Results 1 to 4 of 4
  1. #1
    Senior Member Quada09's Avatar
    Join Date
    Sep 2015
    Posts
    2,265
    Post Thanks / Like

    Một câu kinh tóm lược Phật Pháp




    Một câu kinh tóm lược Phật Pháp

    Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo


    Câu “Phật Pháp không phải là Phật Pháp cho nên gọi là Phật Pháp” xuất hiện trong nhiều cuốn Kinh Phật. Nó được nhắc lại nhiều lần trong kinh Kim Cang. Hăy phân tích để thấu hiểu ư nghĩa bao quát của câu kinh này.

    Câu kinh có ba phần rơ rệt: Phật Pháp, không phải là Phật Pháp, cho nên gọi là Phật Pháp.

    1/ Phần 1: Phật Pháp

    Trước tiên hăy phân biệt Phật Pháp và Kinh Phật

    Phật Pháp ̣(Buddha’s teaching) là lời dạy từ chính cửa miệng của Như Lai trong suốt 50 năm giảng đạo. Ở thời điểm đó, Ấn Độ chưa có chữ viết. Những lời giảng của Ngài được chuyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác. (A Nan, người có trí nhớ siêu phàm và là đệ tử trẻ nhất trong 12 đại đệ tử là người có công nhiều nhất trong việc chuyền khẩu lời của Như Lai). Hậu qủa của việc chuyền khẩu là: cùng một ư tưởng của Như Lai mà các hệ phái lại diễn đạt khác nhau trong kinh sách của họ.


    Đọc những kinh đó, rất khó biết đâu là lời nguyên thủy của Như Lai. Sau này người ta thỏa thuận với nhau rằng: những lời nào được nhiều cuốn kinh chép giống nhau th́ có nhiều cơ may là lời nguyên thủy của Như Lai. Người ta c̣n nhận xét thêm được một điều đáng khích lệ: những lời chép giống nhau ấy đều b́nh dị, khúc triết, chân thành và khiêm nhượng, phù hợp với ngôn ngữ thường nhật của Ngài.

    Như vậy, về phương diện xuất xứ, Phật Pháp chỉ nguyên thủy một cách tương đối chứ không tuyệt đối.

    Về phương diện phẩm và lượng, Phật Pháp rất thâm thúy và phong phú (muốn ghi chép đầy đủ̉ phải cần cả ngàn trang). Mục tiêu là diệt khổ để giải thoát. Phật Pháp (c̣n được gọi vắn tắt là Pháp) là một trong tam bảo (ba thứ qúy báu): Phật (Buddha), Pháp (Buddha’s teaching) và Tăng (Community of the people who practice Buddism).

    Bài dạy đầu tiên và căn bản của Pháp là Tứ Diệu Đề (the four noble truths): Đau khổ, Nguồn gốc của đau khổ, Cần diệt khổ, Tám phương thức để diệt khổ.

    Kinh Phật là những cuốn kinh do các hệ phái Phật giáo viết ra dựa trên một hay nhiều câu nói của Như Lai. Có hai hệ phái chính là Tiểu thừa và Đại thừa. Hai hệ phái này lại chia thành nhiều hệ phái nhỏ. Tổng cộng có hàng chục hệ phái khác nhau. Mỗi hệ phái viết ra một hay nhiều cuốn kinh cho phật tử và tăng ni tụng niệm. Tổng cộng có gần một ngàn cuốn Kinh Phật đă được viết ra (từ lúc có chữ viết) sau khi Như Lai nhập diệt.

    Như vậy Kinh Phật là kinh chép những lời của Phật mà các hệ phái đă sửa đổi rồi pha trộn với học thuật và phong tục của địa phương (tỷ dụ khi tới Trung quốc th́ pha trộn với Khổng học và Lăo học thành tam giáo đồng nguyên). V́ thế cho nên ta thấy đầy rẫy những “ánh hào quang” và “phép thần thông” trong Kinh Phật. Pháp Hoa, Hoa Nhiêm, Niết Bàn, Kim Cang… là những cuốn Kinh Phật quan trọng nhất.

    2/ Phần 2: Không phải là Phật Pháp

    Phần này phủ định phần 1. Phủ định một chân lư ngay sau khi vừa xác định nó là một kỹ thuật diễn tả độc đáo của Phật học. Một đặc điểm nữa: càng phủ định một chân lư càng làm cho nó thâm thúy hơn. Hăy thử áp dụng kỹ thuật phủ định của Phật học để giải thích phần 2 này:

    a/ Phủ định thần linh:

    Phật học phủ định thần linh một cách nhẹ nhàng, không gay gắt như thuyết Duy Vật. Nhiều người đă hỏi Như Lai về thần linh và Ngài chỉ trả lời một câu duy nhất: “Đạo của ta là diệt khổ. Có hay không có thần linh không liên hệ ǵ tới sự diệt khổ nên ta không nói”.

    Phật học không đề cập tới Thượng Đế v́ không biết ǵ về Ngài. Phật học và khoa học có chung một thái độ liên quan tới Thượng Đế: không biết th́ không nói.

    b/ Phủ định phép lạ:

    Sự phủ định phép lạ của Phật học được h́nh thành trong giai thoại này: Trong khi chờ đợi qua đ̣, Như Lai và hai đệ tử chứng kiến một đạo sĩ Bà La Môn biểu diễn phép khinh công qua lại trên sông và khoe rằng đă khổ luyện 20 năm mới học được phép đó. Thấy hai đệ tử có vẻ thán phục, Ngài móc một đồng xu trong túi ra và nói rằng: “ Gă đó phải khổ luyện 20 năm mới sang sông được một ḿnh. Thày chỉ cần dùng đồng xu này trả cho anh lái đ̣ là cả ba thày tṛ ḿnh đều sang sông dễ dàng”. Một xu của Như Lai có hiệu qủa hơn 20 năm khổ luyện của gă đạo sĩ phù thủy!

    c/ Phủ định giáo chủ:

    Trong một cuộc hành hương, Như Lai gặp một sa di trẻ và khôi ngô trong một am vắng. Cuộc đối đáp diễn tiến như sau:

    -Thày của chú là ai?

    -Thày của con là đức Phật.

    -Diện mạo của Phật thế nào?

    -Con chỉ nghe danh và học Pháp của Ngài chứ chưa hề gặp Ngài.

    -Nếu được gặp, chú có thể nhận ra Ngài hay không?

    -Thưa không.

    -Tôi cũng có một Pháp. Chú nghe thử nhé!

    Sau khi nghe bài giảng, sa di bèn qùy gối thưa rằng:

    -Vậy th́ chính Ngài là Phật rồi. Kính xin Ngài nhận con làm đệ tử.

    – Đừng vội nhận ta là giáo chủ chỉ v́ ta là Phật. Trước tiên con phải thấu hiểu Pháp của ta. Kế tiếp phải đồng ư với nó. Rồi phải thực thi nó trước khi nhân ta là giáo chủ.

    d/ Phủ định giáo điều:

    Chấp nhận Pháp để tu tập th́ giải thóat. Giải thoát là thành quả của sự tu tập chứ không phải thưởng thí của thần linh. Không chấp nhận cũng không bị trừng phạt.

    e/ Phủ định thờ phụng:

    Không buộc tín đồ phải lễ bái hoặc cầu khẩn. Cầu tài, cầu lộc, cầu an…không phải là cứu cánh của Pháp.

    f/ Phủ định độc tôn:

    Một danh sư Ấn-Độ giáo gửi hai đệ tử tới chất vấn Như Lai. Sau cuộc đàm đạo, hai người xin ở lại làm đệ tử của Phật. Như Lai phán rằng: “Thày của hai ông là một tu sĩ đáng kính. Ngài chưa hề phụ hai ông. Vậy hai ông chẳng nên phụ Ngài. Hai ông có thể thực thi Pháp của tôi trong khi vẫn tôn Ngài làm giáo chủ”. Sau này cả ba thày tṛ đều thành đệ tử của Phật.

    Phật pháp phủ định độc tôn nên luôn luôn đứng ngoài các cuộc thánh chiến thảm khốc giết hại hàng trăm triệu người vô tội. Phật Pháp c̣n gián tiếp tạo cơ may cho tín đồ của những tôn giáo khác nhau chung sống hoà b́nh.

    g/ Phủ định quyền phép:

    Như Lai từng than rằng cái nghiệp của Hoàng gia của Ngài quá nặng do đă giết hại quá nhiều sinh linh mà không chịu tu tập Pháp để cải nghiệp; sau này hoàng gia ắt gặp tai ương. Quả nhiên, không lâu sau khi Ngài nhập diệt, hoàng gia của Ngài bị tiêu diệt.

    Chuyện này nói lên rằng Phật Pháp trụ ở việc dạy ta tu thân tích đức để tự cứu lấy ḿnh, không trụ ở việc cứu nhân độ thế. Như Lai không cứu nổi hoàng gia của Ngài th́ hiển nhiên Ngài không phài là đấng cứu thế. Phật tử phải thực thi Pháp để tự cứu ḿnh, Như Lai không có quyền phép cứu phật tử. Không có đấng cứu thế trong Phật Pháp.

    h/ Phủ định tội tổ tông:

    Phật Pháp không chấp nhận tội tổ tông (rất phù hợp với luật pháp hiện hành của nền dân chủ). Ai làm phúc th́ hưởng phúc. Ai gây tội th́ đền tội. Chỉ lănh cái tội do chính ḿnh gây ra. Gây nhiều tội mà đền tội chưa hết th́ vẫn chưa được tha. Tuyệt đối không có việc quỳ gối xám hối trước Phật đài trong giờ lâm tử th́ được tha hết tội đă phạm.

    Tóm lại, phần 2 (không phải là Phật Pháp) phủ định cái chất tôn giáo của phần 1 (phủ định những lợi khí mà các tôn giáo thường dùng để giữ đạo và truyền đạo). Nó ngụ ư rằng Phật Pháp không lệ thuộc thần linh, không lệ thuộc phép lạ, không trụ ở quyền lực, không trụ ở giáo lư, không trụ ở giáo chủ, không trụ ở nghi lễ, không trụ ở thưởng thí và trừng phạt.

    Người phật tử có toàn quyền tự do tín ngưỡng và là người duy nhất có quyền tự kết tội hoặc tự tha tội cho ḿnh nếu hành xử theo như Pháp dạy. Pháp là cao quư nhất. Theo Pháp là có quyền tự do, là có quyền tự chủ, là có nhân quyền, là không lệ thuộc ai và không khiến ai lệ thuộc ḿnh, là giác ngộ, là giải thoát, là thành Phật.

    3/ Phần 3: Cho nên gọi là Phật Pháp

    Phần này phủ định cả hai phần 1 và 2 và cũng là một trong những điều cao thâm nhất của Phật học.

    Phần 1 ( Phật Pháp ) giới thiệu đường lối đi từ trần tục tới Niết Bàn. Đường lối này, thoạt nh́n, giống hệt một tôn giáo.

    Phần 2 ( không phải là Phật Pháp ) phủ định đường lối ấy, nói rằng nó chỉ là sự diệt khổ. Phủ định cái Niết bàn ấy, nói rằng nó chỉ là cơi hư vô để giải thóat phận người. Phủ định cái tôn giáo ấy, nói rằng nó chỉ là cái Pháp dạy con người giải thóat, giống như cái bè giúp ta sang sông (sẽ nói rơ hơn trong phần 3).

    Phần 3 ( cho nên gọi là Phật Pháp ) phủ định luôn phần 2 sau khi xác định nó. Hai danh ngôn của Như Lai dưới đây sẽ giải thích thỏa đáng phần 3 này.


    a/ Danh Ngôn của Như Lai trích trong bài Phật Pháp và Chiếc Bè (có thể đọc toàn bài ở phần phụ bản)

    Như Lai hỏi 1 trong 12 đại đệ tử : “Sau khi giải thóat con sẽ xử trí đạo của thày ra sao?”

    Đệ tử đáp: “ đạo của thày rất nhiệm mầu. Sau khi giải thoát con sẽ khắc trong tim và giữ măi trong đầu.”

    Như Lai phán: “Con hiểu chưa thấu. Đạo của thày giúp con giải thoát giống như chiếc bè giúp con sang sông. Khi đă đáo bỉ ngạn (sang bờ bên kia) con nên bỏ chiếc bè ấy lại cho người khác dùng, đừng tiếp tục đội nó trên đầu mà đi”.

    Ư của Như Lai thật minh bạch. Khi một người đă đắc đạo th́ đạo pháp chẳng c̣n có ích lợi ǵ cho người ấy nữa. Tiếp tục giữ nó trong đầu tức là nô lệ giáo điều.

    C̣n nô lệ gíao điều th́ vẫn chưa giải thoát.

    Phật dạy ta đừng nô lệ bất cứ điều ǵ kể cả Phật Pháp bởi v́ vạn sự đều vô thường. Trong lúc tu hành ta dùng Pháp như chiếc bè để vượt bể khổ. Lúc này Pháp là hữu. Khi đắc đạo, Pháp trở thành không. Đến lúc đó mà c̣n bị Pháp trói buộc th́ thật sự chưa giải thoát.

    Vậy th́ Phật Pháp cũng vô thường. Nó chỉ thường hằng (trường cửu) đối với người chưa giải thoát v́ kiếp sau người đó vẫn phải dùng nó để tu thân. Người đă giải thoát th́ không cần tới nó nữa. Đây là vô thường tương đối.

    Địa cầu rồi sẽ chết, khi địa cầu chết th́ Phật Pháp cũng chết theo. Vậy Phật Pháp sẽ vĩnh viễn vô thường chứ không thường hằng như một số ḥa thượng đă từng thuyết giảng. Đây là vô thường tuyệt đối.

    b/ Danh ngôn cuối cùng của Như Lai

    Vào năm cuối cùng trước khi nhập diệt, Như Lai phán rằng: “Ta giảng đạo suốt 50 năm mà chưa hề nói một lời nào”.

    Đây là câu phủ định cuối cùng của Như Lai. Thâm sâu vô cùng. Cao siêu vô cùng. Mạnh mẽ vô cùng. Khiêm nhượng vô cùng. Câu này tuy phủ định Phật Pháp mà kỳ thực làm cho Phật Pháp cao thâm hơn. Ư nghĩa của câu này nằm gọn trong bài Phật Pháp và Chiếc Bè vừa tŕnh bày ở trên.

    Danh ngôn này c̣n phủ định cả ba yếu tố của Tam Bảo:

    Mục tiêu của Tăng là giác ngộ để thành Phật. Vậy th́ Tăng không quư bằng Phật nghĩa là phủ định Tăng sau khi Tăng thành Phật.
    Phật nhập diệt mà Pháp vẫn c̣n. Vậy th́ Phật không quư bằng Pháp nghĩa là phủ định Phật sau khi đă có Pháp.

    C̣n Pháp th́ sao? Pháp có thường hằng (vĩnh cửu) không? Khi đă giải thoát th́ không cần tới Pháp nữa nghĩa là phủ định Pháp sau khi giác ngộ. Nói cách khác, Pháp cũng vô thường như Phật và Tăng.

    KẾT LUẬN
    Câu “ Phật Pháp không phải là Phật Pháp cho nên gọi là Phật Pháp” có nghĩa là Phật Pháp giống một chiếc bè để sang sông, chứ không giống một tôn giáo để lệ thuộc. Sang sông rồi th́ bỏ bè lại để giải thoát. Như thế mới gọi là Phật Pháp.


    Con C̣

    PHỤ BẢN

    PHẬT PHÁP và CHIẾC BÈ

    Vịnh Tam Bảo bài 13

    Như Lai hỏi 1 trong 12 đệ tử : ” Sau khi đắc đạo con sẽ xử trí đạo của thày ra sao?”
    Đệ tử đáp: “ đạo của thày rất nhiệm mầu. Sau khi giải thoát con sẽ khắc trong tim và giữ măi trong đầu.”

    Như Lai phán: “Con hiểu chưa thấu. Đạo của thày giúp con giải thoát giống như chiếc bè giúp con sang sông. Khi đă đáo bỉ ngạn (sang bờ bên kia ) con nên bỏ chiếc bè ấy lại cho người khác dùng, đừng tiếp tục đội nó trên đầu mà đi”

    Lời bàn

    Ư của Như Lai thật minh bạch. Khi một người đă đắc đạo th́ đạo pháp chẳng c̣n có ích lợi ǵ cho người ấy nữa. Tiếp tục giữ nó trong đầu tức là nô lệ giáo điều. C̣n nô lệ gíao điều th́ vẫn chưa giải thoát.

    Phật dạy ta đừng nô lệ bất cứ điều ǵ kể cả Phật Pháp bởi v́ vạn sự đều vô thường. Trong lúc tu hành ta dùng Pháp như chiếc bè để vượt bể khổ. Lúc này Pháp là hữu. Khi đắc đạo, Pháp trở thành không. Đến lúc đó mà c̣n bị Pháp trói buộc th́ thật sự chưa giải thoát.

    Vậy th́ Phật Pháp cũng vô thường. Nó chỉ thường hằng (trường cửu) đối với người chưa thoát tục v́ kiếp sau người đó vẫn phải dùng nó để tu thân. Người đă giải thoát th́ không cần tới nó nữa. Địa cầu cũng vô thường, khi địa cầu chết th́ Phật Pháp cũng chết theo. Vậy Phật Pháp cũng vô thường chứ không thường hằng như một số ḥa thượng đă từng thuyết pháp.

    Thơ

    Như Lai hỏi: “Sau khi giải thoát
    Đạo của ta con giữ thế nào?”
    Chúng tăng thưa: “Đạo thày quư nhất
    Rất từ bi và rất cao sâu
    Chúng con ngưyện từng giây từng khắc
    Giữ trong tim và đội trên đầu”
    Phật lại hỏi: “Trên làn nước bạc
    Con dùng bè mà vượt sông sâu.
    Khi tới bến trao cho kẻ khác
    Hay đội bè măi măi trên đầu?
    Vượt bến mê th́ dùng đạo Pháp
    Như dùng bè mà vượt sông sâu.
    Đáo bỉ ngạn sau khi giải thoát
    Đạo Pháp c̣n ích lợi ǵ đâu!”
    Qua bể khổ vứt bè mau,
    Để cho hậu thế ngàn sau biết xài.
    Đừng v́ quá nể Như Lai,
    Hiểu sai Phật Pháp dùng sai chiếc bè.

    Con C̣

  2. #2
    Kiemsi
    Guest
    ....Chợt nhớ lại chuyện Thánh Alah ...

    Được biết là ngựi mù chữ nên những lời chỉ bảo, giảng dạy phải nhờ một số người gọi tạm là Thiên sứ nghe rồi chép lại..."Tam sao thất bổn".

    Chẳng biết thánh Alah có phán rằng phải lấy 4 vợ, và khoảng 9 tuổi là cưới đc ngay không? hay các ông thiên sứ lợi dụng để viết thêm cho ḿnh ? :)

    Một thắc mắc khó giải thích ? Mong gặp Cao nhân ....

  3. #3
    Senior Member
    Join Date
    Dec 2015
    Posts
    166
    Post Thanks / Like
    các thiên sứ vừa mới thông báo thánh Alah đổi ý rồi, chúng sinh đừng nên lấy vợ nào hết, mà chỉ nên có ít nhất là 4 bồ thôi, lúc ̣lên 9 tuổi thì nên thử cho biết

  4. #4
    Kiemsi
    Guest
    ...trái chín ăn mới ngon hay ít nhất dú cho nó hườm hườm ăn mới thích

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •