MARITA, MÂY BAY NGÀN NĂMkim thanh1. Đó là một buổi chiều vàng đầu năm 1984 tại Ḥn Chồng, Nha Trang. Những tia nắng cuối ngày khuất sau dăy núi xa mờ. Chiều xuống, như đă hẹn ước, phủ tấm màn đen lên Băi Dương và mặt biển. Sóng nhẹ và nước c̣n ấm. Trước đó, lợi dụng trời nhá nhem, tôi và cô em gái, Bội Trân, bước lên băi cát, lúc ấy đă thưa thớt người, và giữ nguyên bộ đồ tắm ướt sũng, di chuyển đến Ḥn Chồng, cách đó khá xa, khoan thai, tay trong tay, đóng vai một cặp t́nh nhân nhàn tản, để che mắt Công an. Tại khu vực này, chúng chưa đặt trạm gác, và chưa có tàu tuần tiễu, nên tôi đỡ lo. Đến Ḥn Chồng, khi thấy bóng đèn pin nhấp nháy từ phía chân trời, tôi bấm đèn lại. Rồi từ một tảng đá cao hai anh em nhảy xuống nước –một việc đơn giản mà chúng tôi đă phải tập đi tập lại cả trăm lần suốt ba tháng liền. Trời tối hẳn. Nín thở, lặn một hồi lâu, chúng tôi cùng trồi lên một lượt, bơi song song về hướng ánh đèn, lúc ẩn lúc hiện. Bơi thong thả, để dưỡng sức. Hễ mệt th́ thay nhau bơi ngửa và thay nhau quan sát hiện trường, không để lạc hướng. Khoảng cách chừng hai trăm mét thôi, b́nh thường không có ǵ khó đối với chúng tôi –là những đứa con của biển, biết bơi từ nhỏ. Nhưng tối hôm ấy, tôi thấy quá xa, dường như không bao giờ đến đích. Hai anh em tôi là những người cuối cùng trong gia đ́nh vượt biên. Mẹ tôi nhờ cha sở họ đạo giúp kiếm mánh. Chủ ghe, “dân Nốp” đánh cá chuyên nghiệp vùng Xóm Bóng, gốc Hà Tĩnh, tên Nho, lót chữ Cu, như tục lệ địa phương, đ̣i anh em tôi đến “tŕnh diện” tại pḥng khách cha sở. Cu Nho liếc nh́n hai đứa, xem có phải công an giả dạng thường dân không, rồi gật đầu đồng ư, nhưng ra lệnh: “Phải đi tắm biển hàng ngày cho da bớt trắng!” Ông cẩn thận cũng phải, v́ chuyến này ông đưa cả gia đ́nh cùng đi luôn, chỉ nhận hai anh em tôi và một số khách tin cậy. Theo sắp xếp, chúng tôi biết bơi sẽ đi ngả Ḥn Chồng và là khách sau chót lên ghe ra biển cả, nghĩa là nếu có ǵ trục trặc là bị bỏ lại, không tiếc thương. Đàn bà, con nít thuộc gia đ́nh ông được chở trên sông Cái qua đồn canh cạnh cầu Tháp Bà, nằm ém dưới đáy ghe như cá hộp. Số c̣n lại phải xuống Chụt, gần Cầu Đá, có taxi đưa ra trước.Trước ngày xuất hành, tôi ra đèo Rù Ŕ, cách nhà độ sáu cây số, t́m mộ Cường, theo lời chỉ dẫn của Trứ. Tôi đốt nhang mới cắm vào b́nh thay cho những cọng nhang đă tàn lụn. Thầm thỉ cầu nguyện cho linh hồn em sớm siêu thoát về cơi Vĩnh Hằng. Và xin em để cho tôi đi chuyến này thành công, và đừng theo tôi làm ǵ. Trước đó nữa, hai anh em cũng đă dự một thánh lễ rất sốt sắng cầu xin Chúa thương t́nh cho đi b́nh an, v́, tôi thở than với Chúa, con đă gian nan nhiều rồi, trên đường mưu t́m Tự Do. Chờ cho chúng tôi lên ghe, kiếm chỗ ngồi yên ổn xong, Cu Nho sang số cho máy chạy, trực chỉ Manila. Biển êm, sóng nhẹ, gió nhiều, thổi lùa qua tóc. Tôi bắt đầu thấy lạnh, v́ áo thun chưa kịp khô, mà không có quần áo thay. Bội Trân cũng thế, vẫn mặc đồ tắm, nhưng được ai cho mượn chiếc khăn lớn choàng vào người. Em ngồi chung với đám vợ con, em gái của Cu Nho, lấy tay khoát nước trôi quanh mạn thuyền, vẻ tư lự. Ghe ra khơi, gần đến hải phận quốc tế, và khi những ḥn núi quen thuộc quanh bờ biến mất hút, và sao hôm chưa mọc, Cu Nho hết biết phương hướng, bèn nhờ tôi đọc giùm bản đồ và hải bàn, mặc dầu đó không phải nghề của chàng... bộ binh Thủ Đức. Không c̣n ai khác, tôi đành lần ṃ đọc, tính toán, cầm thước, đo đo vẽ vẽ. Từ Nha Trang đến Manila là một đường thẳng ngang, cứ canh và giữ đúng 90 độ, tôi nói với các tài công. Lúc ấy là mùa gió nồm thổi từ Mă Lai về phía Hồng Kông, và thường có băo. Ba hôm sau, y như rằng, băo bắt đầu nổi lên và dần dần những luồng sóng cao hơn ṭa nhà mười, hai mươi tầng ùa đến, ŕnh chụp xuống chiếc ghe nhỏ bé, mong manh giữa đại dương. Cu Nho và hai người em trai thay nhau cầm lái, dùng hết tay nghề lách ghe chạy giữa hai đợt sóng, mỗi lúc mỗi dày, đều đặn, liên tục. Thần kinh quá căng thẳng. Chậm, hoặc sớm hơn một giây là ghe bị sóng đánh ch́m. Tôi đứng bên họ, dán mắt vào chiếc hải bàn và bản đồ. Bội Trân pha cà phê cho tôi và các tài công, và phụ hoặc thay tôi điều chỉnh tọa độ và hướng đi. Rồi cuối cùng băo tan, sau một ngày một đêm. Cả ghe chưa kịp hoàn hồn th́ Cu Nho báo cho biết dầu và nước uống chỉ c̣n đủ cho một ngày nữa thôi, v́ trước giờ khởi hành, Cu Toàn, người bạn đồng nghiệp nhận cung cấp dầu, đă không đến điểm hẹn trên biển, không hiểu v́ sao, có lẽ đă bị lộ, bị bắt. Manila th́ c̣n mù mịt, phải ít nhất hơn một tuần nữa mới đến nơi. Ông gần như tuyệt vọng, bàn giao số phận chiếc ghe cho tôi. Tôi không có th́ giờ phản đối, hay tranh luận, về vụ bán cái ngang xương này, v́ lúc ấy dầu chỉ c̣n một phần tư phuy, và nước uống đủ cho nửa ngày. Phải giải quyết nhanh, và táo bạo, như kinh nghiệm máu xương trong chiến tranh đă dạy tôi. Tôi đề nghị chuẩn bị buồm để khi cần nương theo gió nồm đến Hồng Kông, hướng Bắc, hoặc cùng lắm về Đà Nẵng, đều là zero độ trên hải bàn. Sau một ngày, dầu c̣n độ hai can, tôi quyết định tắt máy, để dành, cho trường hợp khẩn cấp. Nước uống cạn sạch, ai cũng khát đến lả người, kể cả tài công, đầu óc quay cuồng, miệng môi khô đắng. Trẻ em sau khi đ̣i nước không có, nằm im ĺm như chết. Ghe bắt đầu trôi bằng buồm, dật dờ trên sóng, và tài công không thể điều khiển hướng đi, phó mặc cho may rủi. Một đêm, trong giấc ngủ chập chờn, tôi thấy bà cô ruột, em gái út của ba, đă bị tử nạn khi c̣n rất trẻ trong một chuyến vượt biên hăi hùng hai năm trước đó, hiện về, bảo tôi đừng lo, hăy cầu nguyện Đức Mẹ cứu giúp, che chở cho. Một điều lạ, Bội Trân cũng thấy y như vậy, và kể cho tôi nghe. Một ngày nữa. Nhiều chiếc tàu buôn lớn đi ngang, có chiếc rất gần, chúng tôi giơ tay, phất tấm vải trắng, cầu cứu, nhưng họ chạy luôn. Cả nhà Cu Nho bắt đầu khóc lóc, đọc kinh, lần tràng hạt. Đêm sau, trời bỗng đổ mưa, không báo trước. Như một phép lạ. Mưa giữa biển khơi, lần đầu tôi mới thấy, chỉ tập trung ở một nơi nhất định, nhưng trắng xóa cả chân trời xa, ào ào như thác lũ, có vẻ gấp rút, hối hả, rồi tự nhiên ngưng bặt. Mọi người mừng quá, vội vă lấy đồ hứng, chứa đầy các can nhựa. Ngoài ra, được tắm thỏa thích và hả họng uống nước mưa, uống măi, no nê. Nhưng nỗi lo về dầu vẫn trĩu nặng. Thuyền vẫn bềnh bồng, vô định. Hai ngày nữa trôi qua. Đêm đến, anh tài công la lớn, kia ḱa, có nhiều ánh đèn từ hướng đi của ḿnh, tức hướng Bắc, dường như là một thành phố. Tôi nh́n qua ống ḍm, nhưng tối quá không phân biệt được ǵ ngoài các đóm sáng lung linh trên nước. Nhưng vẫn bảo họ hướng mũi ghe về phía ấy. Chạy hết một đêm, đến sáng, trời quang mây tạnh th́ thấy đó là một chiếc tàu lớn đang bỏ neo, nhưng khoảng cách vẫn c̣n xa. Tôi bảo mở máy lại, cho ghe chạy tới. Một giờ sau, đến sát thân tàu, cao như một building, tôi đứng lên, hai tay bắt loa, nói lớn với các thủy thủ đang nh́n chúng tôi với vẻ ṭ ṃ, bằng hai thứ tiếng Anh và Pháp, và được biết đó là một tàu dầu Hy Lạp. Biển lặng, nên tiếng tôi vang âm trong sương sớm, nghe rơ mồn một. Thuyền phó xuất hiện, hỏi cần ǵ. Tôi đáp, xin dầu và nước uống, hoặc vớt về Hy Lạp, cũng được. Bà Cu Nho chắp tay vái ông ta lia lịa, bồng đứa con trai mới hai tuổi, giơ lên cao cho ông thấy mà thương t́nh. Ông ta chỉ tay về phía sau, lắc đầu nói: “Không vớt về Hy Lạp được, v́ Manila ở phía sau, chúng tôi mới ở đó ra, chỉ c̣n một ngày là đến.” Như vậy ghe chúng tôi đă chạy sai tọa độ 90, hoặc tôi chấm sai, một cách may mắn, hoặc nhờ cơn băo làm lệch hướng, v́ nếu c̣n dầu và chạy đúng, đă lạc về phía Nam, vùng có đá ngầm san hô đâm lủng ghe, rất nguy hiểm, hoặc vào đảo Hoàng Sa thời gian ấy có lính Việt Cộng trấn giữ, càng nguy hiểm hơn. Sau đó, dầu, thức ăn và nước ướp lạnh được tḥng dây xuống. Có vài thủy thủ quăng cho mấy tờ năm đô la, và một chiếc hải bàn. Tôi hỏi thuyền phó: “Tại sao các ông dừng lại đây suốt đêm vậy?” Ông ta nhún vai: “Chúng tôi cũng không biết nữa. Lệnh trung ương từ Hy Lạp. Bây giờ chúng tôi bắt đầu nhổ neo, đi tiếp. Chúc quư vị may mắn!” Tôi la lớn, cám ơn, và sóng biển dội lại, mang lời tôi đi khắp, cám ơn. Cám ơn những tấm ḷng nhân hậu vĩ đại. Bội Trân nói vào tai tôi, Chúa và Đức Mẹ cứu đó anh, bắt họ đợi ḿnh. Một phép lạ nữa, tôi thầm nghĩ, sau trận mưa mấy đêm trước. Ghe chúng tôi tiếp tục chạy. Bấy giờ, mọi người hân hoan, chuyện tṛ rôm rả, ăn uống thoải mái. Cu Nho như người chết đi sống lại, luôn miệng cám ơn “anh Hai đă cứu gia đ́nh em”, khác với thái độ lạnh nhạt, e dè trước đây khi ngồi “phỏng vấn” hai anh em chúng tôi. Tôi chỉ cười, v́ mệt quá, không nói ǵ được. Vào lúc nửa đêm, ghe đến gần Subic Bay, căn cứ quân sự của Mỹ. Sợ bị bắn ẩu, tôi đề nghị thả neo, dừng lại ngủ tại chỗ, chờ cho hết đêm, sẽ liệu. Đến sáng, Subic Bay nhộn nhịp tàu bè, máy bay, lính tráng, tôi bảo tài công cứ chạy thẳng vào căn cứ. Chúng tôi được quân nhân Mỹ tiếp đón tử tế, phát quần áo mới, cho ăn ở trong một chiếc tàu nhỏ, bỏ không, đầy đủ tiện nghi, được dùng làm khách sạn nổi cho những nhóm vượt biên may mắn tắp vào. Vừa lảo đảo bước lên đất liền, hai anh em tôi làm dấu thánh giá, cám ơn Chúa, rồi cùng quỳ xuống, cúi hôn bờ cát, nước mắt giàn giụa mà ḷng mừng vui chất ngất. Những câu thơ của Paul Eluard, thuộc từ thời xa xưa, bỗng trở về, văng vẳng: Và bởi quyền lực của một chữ Tôi bắt đầu lại cuộc đời Tôi được sinh ra để biết em Để gọi tên em Tự Do. Một tuần sau, hai chiếc xe bus chở nhóm chúng tôi đến Trung Tâm Chuyển Tiếp Manila. Tại đây, chúng tôi gặp lại nhiều bạn bè, đồng hương Nha Trang. Ăn, ngủ, lấy lại sức, đọc sách, nghe nhạc, rồi đi rong chơi khắp trại, mà vẫn không sao giết hết thời gian. Đến bưu điện đánh điện tín về cho mẹ tôi mừng, vỏn vẹn một câu mật hiệu: Anh Hai đă cưới chị Phi, sẽ về Mỹ Tho. Và gọi điện thoại báo tin cho người thân ở các nước. Rồi tha hồ dạo phố, thăm thủ đô của “chị Phi”. Đi trên đường Manila, ngắm nh́n thiên hạ vô tư, hạnh phúc mà hồn buồn xót xa, chơi vơi nỗi nhớ Sài G̣n, Sài G̣n huyền thoại của một thời đă yêu và một thời đă chết. Nhất là Bội Trân. Thỉnh thoảng, trong đôi mắt b́nh thường tinh nghịch của em, tôi bắt gặp một trời u uất, tủi sầu mênh mông. Em ngậm ngùi kể, “một năm trước ngày mất nước, một lần em đă ăn trưa tại Manila này, gần phi trường, giữa hai chuyến bay, cùng với toán tiếp viên hàng không Vietnam và anh T., trung tá phi công biệt phái, bạn tù Vĩnh Phú của anh”. Ba tuần sau nữa, những đợt thuyền nhân, chừng hai trăm người thuộc các nhóm khác nhau, lần lượt được chuyển về Trại Tỵ Nạn, trên đảo Palawan. Bằng máy bay Philippine Airlines do chính phủ thuê bao.2. Người nữ tiếp viên phụ trách dăy ghế của tôi có một sắc đẹp cổ điển, mê hồn, tươi trẻ, dáng thanh thanh. Tóc bới cao, đôi mắt nhung huyền. Tôi đọc bảng tên nàng trên áo veste đồng phục màu bordeaux. Marita. Maria Tiểu Nương. Tên có âm hưởng Tây Ban Nha. Quả vậy, sau này gặp lại nàng và thân nhau hơn, tôi được cho biết mẹ nàng là người Phi gốc Tây Ban Nha. Nàng tỏ vẻ ân cần, lịch sự với Bội Trân, ngồi phía lối đi, và chỉ ném cho tôi, ở ghế cạnh em, bên cửa sổ, một cái liếc duy nhất hờ hững, nếu không nói là lạnh lùng. Tôi không lấy thế làm buồn, v́ nghĩ đến thân phận hiện tại của ḿnh. Sau những năm chiến tranh, và lưu đày cải tạo, và giông băo cuộc đời vùi dập, và bao nhiêu tủi nhục ê chề, c̣n sống là may lắm rồi, nói chi tuổi trẻ, sức khỏe, dung nhan, chí tang bồng hồ thỉ, vẻ ngạo mạn xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, tất cả đă tàn lụn theo với thời gian và thuộc về dĩ văng cổ tích. Once upon a time there was a young soldier... Ngày xưa có một người lính trẻ... Tôi lim dim mắt, cố xua kỷ niệm từ đâu kéo về, chật hồn. Giữa tiếng rù ŕ đều đều của động cơ, tai vẫn nghe hai cô gái sắc nước hương trời, kẻ đứng người ngồi, chuyện tṛ, hỏi han về nhau, về gia đ́nh, một cách tương đắc. Khi Bội Trân nói, “em cũng là tiếp viên hàng không, của nước VNCH, nhưng bây giờ em chỉ là một thuyền nhân tỵ nạn không c̣n quê hương nữa”, Marita cúi xuống ôm em, cả hai rơm rớm nước mắt. Hèn chi, nàng thủ thỉ, “khi chị bước vào phi cơ, em thấy chị đẹp quá, mặc dầu ăn mặc đơn sơ, không son phấn, nhưng trên gương mặt kiêu sa toát ra một nỗi buồn kỳ lạ, khác với những người tỵ nạn Việt Nam mà em đă gặp trên các chuyến bay. Chị phải có một tâm sự ǵ xót xa, cay đắng lắm, em mong một ngày nào chị sẽ kể em nghe, chị nhé!” Bấy giờ Marita mới quay nh́n tôi với ánh mắt dịu dàng hơn, dừng lại lâu hơn. Lần đầu gặp nàng, chỉ có thế thôi. Hơn một giờ sau, khi máy bay đáp xuống phi trường Puerto Princesa, Marita tháo chiếc khăn quàng tiếp viên bằng lụa màu hồng pha tím nhạt trao cho Bội Trân, ôm em từ biệt, và nói: “Tặng chị làm kỷ niệm. Em có một người chị họ nữ tu tên Sister Emma, làm việc thiện nguyện tại trại Palawan. Khi có dịp, em sẽ đến trại thăm Emma, thăm chị và anh Hai”. Nàng nói “anh Hai” bằng tiếng Việt. Rồi bắt tay tôi: “Chúc anh may mắn trong cuộc sống mới.” 3. Bốn chiếc xe bus chở đầy các tân tỵ nạn viên dừng lại ở cổng trại, giữa trưa. Bà d́ họ của chúng tôi, c̣n rất trẻ, d́ Mười, vượt biên trước hai năm, chờ đi Na Uy, ra đón tôi, và Bội Trân mà d́ chỉ thấy một lần khi em mới chập chững biết đi. D́ nói, cuộc sống tại Palawan –lúc ấy chứa gần hai ngàn người– khá phức tạp, xô bồ. Sau này, dần dần, tôi biết thêm, rơ hơn. Trại gồm mọi thành phần xă hội, trí thức, thất học, già trẻ, lớn bé, lương thiện, lưu manh, đủ cả, chưa kể các “ông kẹ” của Mặt Trận Kháng Chiến, áo đen khăn rằn, vẻ nghênh ngang, mặt đằng đằng sát khí, nh́n gốc cây nào cũng thấy Việt Cộng. Đặc biệt, có cả ông đương kim (hay cựu, tôi không nhớ nữa) thủ tướng tên Nguyễn Hữu Chánh của chính phủ lưu vong Bolsa, lúc ấy là một trong những anh chàng cầu bơ cầu bất của trại, tổ sư nói phét, nhưng nói hay, kiến trong lỗ cũng ḅ ra nghe, sống nhờ vào tiền của các góa phụ ngây thơ. Và những người bạn trẻ tuyệt vời tôi may mắn được chia sẻ tâm sự và buồn vui tại trại, nay đều trở thành linh mục, trong số có Hoàng, Cửu (Mount Angel), Luận (San Francisco), Huỳnh (Texas), và Sĩ (Pháp). Trại là một thành phố lều, bidonville, đúng nghĩa, được xây sát đường bay phi trường Puerto Princesa, chia làm chín khu, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của một viên trung úy Phi mặt sắt đen ś, gồm những túp nhà cất liền với nhau, mái tranh, vách nứa, đă quá quen mắt ở miền quê Việt Nam, lộn xộn, sơ sài, đủ kiểu. Có chùa, nhà thờ, bệnh xá, kho lương thực. Tại trung tâm trại, có một sân rộng, một câu lạc bộ bán nước và thức ăn, một văn pḥng làm việc của Ban Đại Diện trại –do đồng bào bầu lên, gồm đầy đủ các ban ngành. Chồng d́ Mười là một trưởng khu, nên đă kiếm được cho anh em tôi một căn lều nhỏ của một gia đ́nh mới đi định cư, riêng biệt, không chung vách với ai, trông rất tiểu tư sản, có hai sạp gỗ làm hai giường ngủ, bếp và một “pḥng” tắm dă chiến, sát bờ biển, gió thổi vào lồng lộng. Sau này ở rồi mới biết, thỉnh thoảng ban đêm khi thủy triều lên, nước tràn vào th́nh ĺnh, ngập lên đến mép giường, cuốn trôi đồ đạc. Nhưng lúc ấy chúng tôi chịu ngay, dọn vào liền. Mỗi sáng thứ hai, trại có lệ chào quốc kỳ. Lần đầu, nh́n lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, nghe lại bài quốc ca thân yêu một thuở, tôi cảm động đến rơi lệ. Rồi phải qua thủ tục nhập trại, khai báo lư lịch, khám sức khỏe, gặp các phái đoàn phỏng vấn định cư ở nước thứ ba. Bội Trân t́nh nguyện thông dịch cho toán y tế Pháp thuộc Nhóm Médecins Sans Frontières. Tôi dạy lớp Pháp văn cấp tốc cho những người được tàu Pháp vớt đă chọn, hoặc bắt buộc, đi Pháp. Mỗi sáng sớm, khi cả trại c̣n ngủ, hai anh em tôi và một số trại viên theo đường tắt lên phi đạo để chạy bộ và tập thể dục. Rồi Bội Trân ra đứng sắp hàng lănh lương thực đem về nấu. Tôi ra ṿi nước công cộng hứng mấy thùng để tắm, giặt. Với tiền tiếp tế của các em từ Mỹ, Pháp, Đức gửi đến, cuộc sống cứ thế dần trôi êm đềm như ḍng sông nhỏ. Chúng tôi kiên nhẫn chờ ngày lên đường đi Mỹ. Không cần điều tra lâu, đám đàn ông, thanh niên độc thân thật và độc thân tại chỗ, trong số có ông thủ tướng tương lai của chúng ta, biết tôi và Bội Trân là hai anh em ruột, không phải bồ bịch, vợ chồng, như họ đă lầm tưởng, bènphấn khởi ra mặt, thay đổi thái độ đối với tôi, săn đón, mời đi uống bia, cà phê, điều mà tôi luôn luôn kiếm cớ từ chối, một “anh Hai” hai “anh Hai” rối rít, và lượn lờ quanh “biệt thự” của chúng tôi thường trực, như ong bướm. Vài chàng trồng cây si hàng giờ trên bệnh xá, chờ em xuất hiện, hoặc giả vờ đau, nhờ em thông dịch. Nhưng Bội Trân dửng dưng, không để ư đến ai, mặc dầu vẫn đối xử lịch sự, tươi cười với tất cả. Đôi khi thức giấc giữa khuya, tôi thấy em ngồi thút thít ở giường bên. T́nh yêu và kỷ niệm của Kha, người hôn phu phi công hào hoa đă chết tại trại tù cải tạo, c̣n hằn sâu trong em. Cả hồn em đă chôn theo cùng với t́nh yêu một đời. Tôi bước đến bên giường, choàng vai em, dỗ dành, như lúc nhỏ có lần em cứng đầu bị ba mẹ mắng, tủi thân, khóc nức nở. Thôi, ngủ đi em. Và tôi c̣n mượn cả lời thơ Aragon để an ủi. Il n’y a pas d’amour qui ne vive de pleurs / Il n’y a pas d’amour heureux. Không có t́nh yêu nào mà không sống bằng lệ khóc / Không có t́nh yêu hạnh phúc. Nhưng ích ǵ, hăy nghĩ đến tương lai. Thời gian là thần dược chữa lành những cơn đau. Hăy vươn lên mà sống. Lời của chính em đó, đă nhắn cho anh khi em cùng mẹ ra thăm anh ở trại khổ sai Vĩnh Phú năm nào, em không nhớ sao? Em tựa đầu vào ngực tôi, khóc to hơn. Vâng, em sẽ cố quên. Cố quên. Nhưng anh đừng bao giờ bỏ em một ḿnh, em sợ lắm. Tôi biết câu đó, không phải em nói cho tôi.4. Hai tuần lễ sau khi nhập trại, Bội Trân nhận được thư của Marita do Sister Emma chuyển. Em đưa cho tôi đọc ké, nhưng tôi chỉ lướt qua để em vui, v́ tôi vốn lười viết và đọc thư và nhất là thư của đàn bà con gái, thường là tràng giang đại hải. Trong lá thư dài của nàng, chỉ có một câu về tôi: Chị may mắn có một ông anh tuyệt vời. A wonderful big brother. Tôi nghĩ, đó chỉ là một lối nói xă giao. Rồi sau một tháng, một ngày cuối tuần, Marita đến trại thăm Bội Trân như lời đă hứa trong thư. Cùng với Bội Trân, nàng vào văn pḥng viên trung úy trại trưởng, nói tiếng Phi với hắn ta, xin phép ở lại hoặc ra phố chơi với anh em tôi, và ngủ qua đêm tại trại với Emma. Nàng vẫn đẹp kiều diễm, như lần trước. Và vô cùng dịu dàng, đáng yêu. Bội Trân vui hẳn, hai cô nàng nói cười, quấn quưt bên nhau không rời như đôi chim sẻ nhỏ. Tôi mừng cho em gái được gặp người bạn mới quá tốt. Riêng tôi, lần này, như bị Marita bỏ bùa mê, ra vào ngẩn ngơ, đứng ngồi không yên, nhưng bỗng thấy yêu đời, và hạnh phúc, một thứ hạnh phúc không tên, lâng lâng, ấm áp như một lữ khách dừng chân nơi quán trọ, được nhấp một cốc rượu nồng trong chiều giá rét. Soi gương, chải đầu, điều chỉnh h́nh hài, quần áo. Và mơ mộng vẩn vơ như thuở mới lớn, mới biết tương tư lần đầu. Thật kỳ lạ và lẩm cẩm cho một anh lính bại trận, cựu tù nhân cải tạo, đương kim tỵ nạn viên, nghèo mà ham, quên cả tóc ḿnh bắt đầu ngả màu sương và đời sắp sửa rêu phong. Lại c̣n mơ cùng nàng xây nhà bên suối, có lũ chim uyên kéo đến ríu rít ca như trong một bài hát xưa. Mơ những thiên đường xanh với t́nh yêu tuổi nhỏ của Baudelaire có khúc sérénade ái ân, có tiếng vĩ cầm nức nở đêm trăng dưới cửa sổ người đẹp. Mơ cùng nàng xuống thuyền, xa ĺa nhân thế, vui theo trăng nước, như Phạm Lăi và Tây Thi thuở nào. Mơ cùng chết trên ḍng sông Tương, Tầm Dương hay Danube. Hay, thực tế hơn, mơ được ôm hết dung nhan ngà ngọc trong ṿng tay, một lần thôi. Nực cười quá, trong lúc này mà c̣n huyễn mộng, tôi lẩm bẩm. Nhưng có t́nh yêu thật nào mà không huyễn mộng? C̣n nàng, tôi đoán, cũng chỉ coi tôi như một ông anh nghiêm trang, đứng đắn, không hơn không kém. Buổi thăm viếng của Marita bắt đầu bằng một ṿng quanh trại, do Emma hướng dẫn. Bội Trân đưa nàng vào bệnh xá, giới thiệu với toán y tế Pháp. Tôi dẫn nàng lên văn pḥng đại diện trại, chào xă giao các chức sắc, đa số là các cựu quân nhân đă từng quen biết. Đến trưa, Bội Trân mời hai chị em Marita vào câu lạc bộ thưởng thức các món Việt Nam. Rồi ra biển tắm. Emma xin kiếu về pḥng. Lúc ấy, thủy triều xuống, từ lều của chúng tôi, phải lội bộ khoảng mười phút mới gặp nước sâu. V́ là tiếp viên hàng không, và sinh tại Leyte, quê hương của cựu đệ nhất phu nhân Imelda Marcos, một thành phố biển như Nha Trang, nàng bơi rất giỏi, ngang ngửa với chúng tôi. Cả ba vui đùa thỏa thích, ngồi trên phao, tạt nước vào nhau, cười gịn tan. Lên bờ, c̣n chạy rượt nhau trên cát, rồi nắm tay nhau, ngồi xuống thở dốc. Một lúc sau, Bội Trân vụt đứng dậy, đuổi theo những con c̣ng đang chạy loanh quanh, và không trở lại. Marita cũng không theo em. Vân vê nắm cát trong tay, nàng nh́n sâu vào mắt tôi, và đột ngột hỏi: - Anh Hai, à không, Julien, anh có yêu ai bao giờ chưa? Ngạc nhiên, tôi chậm răi đáp: - Trước đây, có chứ, và nhiều là đàng khác. Hễ ai yêu anh, anh yêu lại liền. Nhanh như chớp. Chiến tranh mà! Nhưng rồi tất cả đă mất hết như cát đang trôi qua kẽ tay em. Bây giờ, không c̣n ǵ nữa. Nàng cười, lắc đầu: - Nhưng “nhanh như chớp” đâu phải là t́nh yêu, em muốn nói t́nh yêu thật! T́nh yêu thật không bao giờ mất dù từ bên kia cơi đời, Marie-Amélie bảo em như thế. Cho em hỏi thêm, nếu như anh yêu một người mà người đó không yêu lại th́ sao? Tôi hơi chột dạ, chưa đoán được ư của nàng, v́ trường hợp “nếu như” ấy đă mấy lần suưt xảy ra cho tôi. Nhưng tôi cũng cười theo, lấy bàn tay đặt ngang cổ: - Th́ tự tử. Nhưng anh sợ đi đường một chiều lắm, v́ phải nhắm mắt đi luôn. Là nhà binh, thấy tấn công không xong anh rút lui liền, chậm trễ sẽ là từ chết tới bị thương. C̣n em th́ sao? - Em hả? Cũng giống Marie-Amélie, em không chối em có nhiều người theo đuổi, nhưng lúc nào cũng thấy cô đơn một cách kỳ lạ. Một cách tuyệt vọng. Em không có nỗi bất hạnh của Marie-Amélie, nhưng t́nh yêu đối với em lúc nào cũng là mây bay, bởi v́ nhiều khi trên không trung nh́n qua cửa sổ phi cơ em thấy từng đám mây lại gần, lăng đăng, đẹp rực rỡ dưới nắng muôn màu, nhưng không làm sao em với bắt được, và mây lại trôi đi mất. Cũng như hạnh phúc, từ xa tưởng thật, rơ ràng trước mắt, ngờ đâu khi đến gần giơ tay chụp lấy, nó chỉ là ảo ảnh, mirage, trong sa mạc, trốn biến, rồi lại hiện ra, như trêu ngươi. Cho nên em nghi rằng hạnh phúc và t́nh yêu chỉ là sản phẩm tưởng tượng của mấy ông thi sĩ, nhạc sĩ và triết gia thôi, hoặc đó không phải là t́nh yêu và hạnh phúc thật. Tôi chăm chú nh́n nàng. Một người đẹp như nàng mà không có t́nh yêu và hạnh phúc th́ rất khó tin. Nhưng có thể nàng nói thật. Rồi tôi nghĩ đến Bội Trân. Tôi nghĩ đến Lệ Ngà, vết thương ḷng nhức buốt. Tôi nghĩ đến Thúy Kiều và Nguyễn Du và câu thơ bất hủ: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Những mỹ nhân cổ kim ít khi được hạnh phúc trong t́nh yêu. Luật bù trừ tự ngh́n xưa. Tôi lại nghĩ đến bài thơ ám ảnh của Aragon. Không có t́nh yêu hạnh phúc. Đêm về, nàng mời ra phố Puerto Princesa ăn tối và nghe nhạc. Đi bằng xe tricycle, c̣n gọi là trike. Nàng giành đăi. Bữa ăn thịnh soạn, kiểu Tây, có muỗng nĩa, bifteck và rượu vang. Sau mười năm, phải vượt bao nhiêu dặm trùng dương nguy khốn, phải trốn chạy thiên đường của loài khỉ “đỉnh cao trí tuệ” từ rừng rú chui ra, hôm nay anh em tôi mới có dịp gặp lại khung cảnh sang trọng, ánh sáng văn minh, và loài người đúng nghĩa, qua một trại tỵ nạn tăm tối trên đất nước Philippines. Bỗng nhiên bao nhiêu kỷ niệm hiện về, êm đềm mà chua xót. Tháng giêng 1975, Đà Lạt, quán L’Eau Vive, những ly rượu Bordeaux, món bouillabaisse đặc sản miền Provence, bản sonate của Beethoven năo ḷng, phím dương cầm xôn xao, bộ đồ bay nhuốm màu sương gió của Kha, mắt nh́n tŕu mến của Bội Trân. Mái tóc buông lơi đầy hương của Lệ Ngà. Và t́nh yêu hối hả, như sợ thời gian cướp mất. Và hạnh phúc phù du, trước trận cuồng phong sắp ùa tới trên quê hương. Ôi bao nhiêu nước mắt để đổi lấy vài phút sum vầy ngắn ngủi, c̣n đâu? - Anh đang nghĩ ǵ thế? Marita ân cần hỏi tôi. Tôi lúng túng, lắc đầu: - Ồ không, anh đang nghĩ đến hạnh phúc tối nay có em, có Marie-Amélie, có kỷ niệm của những ngày xưa cũ. Một hạnh phúc đơn sơ. Anh không dám mơ ước ǵ hơn. Bội Trân mở to mắt nh́n tôi, mỉm cười, hạ giọng, nói khẽ bằng tiếng Việt: - Ủa, sao bữa nay anh lăng mạn “đột xuất” như thế? Chắc là bị tiếng sét của nàng? Nhưng em mừng, v́ nếu không lăng mạn người ta sẽ chết sớm. Thấy Marita ngơ ngác nh́n theo, tôi dịch lại cho nàng. Cả ba cùng cười. Ăn xong, Marita đề nghị đến pḥng trà nghe nhạc. Tôi nhanh tay trả tiền trước. Pḥng trà có quầy rượu, ban nhạc sống và một sàn nhảy bỏ túi. Tôi gọi rượu chát trắng cho hai nàng, theo yêu cầu, và cognac cho tôi. Không khí ồn ào, vui nhộn. Tôi nhảy một bản tango với Bội Trân và slow với Marita, là hai điệu ruột của tôi. Khi các ca sĩ nghỉ giải lao, trưởng ban nhạc mời khách lên sân khấu hát. Marita hát Cry me a river, không thua Julie London, giọng buồn thê thiết, làm ngất ngây ḷng người. C̣n Bội Trân hát bản Torna a Surriento của De Curtis bằng tiếng Ư, rồi tiếng Việt, lời Phạm Duy. Tôi không ngờ cô em gái ca quá hay, có lẽ muốn nhờ bài hát trút hết nỗi ḷng. Bao giờ mới được trở về mái nhà xưa? Tiếng vỗ tay vang dội, dành cho hai nữ ca sĩ “nghiệp dư” tài sắc vẹn toàn, làm tôi hănh diện lây. Khi từ biệt Marita tại cửa pḥng Emma, tôi hỏi nàng, đêm nay em có ước muốn ǵ không. Nàng đáp, lời nhẹ như sương và đôi mắt dịu êm như sóng khuya vỗ về ngoài khơi:- I want to be held. Em muốn được ôm. Tôi bỗng sững sờ, bất động. Câu nói ấy, trong khoảnh khắc không ngờ, đưa tôi trở lại Bồng Sơn một mùa chinh chiến cũ và h́nh ảnh lâu rồi, nhưng không bao giờ phai nhạt, của một bé gái, tuổi khoảng tám, chín tuổi, đạp phải lựu đạn do du kích Việt Cộng gài, dành cho chúng tôi, nằm gục trong vũng máu. Toán Dân Sự Vụ của tôi, đang công tác gần đó, chạy đến tiếp cứu. Tôi đỡ bé dậy, nhưng người bé đă mềm nhũn, mặt xanh lướt như tàu lá. Trong cơn mê bé thều thào: “Con ở đợ nhà người ta, mồ côi, không có cha mẹ, không có ai hết, con muốn được ôm”. Tôi bật khóc, ôm bé vào ḷng mà nước mắt đầm đ́a ḥa với máu từ tấm thân bé bỏng chảy xuống không ngớt, ướt cả ngực áo trận. Bé từ từ nhắm mắt, có vẻ mỉm cười, măn nguyện, và một phút sau, chết trong tay tôi. Marita vẫn nh́n tôi, đôi mắt ướt long lanh trong bóng mờ, lặng im, chờ đợi, nhưng tôi vẫn đứng yên. Một phần v́ tâm hồn bất ngờ xúc động bởi kỷ niệm thảm thương cũ, một phần v́ nhút nhát, một phần v́ mặc cảm sợ bị từ chối. Một phần v́ ngu si. Dù đă trải qua nhiều cuộc t́nh lớn, nhỏ trước đây. Rồi giây phút kỳ diệu nhiệm mầu tan biến. Nàng hôn Bội Trân, bắt tay tôi, ánh mắt b́nh thản trở lại như lần gặp gỡ đầu tiên trên phi cơ. Good night anh Hai!5. Thế thôi. Tôi không bao giờ nghe Bội Trân nhắc đến nàng nữa, mà tôi cũng không hỏi, mặc dầu hai người vẫn thư từ cho nhau. Một hôm, em nói không muốn đi Mỹ nữa, mà về ở với Thể Trân, chị kế của em, định cư tại Nanterre, ngoại ô Paris, từ 1978. Em giải thích, “xa anh, em sẽ đau khổ vô cùng, như khi em mất Kha, nhưng có em, anh phải lo cho em, làm sao có thể làm lại cuộc đời của riêng anh? Em đă nghĩ kỹ rồi!” Tôi và Thể Trân thấy cũng hợp lư, nên đồng ư, trái với lời mẹ dặn tôi trước khi ra đi, “con phải ǵn giữ, chăm sóc em, thay mẹ”. Thể Trân từ Paris đến trại Palawan thăm chúng tôi và nhân tiện đón em qua Pháp. Xa nhau hơn mười năm, gặp lại, được phép đặc biệt sống chung với nhau một tuần lễ trong “túp lều lư tưởng”, thật không c̣n nỗi mừng vui nào hơn. Hai chị em vẻ ngoài không khác nhau mấy, nhưng Thể Trân may mắn hơn, có một mái gia đ́nh êm ấm và mộng b́nh thường. Ngày chia ly, ba anh em trở lại quán ăn Tây ngoài phố, ngồi lại chiếc bàn cũ. Xong bữa ăn, Bội Trân choàng vai ôm tôi, và dịu dàng nói, như với một người bạn: - Marita yêu anh, nhưng có lẽ anh không biết, hay giả vờ không biết. Nàng yêu anh, không phải v́ em, như có thể anh đă hiểu lầm, nhưng nàng nói v́ cái vẻ bất cần đời của anh và tâm hồn quăng đại, độ lượng, ngay thẳng rất đàn ông mà nàng đoán có đầy trong anh. Th́ cũng giống như tụi em thương yêu anh vậy, ngoài t́nh ruột thịt. Em biết anh cũng yêu nàng, nhưng anh im lặng có lẽ bởi ḷng tự ái, tự trọng, như nhiều lần trước kia, không muốn mang tiếng là v́ nhờ đứa em gái. Nếu tối đó anh làm theo lời nàng ao ước, th́ chắc chuyện đời đă khác hẳn đi. Trong t́nh yêu, cơ hội không đến lần thứ hai, v́ người con gái biểu lộ t́nh yêu, trao cái nh́n đặc biệt cho ai đó chỉ trong một phút một giây, nhưng là thiên thu, và chỉ một lần cho một người trong đời mà thôi. Tụi em là phụ nữ, biết rơ như thế, có phải không chị Thể? Thể Trân nh́n em, nh́n tôi, không hiểu chuyện ǵ, nhưng cũng khẽ gật đầu. C̣n tôi cho những điều em nói là một lời trách móc kín đáo, nhẹ nhàng, nhưng không sai. Tôi chỉ biết cười trừ: - Anh biết. Anh biết. Nhưng thôi, âu cũng là duyên số. Em đừng buồn anh. Có hai em thương anh, là đủ rồi. Cho đến ngày Bội Trân ĺa bỏ thế gian, xuống tóc vào tu trong ḍng kín Carmel ở Lisieux, Marita vẫn liên lạc đều đặn với em. Bốn năm sau đó, Sister Emma t́m được địa chỉ tại Mỹ của tôi, qua linh mục cựu tuyên úy trại Palawan, Jacques Kenneth, thuộc ḍng Biển Đức tại Mount Angel, Oregon. Emma viết thư, báo tin Marita đă qua đời trong một tai nạn xe hơi thảm khốc trên xa lộ Manila, và nhờ tôi cho “Sister Marie-Amélie” biết với. Emma viết thêm câu tái bút: “Trong cơn hấp hối, Marita c̣n th́ thầm, vĩnh biệt Marie-Amélie, vĩnh biệt anh Hai Julien.” Tôi xem thư mà hai hàng lệ đẫm, tự trách ḿnh sao quá đỗi u mê, đă không ôm nàng trong phút chia tay đêm ấy, như đă ôm em bé mồ côi Bồng Sơn ngày xưa, để cho nàng bớt lẻ loi, cho nàng thấy rằng t́nh yêu và hạnh phúc có thật, ngay trong cuộc đời này. Tôi nhớ lời nàng bảo tôi ngày đó trên cát biển Palawan. T́nh yêu lúc nào cũng là mây bay. Marita, tôi thầm gọi, Marita. Marita, nỗi hối hận khôn nguôi, t́nh yêu đớn đau của tôi. Marita, mây bay của tôi. Mây bay, ngàn năm...Kim Thanh