Môt tḥi dang nho' ...!!!
Môt tḥi dang nho' ...!!!





. . . Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là niềm say mê tốc độ của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say mê này đă ghi vào kư ức của nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại không phai nhạt với thời gian. . .




Xe gắn máy tại miền Nam trước 75



Em Tập Lái Vespa - Ban AVT

https://www.youtube.com/watch?v=JceJyjOw3Dg


Dàn Xe Cổ Sài G̣n Của Trương Quốc Huy Tại California

https://www.youtube.com/watch?v=gAwv1-QuqTY


Một thời đáng nhớ

Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại miền Nam trước 1975 và cho đến nay, xe gắn máy vẫn là phương tiện di chuyển được nhiều người sử dụng nhất . Bài này xin nhắc lại một số xe gắn máy đă hiện diện tại miền Nam trước 1975.
Nói đến xe gắn máy th́ chắc là mọi người sống tại miền Nam trước đây đều biết đến xe Mobylette. V́ Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên hăng Motobécane của Pháp, chế tạo ra chiếc Mobylette, đương nhiên là hiện diện trên thị trường Việt Nam. Nhưng nhiều người biết đến tên Mobylette hơn là Motobécane. Xe Mobylette ở Việt Nam có loại Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều dùng động cơ 49,99cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái, nhưng Mobylette vàng th́ nhỏ hơn, chỉ có ống nhún phía trước, c̣n Mobylette xanh th́ lớn, nặng hơn có ống nhún ở cả bánh trước lẫn bánh sau nên đi êm hơn và giá cao hơn .
Mobylette Xanh
Mobylette Vàng
Xe Mobylette xem chừng ra không thay đổi nhiều lắm qua nhiều năm. Xe Mobylette trong thập niên 1950 thân là những ống tuưp hàn lại. Qua thập niên th́ thân làm bằng tôn ép. Màu sắc cũng ít thay đổi. Có lúc Mobylette vàng đổi thành Mobylette xám. Xe Mobylette được chế tạo để dễ sử dụng. Xe không cần sang số mà dùng embrayage automatique, vặn ga lớn th́ xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại th́ xe chạy chậm và đứng lại. Khi muốn nổ máy th́ chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đạp hoài không nổ th́ chỉ gần gạt môt cái chốt ở đĩa có dây couroie ăn vào động cơ để tách rời động cơ và bánh sau th́ có thể đạp bộ về nhà.
Velo Solex
Velo Solex 1951
Nếu có khi nào trong lúc bạn đạp xe đạp rồi nghĩ bụng sao không gắn một cái động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp th́ ư nghĩ đó đă có người nghĩ đến và chế tạo ra chiếc Vélosolex. Xe Vélosolex là một
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tṛn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt th́ cục đá dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống th́ tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đă chạy ngon trớn th́ người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ư kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn c̣n tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.
Quảng cáo xe Mobilette
H́nh xe Mobylette trên tem thư Cộng Ḥa Pháp
V́ cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên các xe Mobylette, Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh và phái nữ.
Xe Vespa
Xe Lambretta
Ở một hạng cao hơn là các xe scooter của Ư: Vespa, Lambretta. Các xe scooter này v́ ḷng máy lớn hơn 50 cc, nhỏ nhất là 125 cc hoặc 150 cc hoặc 200 cc tùy theo kiểu, nên không c̣n được xếp vào loại vélomoteur. Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng lái. V́ thế, những người đi xe Vespa, Lambretta thường là ở tuổi trung niên và có đời sống cũng tương đối khá v́ xe scooter đắt hơn. Xe Vespa hàng chục năm nay không thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ v́ thế nên làm h́nh tṛn như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được đặt ở chỗ ph́nh bên phải, c̣n bên trái là ngăn để chứa đồ. V́ thế xe Vespa khi chạy hơi nghiêng về phía phải v́ bên này nặng hơn. Xe Lambretta tuy trông bề ngoài giống Vespa nhưng cấu tạo lại khác. Khung xe bằng ống sắt hàn lại, máy đặt ở giữa khung và che bên ngoài bằng lớp vỏ sắt. Xe Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường nét cong. Cuối thập niên 60, qua đầu thập niên 70 th́ kiểu dáng thẳng, theo như mốt của thời đó, nên trông thanh nhă. Cả hai đều sang số bằng tay, bóp embrayage vào và vặn để đổi số.
Vespa Sprint 1974
Lambretta 1974
Từ cuối thập niên 1950, miền Nam cũng nhập cảng các xe gắn máy Đức như Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có chung đặc điểm là có b́nh xăng đặt trước người lái, sang số bằng tay, có ống nhún cả trước lẫn sau, và máy đều là 50cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái. Mỗi xe lại có những đặc điểm riêng như máy xe Puch luôn luôn được bọc trong lớp vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để làm mát. Như thế có lợi điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ. V́ là xe có sang số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hăng Puch và Sachs ngày nay vẫn c̣n tồn tại.
Goebel
Puch
Sachs
Puch
Goebel
Xe 3 bánh gắn máy Sachs/Goebel
Vào khoảng 1965 th́ thấy nhắc đến tên Honda, với một số kiểu xe mới lạ xuất hiện. Một số xe Honda đầu tiên do người Mỹ mua đem sang Việt Nam để đi làm việc rồi khi họ về nước th́ để lại, lọt ra ngoài thị trường người Việt mua được. Một trong những công dụng của xe Honda là các phi công Mỹ dùng để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại. Từ doanh trại ra chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài chục phút. Có xe Honda phóng th́ thu ngắn thời gian nhất là khi có báo động th́ phóng xe Honda ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ. Xe Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 1965 v́ kiểu đẹp và máy mạnh, tiếng nổ ṛn. Các kiểu xe kia là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng v́ đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà v́ không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe. Xe Honda dame C50 trước 1965 có chiếc đă có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda dame nhập cảnh hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.
Honda Dame C50
Honda P50 1967
Honda PC50 1968
Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu thụ là xe Honda Dame năm 1965. Hăng Honda th́ gọi là kiểu C50, nhưng mọi người thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng không ai gọi Honda Homme, mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại Sài G̣n thu hút được sự chú ư của người đi đường. Những ngày đầu tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nh́n thấy các chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị tắt máy xe, hư hoáy nh́n xuống chân v́ chưa quen với cách sang số bằng chân. Sang lộn số có thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một số người dắt xe Honda đi bên đường, có người nói hăng Motobécane của Mobilette thuê người dắt xe Honda Dame đi khắp các đường phố để người dân thấy xe Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ không dám mua. Không biết là có đúng hay không. Một số người lúc đó nói là hàng Nhật không bền, chỉ vài năm là hỏng và tiên đoán rằng chừng năm mười nữa th́ các xe gắn máy Pháp, Đức vẫn c̣n chạy, c̣n xe Nhật th́ lúc đó vứt đi. Những người đó có lẽ căn cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật trước thập niên 1960. Nhưng qua thập niên 1960, các hăng xe gắn máy Nhật đă trải qua những năm cạnh
tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hăng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hăng có khả năng cải tiến mới sống c̣n. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hăng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
Honda SS50 69-72
Honda SS90
Xe Honda Dame được làm để cho phái nữ đi nên dùng ambrayage tự động, khi sang số chân không cần phải bóp embrayage tay mà chỉ cần giảm ga. Các hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế. C̣n các xe gắn máy Nhật kiểu đàn ông được vẽ kiểu giống như những chiếc mô tô phân khối lớn ở chỗ không có pédale mà có cần đạp cho nổ máy, hai bên có thanh ngang để chân, bên phải là thắng chân, bên trái là cần sang số, embrayage tay trái, thắng trước tay phải, b́nh xăng phía trước. Các xe này c̣n giống mô tô ở chỗ hai bên b́nh xăng có hai miếng cao su để đầu gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người Á Châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử dụng các xe gắn máy Tây phương. Tay ga vặn nhẹ nhàng chứ không nặng như xe Tây phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ. Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng dễ dàng, tiện nghi hơn khiến cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.
Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66 (SS50). SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người lái thu hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn signal, hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ đối với một chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong thành phố v́ tay lái quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 1967, Honda sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có năm số, sơn đen hoặc đỏ, có đèn signal, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 80k/ giờ. Kiểu xe 67 (SS50E) đă đi vào lịch sử v́ máy mạnh, chạy nhanh, được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều nhất tại miền Nam cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda có ra các kiểu khác nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. V́ máy mạnh nên chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe Đức trước đây.
Honda Dame C50
Honda SS50 - 1967
Cả tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda, Yamaha, Suzuki, Kawasaki đều có mặt tại miền Nam lúc đó. Hăng Suzuki tung ra kiểu xe nam M15 và M12 và xe Suzuki Dame, M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống nhau, dùng cùng một động cơ nhưng kiểu thể thao có ống pô vắt cao và vè trước ngắn để trông có vẻ thể thao hơn.
Suzuki Dame 1968
Suzuki M15 - 1965
Suzuki M12 1967
Kawasaki 1965
Hăng Yamaha có hai kiểu xe đàn ông, trong đó có kiểu YF5, và một kiểu Yamaha Dame. Xe Yamaha đàn ông kiểu đẹp, nhiều bộ phận xi bóng loáng. Yamaha Dame sơn màu xanh da trời, với đường cong dịu dàng, trông rất mỹ thuật. Các xe Yamaha xem ra không được ưa chuộng bằng Honda v́ máy không mạnh bằng.
Yamaha YL1 1968
Yamaha Dame
Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe Honda Dame, trông vẻ nhu ḿ thích hợp với các cô mặc áo dài.
Kawasaki là hăng nhỏ nhất trong các hăng xe Nhật lúc đó, chỉ đưa sang một kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt nhưng bị chê là nặng và máy yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt Nam là kiểu dùng sườn của xe 80 cc, thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái.
Kawasaki 1960's
Bridgestone 1968
Hiệu xe ít người nhớ đến có lẽ là Bridgestone. Bridgestone là hăng chuyên chế tạo vỏ bánh xe nhưng lúc đó cũng có một phân bộ chuyên sản xuất xe mô tô để đua. Kiểu Bridgestone đem sang Việt Nam năm 1966 có máy 65 cc. V́ thế xe Bridgestone vọt rất mạnh. Đặc điểm của Bridgestone là hộp số có bốn số quay ṿng giống như các xe đua, nghĩa là sang đến số bốn th́ nhấn thêm sẽ trở về số một mà không phải trả số ngược lại. Xe Bridgestone ch́m vào quên lăng của người Việt khi phân bộ xe mô tô của hăng đóng cửa năm 1967 v́ lư do là nếu sản xuất xe đua th́ các hăng xe gắn máy Nhật khác không muốn mua vỏ xe của hăng ḱnh địch với ḿnh trong các cuộc đua.
Honda Scrambler CL50 1969
Honda Scrambler CL50 70's
Không như các hăng xe châu Âu giữ các kiểu xe y nguyên nhiều năm, các hăng Nhật ào ạt tấn công thị trường Việt Nam với các kiểu xe mới ra mỗi năm. Qua 1968, Honda tung ra xe CL50. CL là chữ viết tắt của Scrambler. Đó là kiểu xe được chế tạo để chạy các đường đất lồi lơm nên chỉ có bốn số, xe kéo mạnh ở số một và số hai, nhưng tốc độ tối đa kém xe Honda 67. Ống pô vắt cao để khỏi va chạm vào mô đất hay ngập nước. Qua 1969, Honda tung ra kiểu SS50M. Cũng dùng cùng máy và sườn như xe Honda 67 nhưng b́nh xăng dài hơn cho có vẻ thể thao. Qua năm 1970, Honda đưa sang kiểu CD50. Xe này cũng dùng cùng loại sườn và động cơ như SS50 nhưng b́nh xăng và hộp đựng đồ phụ tùng vẽ kiểu khác nên trông bề ngoài khác hẳn. Xe được chế tạo để chạy trong thành phố nên chỉ có bốn số với các số đầu kéo mạnh, thích hợp với cách chạy xe trong thành phố phải luôn luôn dừng lại đèn đỏ rồi lại bắt đầu vọt lên. Cùng là kiểu SS50E, đến 1971, 1972, Honda tung ra kiểu xe với sơn đỏ metal và vè xi bóng, ghi đông cao kiểu sừng ḅ trông rất hấp dẫn. Honda thay đổi h́nh dáng bề ngoài thu hút thêm khách hàng mới. Năm 1969, Suzuki cũng tung ra kiểu xe mới AS50 trông rất thể thao và rất đẹp. Ngoài các kiểu xe Honda chính thức nhập cảng, trên đường phố Sài G̣n thỉnh thoảng xuất hiện một số kiểu xe Honda lạ như Honda Monkey, nhỏ xíu như xe con nít, hoặc Honda CT50, CT70, với chữ T là viết tắt của Trail, loại xe Honda dùng để đi dạo chơi ở đồng quê, trên các đường ṃn nhưng tại Việt Nam trở thành phương tiện để đi học, đi làm tuốt luốt.
Honda SS50E 1970
Suzuki AS50 Maverick 1969
Honda SS50 1967 keo xe lôi
Trong tất cả các loại xe Nhật, chỉ có Honda là dùng loại động cơ bốn th́, với xăng và nhớt chứa riêng c̣n các hăng kia dùng loại động cơ hai th́, chạy xăng pha nhớt.
Với các đủ loại xe tung vào thị trường, đường phố miền Nam trở nên nhộn nhịp với các loại xe đủ màu sắc. Đường phố Sài G̣n náo nhiệt với các coureurs cúi rạp trên con ngựa sắt ra sức phóng, lạng, máy nổ ṛn, đinh tai nhức óc. Đúng ra máy xe Honda chạy rất êm. Nhưng v́ nhiều người đă tháo bỏ ốm tiêu hăm thanh gắn ở đầu ống khói nên máy nổ lớn. Ống này nhỏ như ống tiêu, với thân có đục nhiều lỗ, dài khoảng gang tay. Chỉ cần tháo con vít nhỏ ở đầu ống khói là kéo ông tiêu ra được. Lư do tháo ốm hăm thanh là v́ người dùng thấy xe chạy vọt hơn.
Sài G̣n nhiều xe hơn và cũng nguy hiểm hơn v́ các xe Nhật đều chạy nhanh, vọt mạnh. V́ thế, một số phụ huynh lo ngại không muốn mua cho con ḿnh chiếc xe quá mạnh. Hăng Honda tung ra loại xe PC50, cũng dùng động cơ 50 cc nhưng không cần sang số, và không vọt mạnh như các loại xe có sang số. Tốc độ khi chạy nhanh cũng có thể đến 60 km/giờ. Xe PC50 là kiểu P50 cải tiến lại với động cơ đặt vào giữa cho xe được thăng bằng hơn và có nhún cả ở bánh trước lẫn bánh sau. Cách sử dụng xe PC50 cũng giản dị như xe Mobylette chỉ cần đạp nổ máy rồi vặn ga phóng đi.
Mini Cady 1969
Honda PC50 1968

Hăng Motobécane cũng tung ra kiểu xe Cady nhỏ nhắn thích hợp với giới học sinh. Cái tên Cady có lẽ từ chữ Cadet, cho biết đây là kiểu em út trong gia đ́nh Motobécane. Tuy cũng dùng động cơ 50 cc nhưng xe chỉ chạy được tối đa 40km/giờ. Chạy chậm có vẻ là một khuyết điểm của xe cộ nhưng đây lại là ưu điểm v́ nó là lư do để các bậc phụ huynh chọn mua xe cho con ḿnh để được an tâm hơn. Với khuynh hướng design nhiều màu sắc vào đầu thập niên 1970, xe Cady lúc đầu sơn nâu, hay xám, về sau sơn các màu xanh đỏ vàng sặc sỡ. Cùng với sự xuất hiện của mini jupe, đường phố Sài G̣n thấy xuất hiện xe mini Cady với hai bánh xe nhỏ trông rất xinh xắn, đồng thời mini xe đạp cũng xuất hiện và các cô nữ sinh áo dài mini trông trẻ trung, tươi tắn tung tăng trên các loại xe mini đủ màu sắc.
Cady

Xa lộ Biên Ḥa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, thời đó c̣n rất ít xe nên trở thành đường thử và đua xe gắn máy. Các loại xe gắn được đem ra chạy hết tốc độ vào giờ ít xe. Tuy không có tạp chí phê b́nh, điểm các loại xe gắn máy nhưng ưu khuyết điểm của các loại được truyền miệng rộng răi. Các loại xe máy hai th́ tuy có thể chạy nhanh nhưng khi chạy với tốc độ cao nhiều giờ th́ máy bị yếu đi, tốc giảm đi. Chỉ trừ có xe Honda là được khen là càng nóng máy, càng chạy mạnh. Đúng ra chỉ có xe Honda sau 1965 mới chạy lâu không bị giảm tốc độ v́ Honda cải tiến hệ thống phun nhớt, làm cho nhớt phun rất nhiều khiến cho khi máy nóng không bị sức ma sát làm giảm tốc độ. C̣n các loại Honda S65, C110, tuy có thể chạy được đến tốc độ hơn 100km/giờ nhưng khi nóng máy th́ cũng bị chậm lại.
Mini Cady

Để tăng sức mạnh của xe, xi lanh được xoáy cho rộng thêm từ 50 cc thành ra 60 cc, 70 cc. Xe xoáy xi lanh chạy nhanh hơn, có thể đến hơn 100km/giờ nếu máy được chỉnh cho đúng.
Một tṛ chơi đánh cá thời đó của các yêng hùng xe gắn máy, gọi chệch từ chữ anh hùng v́ đua xe là can đảm nhưng không phải là đáng khen, là lách dưới xe be. Xe be là xe kéo các xúc gỗ dài năm, bẩy mét. Một đầu khúc gỗ được cột vào xe vận tải phía trước, đầu phía sau gắn vào remorque sau, c̣n giữa xe vận tải và remorque sau không có ǵ ràng buộc. Chiều cao từ thân cây đến mặt đường chi hơn một mét. Các tay đua đánh cá xem ai dám lạng chui dưới gầm xe be từ bên này qua bên kia. V́ khoảng cách thấp nên không thể chạy thẳng đầu mà người lái phải lạng cho xe nghiêng đi th́ mới đủ thấp mà chui qua. Nếu tính sai thời gian, người lạng có thể bị hai bánh sau chạy tới đụng và cán chết.

Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là niềm say mê tốc độ của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say mê này đă ghi vào kư ức của nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại không phai nhạt với thời gian.
ovv's 1966-Honda-CB150
Nó trở thành kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ lại giây phút dắt chiếc xe mới toanh đi về nhà và những ngày tháng rong ruổi trên những con ngựa sắt.
Phi Long