linh Đế (3) có loạn “Thập thường thị” (4), mười hoạn quan thao túng triều đ́nh, làm tan ră nhà Hán và quyền hành rơi vào tay Đổng Trác, mở đường cho Tam Quốc phân tranh.


Trong lịch sử nước ta, không biết hoạn quan có từ bao giờ nhưng một trong những hoạn
quan được sử sách ghi lại dưới thời nhà Lư là Lư Thường Kiệt (5), vị tướng tài giỏi bậc nhất và là anh hùng của dân tộc ta. Mặc dù có nhiều người phục cái tài của Lư Thường Kiệt, ngưỡng mộ những công trạng mà ông đă lập được cho đất nước, nhưng cũng có không ít nho gia đă khinh khi ông chỉ v́ ông là một hoạn quan. Để biết được Lư Thường Kiệt có đáng phải nhận thái độ khinh khi của các nho gia dành cho ông hay không, chúng ta hăy cùng nhau t́m hiểu xem nguyên nhân nào ông trở thành hoạn quan.


Thân thế Lư Thường Kiệt


Lư Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, sinh năm 1019 vào thời vua Lư Thái Tổ và mất năm
1105 dưới thời vua Lư Nhân Tông (6). Khi c̣n trẻ ông rất đẹp trai và được phong “Đệ nhất mỹ nam tử” thời bấy giờ. Ông có tên tự là Thường Kiệt, sau được vua ban quốc tính đổi sang họ Lư nên có tên là Lư Thường Kiệt (7). Ông là con của Sùng Tiết tướng quân (8) Ngô An Ngữ (9), và bà Hàn Diệu Chi (10). Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc vương Lư Long Bồ (11), người con trai thứ hai của vua Lư Thái Tổ.


Ngô An Ngữ có công với triều Lư và tuẫn quốc (12), chẳng bao lâu sau th́ vợ ông, bà Hàn
Diệu Chi cũng qua đời. Do cha mẹ mất sớm nên hai đứa con c̣n nhỏ của họ là Thường Kiệt và Thường Hiến được Lư Long Bồ nhận làm con nuôi. Đến đời vua Lư Thánh Tông (13), ông được vua nhận làm thiên tử nghĩa nam, tức con nuôi của vua. Ngoài ra, Lư Thường Kiệt c̣n là cháu gọi bà Ngô Thuần Trúc (14), bằng cô. Ngô Thuần Trúc là phu nhân của tướng Tạ Đức Sơn, người giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ, thống lĩnh ngự lâm quân của triều đ́nh.


Ngoài ra, Lư Thường Kiệt c̣n có quan hệ họ hàng với bà Ngô Cẩm Thi (16), vợ của tướng
Tôn Đản (17).


Trong đời, ông đă từng giữ qua nhiều chức vụ quan trọng. Trước tiên là chức Thái tử Mật thư tỉnh sự (18), giúp thái tử Lư Nhật Tôn (19) ở Đông cung, tức vua Lư Thánh Tông sau này. Sau khi bị hoạn, ông được cho giữ chức Hoàng môn chi hậu (20), rồi được thăng đến chức Nội thị sảnh đô tri (21), sau được cho giữ chức Đ́nh Uư sứ, trông coi các việc về h́nh án trong triều. Năm 1042, vua Lư Thái Tông giao cho ông cùng với một số đại thần soạn thảo bộ Luật “H́nh thư”, bộ luật này được xem là bộ luật h́nh sự đầu tiên của nước ta.


Đến đời vua Lư Thánh Tông, Lư Thường Kiệt được thăng đến chức Thái bảo (22), sau đó
do lập được nhiều chiến công trong trận đánh với Chiêm Thành nên ông được phong chức phụ quốc Thái phó (23), tước Khai Quốc công (24). Đến tháng 8 năm 1075 ông được
phong chức Đôn quốc Thái uư (25). Đến khi mất, ông được vua Lư Nhân Tông truy phong
chức Kiểm hiệu Thái uư B́nh chương sự (26) và ban tước Việt Quốc công.


Các đại công Lư Thường Kiệt đă lập


Các đại công Lư Thường Kiệt đă lập phải kể đến trận đánh Tống kinh thiên động địa cuối
năm 1075. Trận đánh này do Lư Thường Kiệt tổng chỉ huy (27) quân Đại Việt vượt biên giới phía bắc đánh các châu phía nam của nhà Tống như: Khâm, Liêm và Ung châu (28) nhằm phá huỷ đường xá, cầu cống, các kho lương thực và vũ khí mà Tống tích trữ để chuẩn bị đánh Đại Việt.


Đây là kế hoạch của Linh Nhân hoàng thái hậu Ỷ Lan khi nhận được tin từ Khu Mật Viện Đại Việt (29) rằng Tống đang luyện binh và tích trữ lương thực chuẩn bị đưa quân tấn công nước ta theo kế hoạch nam tiến của Tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch (30). Kế hoạch đánh Tống của bà Ỷ Lan đă được Lư Thường Kiệt và các tướng lúc bấy giờ ủng hộ. Theo kế hoạch này, Đại Việt pḥng thủ bằng cách chủ động tấn công trước, đánh phủ đầu quân Tống, phá kho lương thực, vũ khí, đường xá và cầu cống nhằm ngăn cản cuộc xâm lăng của nhà Tống. Sau khi hoàn thành kế hoạch, hạ thành cuối cùng là thành Ung Châu, quân Đại Việt rút về nước (31).


Dân gian có câu ca dao ca tụng việc Lư Thường Kiệt đưa quân qua biên giới phía bắc đánh Tống trong trận này như sau:

Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng rằng chấu ngă, ai dè xe nghiêng


Hoặc là:


Đem chuông đi đánh xứ người
Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danh


Chiến thắng này đă làm cho nhà Tống mất mặt đến mức vua Tống Thần Tông (32) đă phải nhượng bộ nước Hạ ở phía tây và chấp nhận cắt đất dâng cho nước Liêu ở phía bắc để rảnh tay đối phó với Đại Việt. Năm 1076, nhà Tống đă huy động toàn bộ lực lượng binh lính ở phía bắc và phía tây tham gia vào cuộc chiến đánh trả thù, quyết tâm chiếm Đại Việt.


Trong trận này, hai tướng Quách Quỳ (33) và Triệu Tiết (34) cùng 12 tướng (35) đă từng
đánh trận ở Tây Hạ đem khoảng 30 vạn quân (36) tấn công Đại Việt. Nhưng với sự chỉ huy tài giỏi của Lư Thường Kiệt, quân Tống đă bị đại bại ở trận chiến trên sông Như Nguyệt (37) và buộc phải rút quân. Trận thắng Tống lần này đă làm đảo lộn cả giang san nhà Tống và đă phá vỡ kế hoạch của Vương An Thạch (38).


Các lần cầm quân đánh quân Chiêm phải kể đến trận chiến năm 1069 (39), Lư Thường Kiệt bắt được vua Chiêm là Chế Củ và các tôn thất, sau đó Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính (40), Địa Lư (41) và Ma Linh (42) để chuộc mạng. Tháng 10 năm 1103, mặc dù tuổi cao nhưng Lư Thường Kiệt đă xin vua cho đi đánh Lư Giác (43) ở Diễn Châu nổi lên làm phản.


Năm 1104, ở tuổi 85 nhưng Lư Thường Kiệt vẫn c̣n cầm quân trực tiếp đi đánh Chiêm
Thành khi vua Chiêm là Chế Ma Na đem quân đánh lấy lại ba châu do Chế Củ đă dâng cho


Đại Việt để chuộc tội trước đây. Lư Thường Kiệt đă đánh thắng trận này, buộc Chế Ma Na
phải nộp lại vùng đất đó cho Đại Việt.


V́ sao Lư Thường Kiệt trở thành hoạn quan?


Nhiều câu hỏi đă được đặt ra rằng tại sao vị anh hùng của dân tộc ta là một hoạn quan?
Hoạn quan thường không được trọng dụng trong những việc quốc sự và đánh giặc nhưng Lư Thường Kiệt được cầm quân đánh giặc và lập được nhiều đại công làm cho quân Tống phía Bắc, quân Chiêm phía Nam phải khiếp sợ. Điều này chứng tỏ Lư Thường Kiệt không giống như những hoạn quan khác. Vậy việc tĩnh thân của Lư Thường Kiệt có một lư do đặc biệt nào khác chăng? Hay ông là một hoạn quan bẩm sinh? Hoặc việc tĩnh thân của ông là một tai nạn hay chính ông là một nạn nhân?


1. Lư Thường Kiệt là một hoạn quan bẩm sinh?


Lư Thường Kiệt chắn chắn không phải là một hoạn quan bẩm sinh v́ trước khi trở thành
hoạn quan ông đă có một mối t́nh với Dương Hồng Hạc, tức hoàng hậu Thượng Dương sau này. Dương Hồng Hạc là cháu của hoàng hậu Thiên Cảm (44), vợ vua Lư Thái Tông. nên hoàng hậu Thiên Cảm đă sắp xếp cho cháu bà là Hồng Hạc trở thành vợ của thái tử Lư Nhật Tôn, tức vua Lư Thánh Tông sau này.


Việc Dương Hồng Hạc trở thành vợ của thái tử Nhật Tôn có thể gây nguy hiểm cho Lư
Thường Kiệt nếu triều đ́nh khám phá ra mối t́nh của ông với Hồng Hạc trước đây. V́ vậy, cha nuôi của ông là Lư Long Bồ đă sắp xếp cho Lư Thường Kiệt đính hôn với Tạ Thuần Khanh (45), là con gái của quan Điện suư Tạ Đức Sơn và bà Ngô Thuần Trúc. Trong khi chờ đợi chính thức nên vợ nên chồng với Tạ Thuần Khanh th́ Lư Thường Kiệt trở thành hoạn quan, cho nên ông đă từ hôn với người vợ chưa cưới.


2. Lư Thường Kiệt tự hoạn v́ tiền?


Có nhiều lư do được đưa ra để giải thích việc Lư Thường Kiệt trở thành hoạn quan. Có
người tin rằng v́ vua Lư Thái Tông thấy Lư Thường Kiệt “mặt mũi đẹp đẽ” nên cho 3 vạn
quan tiền bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ (46). Lập luận này không mấy có lư bởi v́, thứ
nhất số tiền 3 vạn quan là một số tiền rất lớn thời bấy giờ (47). Sử sách c̣n ghi lại rằng
năm 1254 vua Trần Thái Tông cho Phạm Ứng Mộng 400 quan bảo “tự hoạn” để vào cung
hầu hạ vua (48). Không thể nào trước đó 213 năm (49), số tiền vua cho Lư Thường Kiệt lại lớn gấp 75 lần.


Thứ hai, Lư Thường Kiệt không thể v́ túng tiền mà phải tự nguyện tĩnh thân để có 3 vạn
quan. Mặc dù cha mẹ mất sớm nhưng cha ông, Ngô An Ngữ là một công thần của nhà Lư
nên anh em Lư Thường Kiệt thừa hưởng gia sản của người cha để lại đủ để anh em ông
sống một cuộc sống không thua ǵ con cái của các quan lại trong triều, cho nên Lư Thường Kiệt không thể nào “túng thiếu” đến mức phải tĩnh thân v́ lư do tiền bạc.


3. Tự nguyện tĩnh thân để được vào cung?


Với cương vị là con của một công thần đă v́ nước hy sinh và gia đ́nh nối đời làm quan, Lư Thường Kiệt đă có sẵn cánh cửa mở rộng để “tập ấm làm quan” mà không cần phải qua thi cử dành cho những dân thường khác. Hơn nữa, ông c̣n là người tài trí thông minh, văn vơ song toàn th́ việc vào cung không phải là chuyện khó; chỉ cần tham dự một kỳ thi ứng thí vơ công do triều đ́nh mở ra, ông có thể đậu và trở thành một vơ quan một cách dễ dàng.


4. Lư Thường Kiệt bị vua phạt?


Có một thuyết nữa cho rằng: “vua Lư Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí Cao
lại tha về, Lư Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu cho vào hầu cận” (50). Thứ nhất, Nùng Trí Cao (51) cai quản các khê động ở phía bắc giáp với Tống, trong khi Chiêm Thành ở phía nam, nên vua Lư Thái Tông đánh Chiêm Thành không thể bắt được Nùng Trí Cao. Thứ hai, nếu cho rằng vua Lư Thái Tông v́ ḷng nhân từ mà tha cho một người “nổi lên làm giặc” như Nùng Trí Cao th́ không lư nào vua lại trở nên “hung ác” đến độ “đem thiến” một người thân cận chỉ v́ người đó can ngăn chuyện này.


5. Lư Thường Kiệt bị hại?


Có thuyết cho rằng Lư Thường Kiệt bị hại bằng cách cho đánh thuốc mê rồi hoạn ông trong đợt tuyển hoạn quan dưới thời vua Lư Thái Tông và trong thời gian dài Lư Thường Kiệt không biết ai đứng đàng sau chuyện này. Lập luận này có lư hơn khi nh́n lại những chuyện “thâm cung bí sử” trong cung đ́nh lúc bấy giờ.


Nếu không biết chuyện t́nh cảm trước đây của Lư Thường Kiệt với Dương Hồng Hạc cũng như chuyện lộng quyền của gia đ́nh họ Dương đối với triều Lư dẫn đến việc họ Dương làm gian tế cho Tống như thế nào, có thể chúng ta nghĩ rằng Lư Thường Kiệt trở thành hoạn quan là do những nguyên nhân kể trên. Để hiểu thêm chuyện cung đ́nh lúc bấy giờ, xin nhắc vài sự việc để chúng ta có thêm dữ kiện liên quan đến câu chuyện của Lư Thường Kiệt.


Dương Hồng Hạc là hoàng hậu, vợ vua Lư Thánh Tông, sau này trở thành thái hậu Thượng Dương. Thái hậu Thượng Dương là người mà chính sử ghi rằng đă bị hoàng thái hậu Linh Nhân, tức bà Ỷ Lan chôn sống với 72 cung nữ sau khi vua Lư Thánh Tông băng hà. Mặc dù chính sử ghi nguyên nhân của câu chuyện này không rơ ràng lắm nhưng các nguồn tư liệu khác có nói việc chôn sống này là do thái hậu Thượng Dương cùng với 72 cung nữ là “tay chân” của bà và những người thân thuộc họ Dương đă làm gian tế cho Tống, được nhà Tống sắp xếp cướp ngôi khi vua Lư Thánh Tông mất (52).


Dương Hồng Hạc là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua
Lư Thái Tông, bằng cô. Khi hoàng hậu Thiên Cảm được vua Lư Thái Tông sủng ái, cha của
bà là Dương Đức Thành được phong làm Tể Tướng. Từ đó thế lực họ Dương được h́nh
thành như: Dương Đạo Gia (53), Dương Đức Uy (54), Dương Đức Thao (55), Dương Đức
Huy (56)…ba thế hệ lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều.


Để tạo thêm thế lực cho họ Dương, hoàng hậu Thiên Cảm đă đem đứa cháu gọi bằng cô
ruột là Dương Hồng Hạc gả cho con chồng là thái tử Lư Nhật Tôn để khi Nhật Tôn lên làm vua th́ Hồng Hạc trở thành hoàng hậu. Trước khi lấy Hồng Hạc, thái tử Nhật Tôn đă được cảnh giác về việc họ Dương lộng quyền có thể dẫn đến cướp ngôi vua như Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, v́ vậy Nhật Tôn không muốn gần gũi với Hồng Hạc v́ lo sợ nếu có con sẽ trúng kế họ Dương.


Mặc dù làm vợ thái tử nhưng Dương Hồng Hạc chẳng hề được chồng đoái hoài tới nên
Hồng Hạc nhớ tới người t́nh cũ – Lư Thường Kiệt, người đang giữ chức Thái tử Mật thư tỉnh sự, giúp thái tử Nhật Tôn ở Đông cung. Mặc dù giữa Thường Kiệt với Nhật Tôn bên ngoài là quan hệ chúa – tôi nhưng bên trong hai người rất gần gũi và thân với nhau v́ hai người đều là con nuôi của Lư Long Bồ, cùng chơi đùa với nhau từ thời thơ ấu. V́ vậy, Dương Hồng Hạc đă nhờ Thường Kiệt giúp ḿnh nói với Nhật Tôn để được “ban hồng ân”.


Có lẽ v́ lo cho hậu vận nhà Lư nên Thường Kiệt đă không nhận lời giúp đỡ Hồng Hạc. Phải chăng v́ lư do đó mà ông đă bị Hồng Hạc và hoàng hậu Thiên Cảm ra tay bức hại trong một đợt tĩnh thân tuyển hoạn quan vào cung? Hậu quả của việc này cũng giải thích phần nào lư do tại sao Lư Thường Kiệt đă đứng về phe của bà Ỷ Lan chứ không phải là phe của hoàng hậu Thượng Dương trong việc tranh giành quyền “nhiếp chính” sau khi vua Lư Thánh Tông mất.


Riêng về cuộc đời của Dương Hồng Hạc, sau khi thái tử Nhật Tôn lên ngôi tức vua Lư Thánh Tông, hoàng hậu Thiên Cảm lúc đó trở thành thái hậu và đă ép vua Lư Thánh Tông phong Hồng Hạc làm hoàng hậu, tức hoàng hậu Thượng Dương. Nhưng từ khi được tiến cung đến khi trở thành hoàng hậu cho tới khi vua Lư Thánh Tông mất, Dương Hồng Hạc hay hoàng hậu Thượng Dương sau này chưa một lần được vua “ban ân sủng”. Bà đă sống âm thầm lặng lẽ trong cung với mối hận nhà Lư không nguôi nên đă cùng với bác là Tể tướng Dương Đạo Gia và tay chân họ Dương âm mưu cướp ngôi nhà Lư khi vua Lư Thánh Tông mất. V́ vậy mới có câu chuyện thái hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị giam và bị chôn sống theo vua Lư Thánh Tông mà chúng ta đă biết qua sử sách.


Tâm ư của người viết:


Bài viết này chỉ muốn phân giải phần nào nguyên nhân trở thành hoạn quan của Lư Thường Kiệt, người mà cho dù đă lập được nhiều đại công nhưng vẫn bị các nho gia khinh khi.


Đứng trên phương diện nh́n về lịch sử đă qua, cho dù Lư Thường Kiệt là hoạn quan với bất kỳ lư do nào khác, ḷng tôn kính của hậu thế chúng ta đối với ông phải dựa trên những công trạng ông đă đóng góp cho đất nước, trong đó chiến công hiển hách nhất là đánh Tống để giữ vững nền độc lập cho nước Đại Việt. Công trạng đối với đất nước mới là điểm chính yếu xác định ai là anh hùng dân tộc, là người mà muôn dân phải luôn tôn kính và ghi nhớ.



17-10-2008
Đinh Ngọc Thu


Ghi chú:

(1) Mặc dù hoạn quan và thái giám được dùng cùng một nghĩa nhưng trước đây hoạn quan không hẳn là thái giám mà hoạn quan dùng để chỉ những người phục dịch, hầu hạ vua, không nhất thiết phải là người bị thiến. Cho đến thời Đông Hán mới có lệnh ban ra là hoạn quan phải là người đàn ông bị thiến. Đến đời nhà Minh, từ “thái giám” xuất hiện và người được giữ chức thái giám phải là hoạn quan. Từ đó, thái giám được dùng để chỉ hoạn quan.


(2) Tĩnh thân: c̣n gọi là hoạn, thiến, yêm cát, cung h́nh, hủ h́nh, âm h́nh, tàm

thất…chỉ việc cắt bỏ một phần hoặc hoàn toàn bộ phận sinh dục người nam hoặc làm cho người đó không c̣n khả năng quan hệ với phụ nữ nhưng không nhất thiết phải thiến hoặc cắt bỏ.


(3) Hán Linh Đế: là vua thứ 12 thời Đông Hán, cai trị từ năm 168-189.


(4) Loạn “thập thường thị”: mười tên hoạn quan hợp nhau khuynh đảo triều chính:

Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lăm, Kiển Thạc, Tŕnh Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng.


(5) Hoạn quan đầu tiên nhiều người cho là Đỗ Thích, người được cho là đă giết vua

Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn. Nhưng chính sử ghi hoạn quan đầu tiên là Lư
Nhân Nghĩa, giúp thái tử Lư Đức Chính (tức Lư Phật Mă) dẹp loạn chư vương (Dực Thánh
vương, Đông Chinh vương, Vũ Đức vương) lên ngôi, tức vua Lư Thái Tông. Hoạn quan
được biết sau đó là Lư Thường Kiệt.


(6) Lư Nhân Tông: là con của vua Lư Thánh Tông và bà Ỷ Lan, có tên huư là Lư Càn

Đức, là vua thứ tư nhà Lư. 1. Lư Thái Tổ – Lư Công Uẩn, 2. Lư Thái Tông – Lư Phật Mă hay
Lư Đức Chính, 3. Lư Thánh Tông – Lư Nhật Tôn, 4. Lư Nhân Tông – Lư Càn Đức.


(7) Có nguồn tin cho rằng Thường Kiệt được ban họ Lư v́ công lao của cha ông đối với triều Lư nên sau khi cha ông – Ngô An Ngữ – mất, ông được ban quốc tính đổi họ. Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng ông được đổi sang họ Lư khi lập được đại công sau này.


(8) Sùng Tiết tướng quân: tức Sùng ban Lang tướng.


(9) Ngô An Ngữ: là cháu đời thứ năm của Ngô Quyền. Ngô An Ngữ là con Ngô Ích Vệ,

cháu nội Ngô Xương Xí, cháu cố (chắt) Ngô Xương Ngập, chút của Ngô Quyền.


(10) Hàn Diệu Chi: là bạn của Ngô Thuần Trúc, phu nhân của tướng Tạ Sơn.


(11) Lư Long Bồ: là con trai thứ hai của vua Lư Thái Tổ. Ông là em của công chúa An

Quốc (vợ tướng Đào Cam Mộc) và công chúa Bảo Hoà (vợ Thân Thừa Quư). Lư Long Bồ là
người có nhiều mưu lược và cũng chính là người đứng đằng sau chỉ huy nhiều trận đánh
trong các cuộc đụng độ ở biên giới giữa ta với Tống. V́ sự hiểu lầm giữa ông với triều đ́nh (cho rằng ông làm phản) nên các công lao của ông không được chính sử ghi lại. Ông có hai con trai là hoàng tử Lư Hoằng Chân và Lư Chiêu Văn là những anh hùng đă chỉ huy trận đánh Tống năm 1075 và cả hai đă tử trận trong trận đánh Tống trên sông Kháo Túc (Nham Biền) sau đó.


(12) GS Lê Văn Lan cho rằng: năm 1031 Ngô An Ngữ đi tuần ở Thanh Hoá và mất tại

đó. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác th́ Ngô An Ngữ chết năm 1028 trong trận triều đ́nh dẹp loạn các chư vương, khi quân của chư vương đánh phá Trường Yên. V́ vậy, Ngô An Ngữ đă được vua ban hai câu đối như sau:
“Đă đem xương máu đền non nước,
C̣n măi tinh thần với gió trăng”
Sau khi mất, vua chiếu công lao truy phong chức tước cho ông là Tả kim Ngô Thượng
Tướng quân, Đồng Trung thư Môn hạ B́nh chương sự, Trường Yên Tiết độ sứ.


(13) Lư Thánh Tông: có tên huư là Lư Nhật Tôn, là vua thứ ba triều Lư.


(14) Ngô Thuần Trúc: là em gái của Ngô An Ngữ, cháu đời thứ năm của Ngô Quyền.


(15) Tạ Đức Sơn: tức Điện Suư Tạ Sơn v́ ông giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ, bảo vệ an

ninh hoàng cung.


(16) Ngô Cẩm Thi: theo gia phả họ Ngô, bà là con của Ngô Quảng Thiên, tức Ngô

Xương Anh. Ngô Cẩm Thi là cháu đời thứ năm của Ngô Quyền, ḍng Ngô Xương Văn. Lư
Thường Kiệt, tức Ngô Tuấn là cháu đời thứ sáu của Ngô Quyền, ḍng Ngô Xương Ngập.


(17) Tôn Đản: là tướng cùng với Lư Thường Kiệt chỉ huy các trận vượt qua biên giới

đánh các châu của Tống nhằm ngăn chặn kế hoạch xâm lược quân Tống. Mặc dù có công
lớn với đất nước nhưng cả đời ông chưa từng nhận chức tước hoặc bổng lộc của triều Lư.
Tôn Đản không phải là Nùng Tông Đán, người đứng đầu các châu mục bắc biên, như một
số sách lầm tưởng. Tôn Đản lớn hơn Nùng Tông Đán khoảng 40 tuổi và là con của Tôn
Trung Luận, c̣n Nùng Tông Đán là con của Nùng Tồn Thương. Nùng Tông Đán đă từng bỏ ta theo Tống.


(18) Thái tử Mật thư tỉnh sự: tức là chức Mật thư Tỉnh sự thuộc phủ Thái tử (Đông

cung). Thường khi thái tử 13 tuổi được cho ra ở Đông cung để “tập làm vua”. Mỗi tháng
cũng thiết triều 3 lần nhưng không cùng ngày với vua. Chức Thái tử Mật thư Tỉnh sự là chức quan nửa vơ nửa văn, ngang với chức Tham tri (thứ trưởng ngày nay). Người giữ chức vụ này luôn ở bên cạnh thái tử và có nhiệm vụ tŕnh và đọc tất cả mọi tấu chương cho thái tử.
Khi thái tử ban lệnh ra th́ người này có nhiệm vụ truyền lệnh và theo dơi xem lệnh đó có được thi hành không.


(19) Lư Nhật Tôn: ông có tước Khai Hoàng vương, là vua Lư Thánh Tông sau này. Ông

là con của vua Lư Thái Tông và bà Triệu Liên Phương nhưng chính sử ghi mẹ ông là Linh
Cảm hoàng hậu – Mai Thị.


(20) Hoàng môn chi hậu: là hoạn quan theo hầu hạ vua. Ngoài ra, người giữ chức này

cùng với Hoàng môn Tổng quản chịu trách nhiệm khám tuyển các phi tần nạp vào hoàng cung cho vua và các thân vương.


(21) Nội thị sảnh đô tri: người giữ chức này chịu trách nhiệm giám sát các công việc

hàng ngày trong hoàng cung.


(22) Thái bảo: là một chức quan trong hàng Tam sư: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.


(23) Thái phó: cao hơn chức Thái bảo một bậc, cũng là một chức quan trong hàng

Tam sư: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.


(24) Khai Quốc công: Khai Quốc là tước hiệu, công là tước công.


(25) Thái uư: Chức quan đầu triều trong hàng tam công: Thái uư, Tư Đồ, Tư không.

Thái uư tương đương với chức Tổng tư lệnh quân đội ngày nay.


(26) Tên đầy đủ của chức này là “Nhập nội Điện đô tri Kiểm hiệu Thái uư B́nh chương quân quốc trọng sự”.


(27) Trận bắc phạt Tống năm 1075: tổng chỉ huy là Lư Thường Kiệt cùng các tướng

Tôn Đản, Nguyễn Căn, Lư Kế Nguyên, Trung Thành vương Lư Hoằng Chân và Tín Nghĩa
vương Lư Chiêu Văn. Hoằng Chân và Chiêu Văn là cháu nội vua Lư Thái Tổ, hai ông là con của Lư Long Bồ.


(28) Sử Việt ghi có ba châu là: Khâm, Liêm và Ung châu nhưng Tống sử ghi sáu châu:

Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi và Bạch châu. Theo Việt Sử Kỷ Yếu th́ sau khi hạ Ung Châu, Lư Thường Kiệt kéo quân lên Tân Châu. Viên quan coi châu này nghe tin quân ta kéo lên liền bỏ trốn.


(29) Khu Mật Viện: tương đương với Hội đồng An ninh Quốc gia ngày nay ở Việt Nam, gồm Bộ Công an, Cục Tác chiến, Cục Quân báo và Cục Phản gián.


(30) Vương An Thạch: được xếp trong “Đường Tống Bát Đại Gia”, tức là tám nhà thi

hào lỗi lạc nhất đời Đường – Tống. Ngoài ra, ông c̣n là Tể tướng thời vua Tống Thần
Tông. Vương An Thạch đă đưa ra Tân Pháp nhằm cải cách t́nh h́nh kinh tế, chính trị, xă
hội Tống lúc bấy giờ. Trong Tân Pháp có nhiều điểm tiến bộ mà nhiều người cho rằng nếu
việc thực hiện thành công có thể Trung Hoa sẽ qua mặt cả châu Âu và châu Mỹ sau này.
Tiếc rằng do bị các quan trong triều chống đối Tân Pháp nên Vương An Thạch đă xui vua
Tống đánh Đại Việt để lấy lại uy tín nhưng sự thất bại ở Đại Việt đă làm cho ông mất chức Tể tướng và Tân Pháp cũng bị huỷ bỏ.


(31) Quân Đại Việt bắt đầu rút quân ngày 23 tháng giêng năm Bính Th́n, tức 1-3-1076.


(32) Tống Thần Tông: tên là Triệu Húc, con của vua Tống Anh Tông – Triệu Thự.

Tống Thần Tông là vua thứ sáu nhà Tống: 1. Tống Thái Tổ – Triệu Khuông Dẫn, 2. Tống
Thái Tông – Triệu Khuông Nghĩa, 3. Tống Chân Tông – Triệu Hằng, 4.Tống Nhân Tông –
Triệu Trinh, 5. Tống Anh Tông – Triệu Thự, 6. Tống Thần Tông – Triệu Húc. Nhưng Triệu
Thự không phải là con ruột của vua Tống Nhân Tông. Triệu Thự là cháu cố của vua Tống
Thái Tông, v́ vua Tống Nhân Tông không có con trai nên nhận ông làm con nuôi và
nhường ngôi cho ông.


(33) Quách Quỳ: ḍng dơi Quách Quân Biện, người đă bị bắt sống trong lần quân

Tống xâm lược nước ta năm 981 dưới thời vua Lê Đại Hành. Quách Quỳ từng giữ chức
Tuyên vũ sứ Quảng Nam (Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay), sau được cử làm Kinh
lược chiêu thảo sứ, kiêm Nguyên soái, Tổng quản, Chánh sứ trong cuộc chiến chinh phạt
Đại Việt.


(34) Triệu Tiết: từng giữ chức An phủ sứ Quảng Nam Tây Lộ, tức Quảng Tây, sau

được cử làm phó Nguyên soái, phó Tổng quản, cùng với Quách Quỳ sang đánh Đại Việt.


(35) Tên của 12 tướng này là: Khúc Chẩn, Vương Mẫn, Diêu Tự, Lôi Tự Văn, Lư Hạo,

Dương Vạn, Trương Chi Giám, Lữ Chân, Trương Thế Cự, Lê Hiếu Tôn, Địch Tường, Quảng
Vi. Các tướng này đă qua kinh nghiệm trận mạc và có chức tước, đă chính thức giữ chức chỉ huy các đạo binh. Nhưng theo chính sử Việt th́ chỉ có 9 tướng.


(36) Chính sử Việt ghi chỉ có 10 vạn quân. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác th́ con

số này hơn 30 vạn. Theo nhật kư hành quân của Quách Quỳ và Triệu Tiết trong “Quách Thị Nam Chinh” và “Triệu Thị Chinh Tiễu Giao Chỉ Kư” th́ tổng số quân sang đánh nước ta trong trận đó là 96 vạn, được chia ra như sau: 30 vạn binh triều, 16 vạn binh các lộ, châu, 5 vạn kỵ binh, 5 vạn thuỷ binh, 40 vạn bảo binh (quân đi theo vận chuyển lương thảo, nấu ăn, tắm rửa cho ngựa. Khi cần có thể xung trận). Thiết nghĩ, con số phải là trên 10 vạn v́ theo tài liệu th́ số quân này từ biên giới phía bắc và phía tây được điều động về cùng với quân triều đ́nh đưa sang đánh nước ta. Nếu cần 10 vạn quân cũng có thể lấy thiên tử binh của triều đ́nh, không cần phải điều động quân thêm từ các chiến trường. Vả lại mục đích tiến quân lần này là để trả thù cho 10 vạn quân, dân bị chết trong trận vừa rồi và cũng để “làm cỏ” Đại Việt th́ không thể mang chỉ có 10 vạn là đủ.


(37) Sông Như Nguyệt: tức sông Cầu ngày nay. Lư Thường Kiệt đă cho quân lập ba

pḥng tuyến chặn quân Tống trên sông này ở ba đoạn: Phú Lương, Kháo Túc (tức Nham
Biền) và Như Nguyệt. Sau khi các nơi khác bị thất thủ th́ pḥng tuyến trên sông Như Nguyệt là nơi cuối cùng chặn giặc không cho tiến vào Thăng Long. Nơi đây đă xảy ra trận đánh kinh thiên động địa, hơn ½ số quân Tống bị giết, buộc Quách Quỳ phải lui binh.


(38) Trong lúc giữa Tống và Liêu với Tây Hạ c̣n đang cầm cự, Vương An Thạch xin

vua Tống Thần Tông đem quân đánh Đại Việt. Khi Đại Việt thua th́ các nước phía nam như: Đại Lư, Lăo Qua, Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La sẽ thần phục nhà Tống, lúc đó Tống đưa quân các nước này lên đánh dẹp Liêu và Tây Hạ dễ dàng. Vua Tống nghe lời, cho luyện tập binh mă, tích trữ lương thực, xây dựng đường xá chuẩn bị đánh Đại Việt, đồng thời cấm không cho buôn bán qua lại giữa hai nước để nước ta không biết việc làm này. Tống âm thầm chuẩn bị được 3 năm th́ Đại Việt biết được và kéo quân qua đánh. Thất bại ở Đại Việt đă làm cho Vương An Thạch bị phe chống đối buộc vua Tống Thần Tông cách chức, năm 1076 An Thạch về quê sống ở Giang Ninh.


(39) Trận đánh Chiêm 1069: có nhiều nguyên nhân quân ta đánh Chiêm trong trận

này nhưng nguyên nhân chính là do Tống xúi Chiêm tràn qua biên giới giết người Việt. V́ vậy, Đại Việt đánh Chiêm cũng với mục đích là dằn mặt Tống.


(40) Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, tỉnh Quảng

B́nh.


(41) Địa Lư: sau c̣n gọi là châu Lâm B́nh, nay là đất huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng B́nh.


(42) Ma Linh: sau c̣n được gọi là châu Minh Linh, nay là đất huyện Bến Hải, tỉnh

Quảng Trị.


(43) Lư Giác: người học được tà thuật, tự xưng là tướng nhà trời nên nhiều người ở

Diễn Châu theo về. Nhân đó Lư Giác giữ Diễn Châu làm phản, chống lại triều đ́nh. Sau khi bị Lư Thường Kiệt đánh dẹp, Lư Giác qua Chiêm xúi vua Chế Ma Na đánh Đại Việt.


(44) Hoàng hậu Thiên Cảm: tức Dương hậu. Bà là con của Tể tướng Dương Đức

Thành và là em của Dương Đức Uy, tức cô ruột của Dương Hồng Hạc. Dương hậu là người thiếp yêu của vua Lư Thái Tông, tháng 7-1035 bà được lập làm hoàng hậu.


(45) Tạ Thuần Khanh: là em con của người cô của Lư Thường Kiệt.


(46) Xin xem: “Hoạn quan”, Nguyễn Thị Chân Quỳnh: http://vietsciences.free.

fr/vietnam/vanhoa/phongtuc/hoanquan.htm


(47) Vào thời điểm đó, mỗi quan tiền là 600 đồng, 30.000 quan bằng 18.000.000 đồng.

Giá một thùng gạo (10.75 kg) là 5 đồng, vậy 30.000 quan có thể mua được 3.600.000 thùng gạo, tức 38.700.000 kg gạo. Nếu 1 kg gạo nuôi 2 người lính trong một ngày, th́ số gạo trên có thể nuôi 75.000 lính trong khoảng 3 năm, một số tiền rất lớn.


(48) Phạm Ứng Mộng: xem Đại Việt Sử Kư Toàn Thư quyển V, phần I.


(49) Nguồn tin này cho rằng Lư Thường Kiệt bị hoạn khi 23 tuổi, tính theo tuổi ta tức

năm 1041.


(50) Xin xem: “Hoạn quan”, Nguyễn Thị Chân Quỳnh: http://vietsciences.free.

fr/vietnam/vanhoa/phongtuc/hoanquan.htm


(51) Nùng Trí Cao: con của Nùng Tồn Phúc và bà A Nùng. Nùng Trí Cao là thủ lĩnh các khê động ở biên giới phía bắc giáp Tống và đă nhiều lần nổi dậy chống Tống với sự trợ giúp của nhà Lư đứng đằng sau. Sau đó Nùng Trí Cao chiếm đất Tống lập nên nước Đại Nam, tồn tại khoảng ba năm.


(52) Các nguồn sử liệu Tống có ghi lại việc này như sau: vua Tống cho người sang Đại

Việt với lời hứa sẽ phong cho Dương Đạo Gia làm Giao Chỉ Quận Vương nếu cướp được
ngôi nhà Lư. Nhà Tống muốn Dương Đạo Gia tổ chức binh biến cướp ngôi với lời hứa nếu
thất bại th́ họ sẽ gửi quân Tống sang giúp. Họ Dương tin lời và đă tổ chức cướp ngôi ngay khi vua Lư Thánh Tông mất, đưa hoàng hậu Thượng Dương lên làm thái hậu, nắm quyền trong triều. Ỷ Lan là mẹ vua Lư Nhân Tông chỉ được làm thái phi mặc dù bà rất tài giỏi, trước đây đă làm nhiếp chính khi vua Lư Thánh Tông cầm quân đi đánh Chiêm Thành. Nhờ có sự giúp đỡ của Lư Thường Kiệt nên phe bà Ỷ Lan lật đổ được phe hoàng hậu Thượng Dương rồi lên nắm quyền nhiếp chính, bà Ỷ Lan được tôn lên làm hoàng thái hậu Linh Nhân. Sau khi thất bại, quân Tống đă không qua giúp họ Dương như lời hứa nên phe họ Dương đă bị
diệt.

(53) Dương Đạo Gia: tức Dương Đức Minh. Ông giữ chức Tể tướng kế tiếp cha ông,
Dương Đức Thành. Dương Đạo Gia là bác của Dương Hồng Hạc.

(54) Dương Đức Uy: tức Dương Đức Khai, là cha của Dương Hồng Hạc. Đức Uy giữ
chức Tham tri bộ Lại, tương đương chức Thứ trưởng bộ Nội Vụ ngày nay.

(55) Dương Đức Thao: Anh trai của Dương Hồng Hạc.
(56) Dương Đức Huy: là con của Dương Đức Thao, cháu gọi Dương Hồng Hạc bằng
cô.

Tài liệu tham khảo:
– “Battlefronts Real and Imagined: War, Border, and Identity in the Chinese Middle
Period”, edited by Don J. Wyatt. Phần “Shifting Frontier Alliances in the Breakdown of Sino- Vietnamese Relations on the Eve of the 1075 Border War”, của James A. Anderson.
– “Chế độ hoạn quan ở Việt Nam có từ khi nào”?

http://www.sggp.org

.

vn/bandocdatcauhoi/2006/12/75072/
– Danh nhân đất Việt: “Lư thường Kiệt”, của PTS Văn Khuê.
– Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, quyển II và III: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên
soạn thảo năm 1272 – 1697, do Viện Khoa Học Xă Hội Việt Nam dịch (1985 – 1992).
– “Hà Nội ngàn năm” của GS Lê Văn Lan. Tạp chí Thăng Long, số 7-2002.
– “Hoạn quan”, Nguyễn Thị Chân Quỳnh: http://vietsciences.free.
fr/vietnam/vanhoa/phongtuc/hoanquan.htm
– Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – chính biên, quyển II và quyển III, và
quyển VI, Quốc Sử Triều Nguyễn, biên soạn năm 1856-1881 và do Viện Sử Học dịch
năm1957-1960.
– “Kinh đô Rồng”, “Một mất một c̣n” và “Thời vàng son” trong “Thăng Long kư”, của
Nguyễn Khắc Phục. Nhà Xuất Bản Thanh Niên, 2004.
– “Lư Thường Kiệt: Lịch sử, ngoại giao và tôn giáo triều Lư”, của GS Hoàng Xuân Hăn.
– “Lư Thường Kiệt” của Nguyễn Mộng Khôi.
– “Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc”, phần: “Chiến thắng Như
Nguyệt” của các tác giả: Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doăn, Phan Thị Tâm và
Trần Bá Chí.
– “Nam Quốc Sơn Hà” của GS Trần Đại Sĩ.
– Nhật kư hành quân: “Quách Thị Nam Chinh” của Quách Quỳ và “Triệu Thị Chinh Tiễu
Giao Chỉ Kư” của Triệu Tiết, hai người là chánh và phó Nguyên soái của Tống trong cuộc
nam chinh đánh Đại Việt vào năm 1076.
– “Nhị tŕnh di thư”, của Tŕnh Di & Tŕnh Hạo, phần “Tống – Lư giao bang tập lục”.
– “Những dấu tích Lư Thường Kiệt trên đất Hà Nội” của Vân Ngọc: http://www.suutap.
com/default.asp?id=858&muc=3
– Nùng Trí Cao: “Người Choang, các dân tộc ít người vùng biên giới Việt – Hoa trong
triều đại nhà Tống”, của Jeffrey G. Barlow.
– “Song-Lư War of 1075-77, detailed account of the conflict with Dai Viet”, Chiến tranh Tống – Lư năm 1075-1077, chi tiết dẫn tới cuộc khủng hoảng với Đại Việt. China History
Forum:

http://www.chinahistoryforum.com/index.php?showtopic=26426


– “The Rebellion of Nong Zhigao” (Sự nổi dậy của Nùng Trí Cao) by Jeffrey G. Barlow.
– Việt Nam Sử Lược, phần IV. Trần Trọng Kim.
– “Việt Sử Kỷ Yếu”, của Trần Xuân Sinh. Nhà Xuất Bản Hải Pḥng, 2004.
– Ngoài các nguồn tài liệu kể trên, bài viết này c̣n sử dụng nhiều nguồn tài liệu tranh luận trên các Diễn đàn Lịch sử, Diễn đàn Sử học, Diễn đàn Viện Việt học…