NIỀM KIÊU HĂNH CỦA NGƯỜI VIỆT.











NIỀM KIÊU HĂNH CỦA NGƯỜI VIỆ
Có một câu chuyện đă được Giáo sư Trần Văn Khê (1921 - 2015) kể lại nhiều lần cho các học tṛ của ḿnh, và cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi kư, kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964…

Tham dự buổi sinh hoạt này hầu hết là người Nhật và Pháp, duy chỉ có Giáo sư là người Việt. Diễn giả hôm ấy là một cựu Đề đốc Thủy sư người Pháp. Ông khởi đầu buổi nói chuyện như thế này:


“Thưa quư vị, tôi là Thủy sư đề đốc, đă sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong ṿng một, hai năm mà tôi đă thấy cả một rừng văn học. Và trong khu rừng ấy, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp. Trong thơ Tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu t́nh cảm. Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai điều đó thôi đă thấy các nước khác không dễ có được.”


Lời phát biểu đă chạm đến ḷng tự trọng dân tộc của Giáo sư Trần Văn Khê. Chính v́ thế, khi buổi nói chuyện bước vào phần giao lưu, Giáo sư đă đứng dậy xin phép phát biểu:


“Tôi không phải là người nghiên cứu văn học, tôi là Giáo sư nghiên cứu âm nhạc, là thành viên hội đồng quốc tế âm nhạc của UNESCO. Trong lời mở đầu phần nói chuyện, ông Thủy sư Đề đốc nói rằng đă ở Việt Nam hai mươi năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đă rất ngạc nhiên. Thưa ngài, chẳng biết khi ngài qua nước Việt, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của Việt Nam?


Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách… Phải chi ngài chơi với Giáo sư Emile Gaspardone th́ ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1.500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand th́ ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durand đă cất công sưu tập… Ông c̣n hiểu biết về nghệ thuật chầu văn, ông c̣n xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam. Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng ngàn áng văn kiệt tác.


Tôi không biết ngài đối xử với người Việt Nam thế nào, nhưng người nước tôi thường rất hiếu khách, sẵn sàng nói cái hay trong văn hóa của ḿnh cho người khác nghe. Nhưng người Việt chúng tôi cũng ‘chọn mặt gửi vàng’, với những người phách lối có khi chúng tôi không tiếp chuyện. Việc ngài không biết về áng văn nào của Việt Nam cho thấy ngài giao du với những người Pháp như thế nào, ngài đối xử với người Việt ra sao. Tôi rất tiếc v́ điều đó. Vậy mà ông c̣n dùng đại ngôn trong lời mở đầu”.


Rồi để so sánh với Tanka, Giáo sư đưa ra những câu thơ như:


“Núi cao chi lắm núi ơi


Núi che mặt trời, không thấy người yêu”


Hay:


“Đêm qua mận mới hỏi đào

Vườn hồng đă có ai vào hay chưa”


Để đối chiếu: tức là cũng dùng núi non, hoa lá để nói thay tâm sự của ḿnh.


C̣n về số lượng âm tiết, Giáo sư kể lại câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên, gặp lúc bà phi của vua Nguyên vừa từ trần. Nhà Nguyên muốn thử tài sứ giả nước Việt nên mời đọc điếu văn. Mở bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ “nhất”. Mạc Đĩnh Chi không hốt hoảng mà ứng tác đọc liền:


“Thanh thiên nhất đóa vân


Hồng lô nhất điểm tuyết


Thượng uyển nhất chi hoa


Dao tŕ nhất phiến nguyệt


Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!”


Dịch nghĩa là:


“Một đám mây giữa trời xanh


Một bông tuyết trong ḷ lửa


Một bông hoa giữa vườn thượng uyển


Một vầng trăng trên mặt nước ao


Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!”


Tất cả chỉ 29 âm chứ không phải 31 âm để nói việc người vừa mất đẹp và cao quư như thế nào.


Khi Giáo sư Trần Văn Khê dịch và giải nghĩa những câu thơ này th́ khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Ông thủy sư đề đốc đỏ mặt: “Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng khi nghe ông dẫn giải, tôi biết ḿnh đă sai khi vô t́nh làm tổn thương giá trị văn chương của dân tộc Việt Nam, tôi xin thành thật xin lỗi ông và xin lỗi cả dân tộc Việt Nam.”


Kết thúc buổi nói chuyện, ông Thủy sư lại đến gặp riêng Giáo sư và ngỏ ư mời ông đến nhà dùng cơm để được nghe nhiều hơn về văn hóa Việt Nam. Giáo sư tế nhị từ chối, c̣n nói người Việt không mạo muội đến dùng cơm ở nhà người lạ. Vị Thủy sư Đề đốc nói: “Vậy là ông chưa tha thứ cho tôi”. Giáo sư đáp lời: “Có một câu mà tôi không thể dùng tiếng Pháp mà phải dùng tiếng Anh. Đó là: I forgive, but I cannot yet forget (Tạm dịch: Tôi tha thứ, nhưng tôi chưa thể quên)”.


Câu chuyện nhiều cảm hứng này cho chúng ta thấy một điều rằng, chỉ những người am hiểu văn hóa truyền thống mới có thể cứu văn danh dự cho đất nước, chỉ những người không lăng quên những giá trị cổ xưa mới có thể ǵn giữ tôn nghiêm của dân tộc.


Nguồn: Thư viện Việt Nam