Anamit
04-01-2017, 21:38
T́m hiểu về người Việt đầu tiên đặt chân đến nước Mỹ. Ông là đến đây đào vàng theo một thủ lĩnh người Canada. Lúc bấy giờ ông cải trang là người Hoa, ông cũng nhận ông biết nhiều thứ tiếng và trở thành kư giả. Cuộc đời phiêu bạt của ông thật ly kỳ.
Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên th́ có một người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ trước 20 năm để trở thành… cao bồi.
http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/19.jpg (http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/19.jpg)
Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên sang Hoa Kỳ kết mối bang giao ḥa hiếu đồng minh, th́ có một người Việt Nam đă sang Hoa Kỳ trước đó 20 năm để trở thành cao bồi. Ông là Trần Trọng Khiêm quê Phú Thọ. Tuy không phải là một sứ giả, nhưng cuộc đời ông Trần Trọng Khiêm- người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ cũng nồng nàn tinh thần yêu nước.
T́m vàng nơi đất khách
Theo như nghiên cứu của học giả Nguyễn Hiến Lê, ông Trần Trọng Khiêm sinh năm 1821 quê làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, nay là xă Xuân Lũng (Lâm Thao, Phú Thọ).
Năm ông 21 tuổi, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Trần Trọng Khiêm trong cơn uất hận đă ra tay giết chánh tổng báo thù cho vợ. Sau đó, ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc.
Suốt 12 năm ṛng, từ 1842 – 1854, Trần Trọng Khiêm đi qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến TP New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường cho bốn năm phiêu bạt ở đất Hoa Kỳ.
Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi đến Hoa Kỳ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi t́m vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về TP San Francisco và làm kư giả cho tờ Daily News trong ṿng 2 năm.
Trong một cuốn sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1937, có tác giả đă kể về con đường t́m vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch vào giữa thế kỷ
XIX. Họ đến từ nhiều nước rồi hợp thành đoàn đi sang miền Tây t́m vàng.
Miền Tây – đó bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị ŕnh rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Trong gần 2 năm, Lê Kim đă sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đă góp 200 Mỹ kim vào năm để mua lương thực và vũ khí. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quư và tin tưởng.
Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Ḥa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người t́m vàng đă vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California t́m vàng. Sốt rét và rắn độc đă cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
http://vietbf.com/forum/highslide/graphics/warning.gif
http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/20.jpg (http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/20.jpg)
Ở Hoa Kỳ, Lê Kim vừa t́m vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong cuốn “Đổ xô đi t́m vàng”.
Trở thành nhà báo
Theo t́m hiểu của học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ XIX, nơi đây c̣n là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp nhưng Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn c̣n lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đă kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đă được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến.
Khi t́nh cờ gặp lại, Lê Kim đă cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đă chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lư “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đă quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim t́m đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đă kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của ḿnh, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm kư giả cho báo chí Hoa Kỳ.
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên là Lê Kim. V́ vẫn bị truy nă nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Ḥa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.
Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lăm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đă kể tường tận hành tŕnh hơn 10 năm phiêu dạt của ḿnh từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
http://vietbf.com/forum/highslide/graphics/warning.gif
http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/21.jpg (http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/21.jpg)
Di tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim.
Khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Gần 10 năm sau, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Lê Kim đă từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của ḿnh cùng với Vơ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đă khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội. Trong gia phả nhà họ Lê ǵn giữ ghi lại lời trăng trối th́ trước khi chết, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con; đồng thời căn dặn các con giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngăi.
Nghĩa quân chôn Lê Kim ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó ông vừa tṛn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Ḷng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa v́ nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị c̣n truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Hoa Kỳ, Lê Kim c̣n là một trong những nhà yêu nước. Dù cuộc khởi nghĩa của ông không thành công nhưng cũng thành nhân” như lời của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học đă nói.
Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm được hai nhà văn hư cấu nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết có nhan đề: La rueé vers l’or (Đổ xô đi t́m vàng) của Rene Lefebre (Nhà Xuất bản Dumas, 1937) và Con đường thiên lư của Nguyễn Hiến Lê (năm 1972).
Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên th́ có một người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ trước 20 năm để trở thành… cao bồi.
http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/19.jpg (http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/19.jpg)
Nếu như Bùi Viện được coi là sứ giả Việt đầu tiên sang Hoa Kỳ kết mối bang giao ḥa hiếu đồng minh, th́ có một người Việt Nam đă sang Hoa Kỳ trước đó 20 năm để trở thành cao bồi. Ông là Trần Trọng Khiêm quê Phú Thọ. Tuy không phải là một sứ giả, nhưng cuộc đời ông Trần Trọng Khiêm- người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ cũng nồng nàn tinh thần yêu nước.
T́m vàng nơi đất khách
Theo như nghiên cứu của học giả Nguyễn Hiến Lê, ông Trần Trọng Khiêm sinh năm 1821 quê làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, nay là xă Xuân Lũng (Lâm Thao, Phú Thọ).
Năm ông 21 tuổi, vợ ông Khiêm bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Trần Trọng Khiêm trong cơn uất hận đă ra tay giết chánh tổng báo thù cho vợ. Sau đó, ông phải trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc.
Suốt 12 năm ṛng, từ 1842 – 1854, Trần Trọng Khiêm đi qua nhiều vùng đất mà chưa người Việt Nam từng tới. Năm 1849, ông đặt chân đến TP New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường cho bốn năm phiêu bạt ở đất Hoa Kỳ.
Tuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi đến Hoa Kỳ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Hoa và đổi tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi t́m vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về TP San Francisco và làm kư giả cho tờ Daily News trong ṿng 2 năm.
Trong một cuốn sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1937, có tác giả đă kể về con đường t́m vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch vào giữa thế kỷ
XIX. Họ đến từ nhiều nước rồi hợp thành đoàn đi sang miền Tây t́m vàng.
Miền Tây – đó bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị ŕnh rập bởi những hiểm nguy do thú dữ, núi lửa, động đất và đấu súng. Trong gần 2 năm, Lê Kim đă sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên là Mark làm thủ lĩnh.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đă góp 200 Mỹ kim vào năm để mua lương thực và vũ khí. Đoàn của Lê Kim có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quư và tin tưởng.
Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Ḥa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người t́m vàng đă vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City. Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California t́m vàng. Sốt rét và rắn độc đă cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
http://vietbf.com/forum/highslide/graphics/warning.gif
http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/20.jpg (http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/20.jpg)
Ở Hoa Kỳ, Lê Kim vừa t́m vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong cuốn “Đổ xô đi t́m vàng”.
Trở thành nhà báo
Theo t́m hiểu của học giả Nguyễn Hiến Lê, sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ XIX, nơi đây c̣n là một thị trấn đầy bụi bặm và trộm cướp nhưng Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn c̣n lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đă kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Hoa Kỳ John A. Sutter.
Tướng Sutter vốn là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đă được tướng Sutter giúp đỡ. Sau khi bị lật đổ, Sutter bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, không ai đoái hoài đến.
Khi t́nh cờ gặp lại, Lê Kim đă cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đă chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lư “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đă quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn ở Hoa Kỳ, Lê Kim t́m đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đă kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của ḿnh, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm kư giả cho báo chí Hoa Kỳ.
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên là Lê Kim. V́ vẫn bị truy nă nên ông không trở về quê nhà Phú Thọ mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Ḥa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường.
Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lăm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đă kể tường tận hành tŕnh hơn 10 năm phiêu dạt của ḿnh từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
http://vietbf.com/forum/highslide/graphics/warning.gif
http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/21.jpg (http://intermati.com/hanna/2016/12m/27d/21.jpg)
Di tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim.
Khởi nghĩa chống thực dân Pháp
Gần 10 năm sau, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Lê Kim đă từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của ḿnh cùng với Vơ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.
Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đă khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của thực dân Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim cũng tuẫn tiết theo đồng đội. Trong gia phả nhà họ Lê ǵn giữ ghi lại lời trăng trối th́ trước khi chết, ông căn dặn vợ lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con; đồng thời căn dặn các con giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngăi.
Nghĩa quân chôn Lê Kim ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó ông vừa tṛn 45 tuổi. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Ḷng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa v́ nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị c̣n truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Hoa Kỳ, Lê Kim c̣n là một trong những nhà yêu nước. Dù cuộc khởi nghĩa của ông không thành công nhưng cũng thành nhân” như lời của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học đă nói.
Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm được hai nhà văn hư cấu nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết có nhan đề: La rueé vers l’or (Đổ xô đi t́m vàng) của Rene Lefebre (Nhà Xuất bản Dumas, 1937) và Con đường thiên lư của Nguyễn Hiến Lê (năm 1972).