Nhạc Sĩ Lê Thương & 70 Năm Ḥn Vọng Phu


Đặng Phú Phong




Ảnh trước giờ quay phim Đất Khổ: Đạo diễn Hà Thúc Cần đội mũ, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, vai chính. Tiếp theo là các diễn viên Vân Quỳnh, Bích Hợp, Xuân Hà, Lưu Nguyễn Đạt. Người đứng giữa là nhạc sĩ Lê Thương trong vai Linh mục Phục, quản nhiệm nhà thờ Ḍng Chúa Cứu Thế trong cảnh bom đạn Tết Mậu Thân 1968. Phía sau là Minh Trường Sơn và nữ diễn viên Kim Cương đang bồng em bé. Trong phim, Kim Cương diễn vai bà mẹ Huế điên loạn không ngừng hát ru khi ôm cái bọc gói xác con thơ đă bắt đầu phân hủy.

Lê Thương (1914-1996)



Nhạc sĩ Lê Thương tên thật là Ngô Đ́nh Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại Yên Viên, Hàm Long, Hà Nội. Ông mồ côi mẹ từ năm chín tuổi, cha tục huyền, bốn anh em gồm ba trai một gái, được bà nội đem về nuôi. Bà nội là Trùm một họ đạo Thiên Chúa ở khu phố Hàm Long thời ấy nên Lê Thương được bà dưỡng dục trong môi trường đạo giáo. Kiến thức âm nhạc do năng khiếu bẩm sinh và hấp thụ trong môi trường nhà Ḍng, chứ không được học ở một trường lớp nhạc lư nào khác. Khi tu ở nhà Ḍng ông có tên là Bénilde (theo nhà thơ Huy Trâm), tu được một thời gian rồi hoàn tục, trở về dạy học năm 1935.

Bút danh Lê Thương do ông ghép họ mẹ với tên con sông Thương, ḍng sông của kỷ niệm tuổi thơ trong những dịp nghỉ hè với gia đ́nh một người bạn học ở một đồn điền tại Đồng Đăng, nơi có tượng đá Tô Thị vọng phu. H́nh tượng và huyền thoại Tô Thị đă in vào ḷng ông, để sau này thành một trong những tố chất làm nên trường ca Ḥn Vọng Phu bất tử.

Thời 1937, khi thuyên chuyển về dạy học ở Hải Pḥng, ông đă cùng với Văn Cao, Hoàng Quư, Hoàng Phú, Phạm Ngữ, Canh Thân... cùng với một số ca sĩ thời bấy giờ thành lập nhóm Đồng Vọng để sáng tác và hát phụ diễn cho ban kịch của Thế Lữ tại Hải Pḥng.

Năm 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên ra Hải Pḥng diễn thuyết, Lê Thương đến dự và do thính giả yêu cầu, ông có tŕnh bày một bản tân nhạc. Theo cách phân chia của Lê Thương trong bài viết “Nhạc Tiền Chiến- Lời thuật của Lê Thương” th́ nền Âm Nhạc Mới (Tân Nhạc) của Việt Nam bắt đầu vào thời điểm này:

“Năm xuất hiện chánh thức của phong trào Âm Nhạc Mới là tháng 3 năm 1938, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên từ Saigon ra hô hào (cho âm nhạc cải cách) tại đất Bắc... Từ đầu 1939, một số bài nhạc của vài nhóm đă thấy treo bán tại các hiệu sách.” (nguồn: khanhly.net/phoxua)

Năm 1941 Lê Thương vào Nam dạy học ở tỉnh Kiến Ḥa và Sài G̣n. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp đánh Sài G̣n, ông chạy xuống Mỹ Tho, theo kháng chiến ở các vùng quê. Đây là lúc Lê Thương soạn một truyện ca kháng chiến nổi tiếng: “Ḷng Mẹ Việt Nam” hay “Bà Tư Bán Hàng,” và phổ nhạc nhiều bài thơ, đặt lời cho một số bản nhạc ngoại quốc.

Khi rời bỏ vùng kháng chiến, ông từng ngồi tù tại Mỹ Tho cuối năm 1946. Cuối 1947 ông được thả và trở về Sài G̣n, thêm một lần bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.

Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc, từ những truyện ca, nhạc hài hước, tới những bài hát thiếu nhi. Thời VNCH ông cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non trên đài phát thanh Saigon, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội: Bóng trăng trắng ngà / Có cây đa to / Có thằng Cuội già / Ôm một mối mơ... Ông cũng là tác giả bài Học Sinh Hành Khúc, rất phổ thông tại các trường học: Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau...

Bên cạnh công việc sáng tác, ông dạy sử địa tại một số trường trung học, dạy nhạc sử tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Và Kịch Nghệ Sài G̣n. Từng là một kịch sĩ trong ban kịch của Thế Lữ từ 1930, ông cũng gia nhập ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch ở Sài G̣n. Lê Thương đă sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, viết nhạc phim cho hăng phim Mỹ Vân. Ông c̣n tham gia đóng phim Đất Khổ, phim của đạo diễn Hà Thúc Cần dựng theo tác phẩm “Giải Khăn Sô cho Huế” của nhà văn Nhă Ca.

Nhạc sĩ Lê Thương lập gia đ́nh cùng một phụ nữ học ở Pháp về. Ông bà có 9 người con. Ông mất vào ngày 17-9-1996 tại Saigon, thọ 82 tuổi.


I. Ḥn Vọng Phu, tác phẩm để đời

Trong sự nghiệp sáng tác của Lê Thương, vượt trên tất cả là ba bài Ḥn Vọng Phu. Đây là bản trường ca trường ca đầu tiên của âm nhạc Việt Nam, khởi viết từ 1942, hoàn tất năm 1947.

Ngôn ngữ trong Ḥn Vọng Phu được thăng hoa đầy tính thẩm mỹ. Lời hát quyện chặt với hồn nhạc ngũ cung Việt Nam. Hơn 70 năm sau, sức sống của trường ca bất từ này vẫn vượt qua mọi giới hạn của thời thế và tiếp tục âm vang.

Sau đây là những ghi nhận về quá tŕnh sáng tạo tác phẩm âm nhạc để đời này.



Ḥn Vọng Phu 1- Đoàn Người Ra Đi

Trên đường vào Nam, Lê Thương đi ngang Phú Yên và bị thu hút bởi tượng Vọng phu cùng quang cảnh non nước “mê hoặc” ở vùng này, từ đây “Lệnh vua hành quân trống vang dồn…” ra đời. Có thể nói h́nh ảnh tượng đá Vọng Phu ở Phú Yên đă ảnh hưởng mạnh nhất tới cảm xúc của Lê Thương. Ông giải thích: “Núi Vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lư hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nh́n vào làm cho tôi cảm mến. … Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng Đức tại vùng này có "thạch bi sơn" làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành c̣n sót lại... Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng Cộ, Gió Tu Hoa, Cọp ổ Gà, Ma Ḥn Lớn.”

Lời sơ giải của dân gian kể là: “Trên một cao nguyên nhỏ vùng đèo, thường có mây dày đặc chỉ cần gọi nhau trên đó là mưa rớt xuống (c̣n nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó).

Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi ṃn, gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa…”
“C̣n Ḥn Lớn th́ nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan Rang ǵ đó, có rất nhiều “ma hồi” đêm cứ lập ḷe nhát các ngư phủ ghé thuyền tránh gió đến đó qua đêm!

Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành bài Ḥn Vọng Phu 1.”

Đó là những h́nh ảnh tác động trực tiếp đến ông, và phần sâu xa nhất trong tâm thức ông là tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn/ bản dịch Đoàn thị Điểm. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Lê Phương Chi, nhạc sĩ đă xác nhận điều này: “...xin thú thật là tôi c̣n chịu ảnh hưởng sâu xa trong Chinh Phụ Ngâm, cụ thể là:

Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt. Th́ trong Ḥn Vọng Phu I tôi biến thành: “Lệnh vua, hành quân, trống kêu dồn...” / Tới Man Khê bàn sự Phục Ba ..., tôi biến nó thành: “Bến Man Khê c̣n tung gió bụi mịt mùng/Bến Tiêu Tương c̣n thương tiếc nơi ngàn trùng ...”

Có thể nói, những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm đă in sâu vào tiềm thức những ngày tôi c̣n học ở nhà trường. Rồi với những ấn tượng thắng tích đá Vọng Phu qua truyền thuyết thiếu phụ ôm con ṃn mỏi trông chồng đến nỗi hóa đá, đă hằn sâu trong tâm tư tôi, nay gặp ngoại cảnh núi sông hùng vĩ hiện ra trước mắt, đó là môi trường thuận lợi tác thành những giai điệu trong nhạc phẩm Ḥn Vọng Phu 1.”

Vậy là Ḥn Vọng Phu 1 được ra đời năm 1943 tại Bến Tre, nơi ông dạy học. Ở Ḥn Vọng Phu 1 có 4 câu sau đây mà tôi đồ rằng đó chính là cái “Key” để dẫn dắt hành tŕnh tâm lư cho cả bài trường ca: “Chiêng trống khua trăm hồi,/ ngần ngại trên núi đồi,/ rồi dậy vang khắp nơi / thắm bao niềm chia phôi…”

Cuộc xuất binh đầy thanh thế, trống đánh chiêng khua, cờ bay phất phới, nhưng, trước khi âm thanh ấy bừng bừng vang dội khắp nơi th́ nó lại có một khoảng thời gian “ngần ngại” như một dấu lặng. Lê Thương đă hết sức tinh tế, khi tả cái t́nh huống vừa hùng tráng của phút ra quân, vừa là nỗi ḷng trước cảnh chia ly không hẹn ngày trở lại. “thắm bao niềm chia phôi” của kẻ chinh phu và người chinh phụ. Bài hát là một hành khúc hùng tráng được viết ở cung Re thứ. Từng cụm âm thanh xô đẩy nhau diễn tả khí thế xuất binh… đến phần kết thúc bằng 2 câu: “Người tung hoành bên núi xa xăm, Người mong chồng c̣n đứng muôn năm” th́ nhạc chậm lại và dứt bằng nốt chủ âm vang vọng.




(Hương Nam xuất bản vào tháng 10 năm 1946)

Ḥn Vọng Phu II - Ai Xuôi Vạn Lí

Trong thư viết gửi bác sĩ Phương Hương , nhạc sĩ Lê Thương cho biết: “Bài Ai Xuôi Vạn Lư (Ḥn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Kư mà tôi là trưởng đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch sử và riêng Ḥn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Ḥa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Ḥa, cho đến Ḍng Sầm, gần B́nh Đại...

Bỗng Tây đem tàu tấn công 3 Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa. Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải tan ră các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đ́nh, chỉ c̣n tôi và người bạn Ánh (nay đă chết) trốn được vào vùng lá Ḍng Sầm cách B́nh Đại 4 cây số.

Chúng tôi được vài gia đ́nh người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu trong b́a lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày v́ tên Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu chúng tôi c̣n trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn tối về nằm trong kho lúa. Sau v́ c̣n thấy nguy hiểm nên anh tư- bà con với ông đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào b́a lá ḍng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa biển B́nh Đại.




Các nhạc sĩ Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Lê Thương năm 1949

Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặt lá dừa nước! May mà c̣n chiếc mùng “Tuin”(tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá tḥi ḷi đập đuôi lạch bạch dưới śnh và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh man như ḷng người chinh phụ trong giang san Đèo Cả.

“Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”

Nhờ cây viết máy Kaolo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô nhịp trên.

Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng mới của bài Ḥn Vọng Phu 2, tức Ai xuôi vạn lư, được ghi vội vă lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như tâm hồn tôi gh́ lấy sự sống.”

Qua lời tỏ bày của Lê Thương, chúng ta thấy được nhờ sự gian nan, thiếu thốn mà ông bật lên những cung nhạc tài hoa trong Ḥn Vọng Phu 2. Những lần chạy trốn hiểm nguy, cái chết cận kề, cái chết luôn lảng vảng trước mặt, bằng sự cảm nhận thiết tha với sự sống, ông đem ḥa nhập những điều này vào nỗi ḷng chinh phụ.

Phần đầu, expressivo, ông ông dành cho người hát diễn tả tự cảm xúc. Chính v́ vậy 2 câu:

“Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ, Đoàn cỏ cây hăy c̣n trẻ thơ, cho đến bây giờ đă thành / đoàn cổ thụ già” nhờ một dấu nghỉ giữa 2 chữ “thành” và “đoàn” làm ta cảm nhận được cái dài đằng đẵng của thời gian. Từ lúc xuất chinh, cỏ cây chỉ là thơ trẻ mà giờ đây đă trở thành một khu rừng cổ thụ!

Bài Vọng Phu 2 là bài đặt biệt nhất trong 3 bài. Đặc biệt v́ 2 bài kia chỉ thuần là kể chuyện; riêng bài này Lê Thương, trong lúc xuất thần ông thấy ḿnh đang là chứng nhân của cảnh người vọng phu cương quyết trơ gan cùng phong nguyệt, đứng lặng nh́n về phía trời xa, một dạ đợi chồng. Ông không c̣n đóng vai kể chuyện nữa mà nhập vào câu chuyện trong cổ tích để nói lên nỗi ḷng thương cảm của ḿnh với nàng chinh phụ. “Có ai xuôi vạn lư nhắn đôi câu giúp nàng, Lấy cây hương thật quư, thắp lên thương tiếc chàng. Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly…”

Sự thương cảm đă được đẩy lên cao độ, ông quư yêu nàng, khâm phục nàng bằng tất cả tấm ḷng nên tôn xưng nàng là “Bà”. Chữ bà được trịnh trọng viết hoa trong bản nhạc. Bà là danh xưng tôn quư dành cho những người phụ nữ có công đức, tài ba giúp đỡ dân lành. Được thờ tự trong am miếu.
Một chi tiết mà có lẽ ít người để ư là “Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba, Suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống "Bà", h́nh hài người bế con nước chảy chan ḥa”. Dân gian có câu “Tháng Ba bà già đi biển” ư nói thời tiết vào tháng Ba ở vùng biển rất là tốt, biển êm sóng lặng, không hề có mưa giông gió băo. Thế nhưng ḷng son sắt của người đàn bà chờ chồng kia đă động đến thiên đ́nh, dù theo thông lệ không cho mưa vào tháng ba, trời làm mưa như thác đổ, để giúp nàng quên đi cái nắng đổ lửa, cái gió cát xốn xang ḷng mắt. Và cũng để “Thấm vào đến tận tâm hồn đứa con”.

Nh́n tượng vọng phu trên dăy Trường Sơn, ông lăng mạn giải thích, núi non thương t́nh nên kéo nhau đến kính cẩn qú trước mặt nàng tung hô t́nh yêu bất diệt, và, từ đấy, núi non không đi nữa cùng ở lại với nàng, trở thành dăy Trường sơn của nước Việt. “Nên núi non thương t́nh, kéo nhau đi thăm nàng Nằm thành Trường Sơn vạn lư xuyên nước Nam.”

Nhiều đồi núi khác cũng động ḷng ”rủ nhau kéo thành đảo xa, ra tới tận khơi ngàn... Xem chàng về hay chưa?”

Cũng vậy, sức liên tưởng, tưởng tượng của Lê Thương thăng hoa đến nỗi ông biến ḍng sông Cửu Long thành “Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn.”

Cũng trong bài 2 có 4 câu sau đây, tưởng cũng nên lạm bàn đôi chút: “Có con chim nhỏ bé / Dám ca câu sấm thề / Cuối thu năm Mậu Tư / Tướng quân đem kiếm về…”

Tại sao “Cuối thu năm Mậu Tư”mà không là một năm Dần, Mẹo nào đó?

Lê Thương sáng tác Ḥn Ṿng Phu 2 vào cuối 1945 sang đến 1946, Bính Tuất. Thời gian ngắn nhất là 2 năm nữa, là năm Mậu Tư (1948). Vậy th́ chỉ có năm Mậu Tư là năm gần nhất và khả thi trong âm nhạc để tướng quân đem kiếm về!



(Dân Tộc xuất bản lần đầu vào năm 1949)


Ḥn Vọng Phu III - Người Chinh Phu về

Thời điểm năm 1947 là lúc nhạc sĩ Lê Thương trở về lại Sài G̣n, cũng là thời gian ông viết bài Ḥn Vọng Phu 3 để hoàn tất một trường ca bất hủ. Ông nói: “Người Chinh Phu Về (HVP3) với t́nh nghĩa vợ chồng đổi sang t́nh nghĩa non sông, nh́n đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải t́m lâu dài cho đến khi quân b́nh được những cảm t́nh trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đă lôi cuốn bao lớp người vào lăng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử ṇi Việt.”

Không cần phải có ḥa âm, phối khí ǵ cả, chỉ cần khi xướng âm nó chúng ta vẫn nghe, thấy được tiếng vó câu dồn dập, tiếng ngựa hí vang trời của đoàn quân trở về trong niềm vui chiến thằng: Đường chiều/ mịt mù/ cát bay/ tỏa bước ngựa phi…

Sau đó là nhịp điệu chậm lại, diễn tả mối thương tâm của người chinh phụ khi phải chứng kiến cảnh hoang tàn của mộ bia của đ́nh làng như một sử tích:

“…Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đ́nh trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong ḷng…”

Đến đây, Lê Thương lại nẩy sinh một ư kiến mới, một ư kiến tích cực hơn trong câu chuyện có nhiều phần tiêu cực là hướng đến sự thiêng liêng cao cả của truyền thống chống ngoại xâm, khác đi huyền thoại nhân gian kể về sự tích Ḥn Vọng Phu. Trong truyện kể khi người chinh phu trở về, người vợ Tô Thị bồng con lên núi chờ chàng và đă hóa đá. Nhưng Lê Thương v́ muốn nêu cao tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm từ thế hệ này sang thế hệ khác của dân tộc Việt Nam. Thanh gươm báu tượng trưng cho ḷng yêu nước được kế thừa nên ông đă kể lại rằng: Nàng chinh phụ nhắn, xin lỗi chồng phải nhờ người khác trông nom đứa con, để ḿnh nàng đến tận mỏm núi cao mà vời vợi trông chàng: “Hỡi người chinh phu, anh hùng non sông/Trao người con quư cho người trông nom/ Thiếp xin lỗi thề”.

Nên chi, khi người chồng trở về: “Cầm chiếc gươm chinh phụ di truyền/Chàng bế con trao lại gươm bền/ Rồi chỉ vào sơn hà biến cố /Trao nó đi gây lại cơ đồ”.

*

Sức sống của trường ca Ḥn Vọng Phu hơn 70 năm qua, được tŕnh diễn từ những ca sĩ lừng danh, những ban hợp ca chuyên nghiệp cho đến nghiệp dư, các trường học. (Người viết bài này cũng từng hân hạnh đứng trong ban họp ca trường học của ḿnh để tập hát Ḥn Vọng Phu).

Phạm Duy đă viết trong hồi kư: “Trong số những bạn đồng nghiệp, tôi yêu nhất nhạc sĩ Lê Thương…” và, "…Tôi cũng cho rằng trong làng tân nhạc, Lê Thương là người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc, mỗi giai đoạn nhạc của anh đều chứa đựng thông điệp…”

Không chỉ Phạm Duy mà nhiều nhạc sĩ tên tuổi khác đều tỏ ḷng quư mến, khâm phục tài năng âm nhạc của Lê Thương, nhạc sĩ Văn Cao cũng thừa nhận ông đă ảnh hưởng Lê Thương trong việc học tập và kế thừa nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.




Thủ bút Lê Thương viết từ Saigon cuối thập niên 80’, gửi Bác sĩ Phương Hương.

II. Một Vài Kỷ Niệm

Tôi hân hạnh được quen biết và cảm mến nhạc sĩ Lê Thương khoảng năm 1984 hay 1985, không nhớ rơ. Ông dáng người có vẻ phốp pháp, cặp mắt kính dày cộm, giọng nói trầm, ấm. Ông nói năng giản dị nhưng ân cần, điểm giữa là những tiếng cười, có khi thật hiền, có khi thật sảng khoái; ông làm người nghe cuốn hút theo.

Hiểu biết của ông về âm nhạc, về lịch sử, về văn chương th́ hẳn là mênh mông. Đây là lần đầu tiên tôi mới biết bài Học Sinh Hành Khúc mà tác giả chính là ông. Những học sinh trước năm 1975 hầu như ai cũng quen thuộc, từng hát bài này, quen thuộc đến độ đă không ít người hát “chế” câu đầu thành “Học sinh là người hũ tiếu ăn hai ba tô”. Tôi nhớ măi câu nói thật vui, thật hóm hỉnh của ông mục đích là dặn tôi nhớ số nhà để sau này trở lại chơi. “ Thuốc ba con 5 th́ dễ nhớ rồi phải không, vậy th́ nhớ ông Lê Thương chỉ hút 2 con 5 thôi nhé” (Nhà ông ở số 55 đường Bùi Viện.) Những năm tháng về sau tôi thường đến nhà ông, để được nghe những lời nói, những câu chuyện thật hóm hỉnh nhưng sâu sắc của ông. Lúc nào ông cũng rất lịch sự lắng nghe tôi nói, đối xử với tôi như người ngang hàng. Đây là một đức tính rất hiếm hoi ở người lớn đối với hậu sinh nhỏ thua ḿnh trên 30 tuổi.
Sau 1975 ông có soạn một tập sách, đặt tên là Tạp Sự, ghi lại những chuyện đời của các ca nhạc sĩ cải lương, tân nhạc miền Nam được khoảng trên 300 trang viết tay. Khi Lưu Hữu Phước vào Nam, ghé thăm ông, biết cuốn này, muốn xin ông đem in, ông hẹn trả lời sau. Mấy hôm sau khi nhà thơ Huy Trâm đến chơi ông đem việc này hỏi ư, Huy Trâm nói in nguyên văn th́ cũng tốt nhưng sợ là họ thêm bớt chi đó làm hại đến công tŕnh tâm huyết của ḿnh. Sau đó Lê Thương không nhắc đến việc này nữa.

Những văn nghệ sĩ thường lui tới nhà ông giai đoạn này mà tôi thỉnh thoảng gặp là các nhạc sĩ: Lê Cao Phan, Nguyễn Hữu Thiết, Châu Kỳ, Đức Quỳnh, Bắc Sơn… các nhà thơ như Huy Trâm, Tô Như, Hải Phương… Ông lúc nào cũng niềm nở, ân cần và khiêm tốn với tất cả mọi người. Ông luôn nói với những người nhỏ thua ông nhiều tuổi, trong đó có tôi, là hăy cứ gọi ông bằng anh cho thân t́nh văn nghệ.

Đă ngoài 70 tuổi nhưng Lê Thương rất khỏe, ông đạp xe đạp đến tận G̣ Dưa để thăm mộ Hoàng Trúc Ly. Nhiều lần ông và tôi mỗi người một chiếc xe đạp, cót két đạp từ Sài g̣n xuống Thủ Đức, đều đi về trong ngày. Ở Thủ Đức có chị Kiêm Lang là một người rất yêu thích văn chương, ca nhạc thường mời anh chị em văn nghệ sĩ xuống nhà chơi, đăi đằng, văn nghệ, có cả lén nhảy đầm. Nhạc sĩ Đức Quỳnh là người có những bước nhảy rất đẹp, thường nhảy biểu diễn, được mọi người vỗ tay tán thưởng thật nhiều.

Khoảng năm 1988, một hôm Ông bảo tôi rằng Ôâng được Thông Tin Văn Hóa Sài G̣n, qua nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, cho phép tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương. Tôi rất vui mừng khi nghe tin này, vàtôi thật ngạc nhiên khi ông bảo là nhờ tôi viết script cho chương tŕnh. Tôi hơi hoảng, xin từ chối v́ không đủ khả năng. Ông cười tuềnh toàng, nói tôi đă nghĩ rồi, anh làm được mà, gắng giúp tôi đi nhé. Sau đó ông sắp xếp đưa tôi đi gặp một số ca sĩ như Thanh Lan, Hồng Vân… và ca đoàn nhà thờ ở Ngả Tư Bảy Hiền. Việc chưa đi vào đâu th́ ngoài Hà Nội gửi điện vô báo là cho phép tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương với điều kiện chỉ được tŕnh diễn nhạc của Lê Thương từ trước năm 1945. Ông báo tin cho tôi bằng giọng nói thật b́nh thường chẳng chút buồn bă. Ông nói thêm là anh biết đấy trước 45 tôi đâu có đủ nhạc để tŕnh diễn một chương tŕnh dài như vậy. Rồi ông cười khè khè. Thế là “Đêm Nhạc Lê Thương” im ĺm hủy bỏ.




Bà Lê Thương, với di ảnh và tượng Lê Thương do người bạn thân là nhạc sĩ Lê Cao Phan điêu khắc.(Ảnh 2016)

Năm 91 tôi đi Mỹ, khoảng ba bốn năm sau, hay tin ông bị mất trí nhớ nặng. Ông mất vào năm 1996 trong sự bàng hoàng thương tiếc của anh chị em trong giới văn nghệ và cả dân chúng nữa.

Lê Thương, một nhạc sĩ tài ba, một vị thầy giáo tài giỏi, đức độ, một người nặng ḷng với nước non, một nghệ sĩ lăng mạn với tâm hồn bay bổng thanh cao. T́nh yêu trong âm nhạc của ông là một loại t́nh yêu không đắm ch́m trong thân phận, dang dở yêu thương của đời thường, mà ông hướng về sự thanh cao, trong sáng như trăng rằm, keo sơn son sắt như “Bà” Tô Thị. Ông phả vào tâm hồn thanh niên học sinh những câu ca “v́ dân, v́ nước”. Nói về tính hài hước của Lê Thương, người quen biết với ông đều nhận thấy. Trong đời sống thường hằng, cũng như qua những bài nhạc như: Ḥa B́nh 48, Đốt Hay Không Đốt… Lê Thương đă cho chúng ta những nụ cười mỉm nhẹ nhàng nhưng nhiều khi nôn cả ruột. Nhưng nếu tôi được chọn trong 2 từ ngữ hài hước và dí dỏm để chỉ về ông, tôi sẽ chọn dí dỏm. Vừa nhẹ nhàng vừa sâu sắc. Vừa thâm trầm vừa trí tuệ. Vừa hóm hỉnh vừa chừng mực. Không có sự nhố nhăng, hời hợt hay quá khích trong tinh thần hài hước của Lê Thương.

Hiện nay, căn nhà số 55 đường Bùi Viện Q. 1 Sài g̣n của nhạc sĩ Lê Thương may mắn chưa đổi chủ. Bà Lê Thương năm nay 86 tuổi, vẫn c̣n sống nhờ sự chăm sóc của người con gái tên Thủy trong căn nhà giữ y như ngày xưa. Chị Thủy cho biết là khoảng 10 năm qua, chị đại diện cho gia đ́nh hằng quư nhận được tiền tác quyền nhạc của ông khoảng vài triệu đồng (gần 100 Đô Mỹ) từ Hội Bảo Vệ Tác Quyền Âm Nhạc Việt Nam tại Sài G̣n.

Thật là t́nh cờ, tôi viết những ḍng chữ cuối cùng này vào ngày 17-9-2016, đúng hai mươi năm ngày qua đời của nhạc sĩ Lê Thương và cũng là đêm hội tết Trung Thu của miền Nam California. Trên TV đang tŕnh chiếu cảnh tết Trung Thu cho các em nhi đồng tại khu một khu thương mại. Các thiếu nhi ăn mặc quốc phục, có em c̣n đội khăn đóng nữa, tay cầm lồng đèn đi tung tăng, hát ngọng ngịu: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối mơ…” Ḷng tôi không khỏi cảm hoài nhớ người nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc Viêt Nam, giờ đây đă “mờ mịt thức mây”. (Chinh Phụ Ngâm).


Đặng Phú Phong

Tài liệu tham khảo: Nhaccodien.info, Zin.vn.co, amnhac.fm, cafevannghe.wordpress.com, motgoctroi.com, langmai.org, Wikipedia.org, lyric.tkaraoke.com, Khanhly.net, Hồi Kư Phạm Duy (NXB Trẻ-2008).

https://vietbao.com/a265319/nhac-si-le-thuong-70-nam-hon-vong-phu


Ghi chú của người post : bài nầy được đăng vào tháng 03-2017 bởi Đặng Phú Phong