PDA

View Full Version : 3 lẦn ĐỔi tiỀn Ở viỆt nam tỪ sau nĂm 1975



tcl
06-12-2016, 22:44
https://3.bp.blogspot.com/-t6CELjG5N84/VdXFi3jsC6I/AAAAAAAAzsg/IhNkcSvX5xk/s400/t1.jpg
500 đồng tiền VNCH tương đương 500 gói ḿ tôm





Hồ Hải - Từ 30/4/1975 đến nay đă có 3 lần đổi tiền để xén lông cừu và thực hiện chính sách nghèo để trị của chính quyền cộng sản ở Việt Nam.



Lần 1: vào ngày 22/9/1975 thực hiện với tỷ giá 1 đồng cụ Hồ ăn 500 đồng Việt Nam Cộng Ḥa, nhưng mỗi gia đ́nh miền Nam chỉ được đổi 100.000 đồng VNCH để có 200 đồng cụ Hồ. Số c̣n lại đem đi đốt bỏ hoặc làm rác. Đă có không biết bao nhiêu nhà giàu ở miền Nam tự vẫn. Giá 1 đồng cụ Hồ mới đổi lúc đó là 1 đô la Mỹ tương đương hối đối.



https://3.bp.blogspot.com/-R3n9-tKAYI0/VdXGFpb2gJI/AAAAAAAAzso/9SfNkDTBH58/s400/t2.jpg



Lần 2: vào ngày 25/4/1978 đổi tỷ giá tương đương 1 đồng mới in ăn 1 đồng cụ Hồ cũ, nhưng mỗi người dân chỉ được đổi 100 đồng với gia đ́nh nhân khẩu chỉ 2 người. C̣n gia đ́nh nhân khẩu 3 người trở lên th́ người thứ 3 chỉ được đổi 50 đồng. Tối đa, mỗi gia đ́nh chỉ đổi được 500 đồng cụ Hồ mới. Gia đ́nh nào c̣n dư tiền th́ đem làm rác hoặc đốt. Lần này cũng hàng ngàn dân giàu miền Nam tự vẫn.

Tiền mới để cho ngày 25/4/1978


Lần 3: Dân giàu miền Nam tự vẫn nhiều hơn, vào ngày 14/9/1985, ḿnh nhớ như in lần này, v́ lúc đó ḿnh đang là sinh viên y khoa, đang kiếm tiền ăn học bằng cách dạy kèm con của một cựu chủ tịch quận I, Sài G̣n. Bà phu nhân ông chủ tịch quận bảo: "Con có tiền không, th́ đi mua đồ trữ nhé." Ḿnh ngây thơ, tụi con làm ǵ có tiền? Bà c̣n bảo, vật giá sẽ lên, nếu thừa tiền th́ mua trước để sau này không bị lỗ con à.

Thế là bà phu nhân của ông chủ tịch quận I Sài G̣n nói hôm trước, th́ hôm sau, thứ Sáu, 13/9/1985 có lệnh tất cả sinh viên được lựa ra vào trường ngủ, sáng hôm sau thứ Bảy 14/9/1985 được đưa đến 1 điểm cứ 3-4 đứa tham gia khuân vác tiền và ghi sổ đổi tiền cùng cán bộ đoàn, đảng.

Sau này cũng bà phu nhân bảo, lẽ ra, lần này đổi tiền ngày 15/9/1985, nhưng v́ lộ tin nên đổi sớm hơn 1 ngày. Lần này ḿnh chứng kiến nhiều ông người Hoa ở quận 5 Sài G̣n, bê bao tải tiền chở cả xe tiền đến khóc lóc năn nỉ đổi dùm. Lần này mỗi đồng cụ Hồ mới ăn 10 đồng cũ, mỗi gia đ́nh chỉ được đổi 2.000 đồng cũ lấy 200 đồng mới.



https://3.bp.blogspot.com/-XDx9IcSnWhQ/VdXHE_SWRWI/AAAAAAAAzs4/Tq7ISRjFva0/s640/t4.jpg


Tiền đổi lần 3 ngày 14/9/1985, bây giờ không c̣n dùng nữa và đă thay thế bằng tiền Polyme

Tính sổ 3 lần đổi tiền đồng tiền Việt Nam mất giá 5.000 lần. Sau đó, mất giá thêm 22.100 lần nữa. Tính ra đồng tiền Việt Nam của cụ Hồ từ ngày 22/9/1975 đến nay mất giá = 10 x 22.100 = 220.000 lần. C̣n đồng VNCH th́ mất giá = 500 x 10 x 22.100 = 110.050.000 lần.Công nhận thời sản đời sống nhân dân đi xuống kinh thật, nhưng quan sản th́ giàu hơn cả Bill Gates.



https://4.bp.blogspot.com/-TbBvNDQQass/VdXHO0yhvdI/AAAAAAAAztA/LKpsBV01i8E/s640/t5.jpg
Tiền Polyme hiện nay là chỉ thay thế tiền coton của lần đổi thứ 3. Nó xấu và dễ bay màu khi bị dính nước.



Sau 3 lần đổi tiền ở miền Nam có 4 câu thơ ai cũng biết:

"Máu rợn mùi tanh, cuộc đổi đời
Ba lần cướp trắng lúc lên ngôi
Miền Nam "ruột thịt" âm thầm hiểu:
Cách mạng là đây: bọn giết người !"

Hồ Hải
Facebook
Sài G̣n, 14h32' ngày thứ Năm, 13/8/2015



------


Ngày 6 tháng 6 năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN đă ra nghị định số 04/PCT - 75 về thành lập Ngân hàng Quốc gia Cộng ḥa miền Nam Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc và thông qua danh nghĩa để thừa kế vai tṛ hội viên của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cũ của Việt Nam Cộng ḥa này trong các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, ADB, WB. Cũng chiếu theo đó đến ngày 22 tháng 9 năm 1975 th́ tiền VNCH mệnh giá trên 50 đồng bị cấm lưu hành và phải đổi sang tiền mới. Tin này được loan trên đài phát thanh lúc 4 giờ sáng ngày 21 tháng 9 quy định người dân phải về nhà trước 11 giờ đêm để đợi thông báo quan trọng. Lúc 2 giờ sáng ngày 22 tháng 9 tin loan về quy định đổi tiền nhưng kéo dài thời gian giới nghiêm, thay v́ chấm dứt lúc 5 giờ sáng để dân chúng đi lại được th́ sẽ chấm dứt lúc 11 giờ sáng. Thời gian đổi tiền chấm dứt lúc 11 giờ đêm ngày 22 tháng 9 nên người dân chỉ có 12 giờ đồng hồ để thi hành.

Từ Quảng Nam, Đà Nẵng vào nam th́ hối suất là 500 đ VNCH = 1 đ tiền CHMNVN.

Từ Thừa Thiên Huế trở ra bắc th́ hối suất là 1000 đ VNCH = 3 đ tiền CHMNVN.

Mỗi gia đ́nh được đổi 100.000 đồng VNCH ra thành 200 đồng CHMNVN để tiêu dùng thường nhật (300 đồng ở Thừa Thiên). Tiểu thương có thể đổi thêm 100.000 đồng nữa. Những xưởng lớn th́ hạn là 500.000 đồng. Số tiền c̣n lại, tối đa là 100.000 cho một gia đ́nh và 1.000.000 đồng cho công xưởng th́ phải kư thác vào ngân hàng. Trương mục sau đó bị khóa đến đầu năm 1976 mới cho phép rút 30 đồng CHMNVN mỗi tháng. Tuy nhiên đến tháng 12 năm 1976 th́ lại khóa trương mục và dân chúng không được rút tiền nữa.
Tiền mới có mệnh giá: 10 xu, 20 xu, 50 xu và 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 50 đồng.

Tỉ lệ hối đoái:

1 USD = 1,51 đ CHMNVN.
1 USD = 2,90 đ NHVN.


https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/doi-tien.jpg?w=830


Đồng tiền nối liền khúc ruột cho nên mọi sự thay đổi về tiền tệ từ phía chính quyền trong bất kỳ thời kỳ nào cũng có ảnh hưởng sâu đậm đến người dân sống trong tầm chi phối của nhà cầm quyền đó. Tính từ năm 1975, lịch sử Việt Nam đă có đến 3 lần đổi tiền với cột mốc là các năm 1975, 1978 và 1985.

Vào thời điểm cuối tháng 4/1975, lượng tiền mặt tại miền Nam do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành và lưu trữ trong ngân khố VNCH được tính khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, tương đương hơn 2 tỷ USD. Tuy nhiên, trên thực tế, lượng tiền mặt trong lưu thông trên thị trường niền Nam vào lúc đó chiếm khoảng 615 tỷ đồng.

Tại Sài G̣n, ngay chiều 30/4/1975, hầu hết các Ngân hàng của VNCH ở khu vực Sài G̣n – Gia Định – Chợ Lớn đều đă được niêm phong, bộ đội tiếp quản toàn bộ kho tiền và các ngân hàng. Sáng 1/5, Uỷ Ban Quân quản của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra lệnh quốc hữu hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng cũ.



https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/100donga.jpg?w=830
Mặt trước giấy bạc 100đ, phát hành tại miền Nam năm 1955


https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/100dongb.jpg?w=830
Mặt sau giấy bạc 100đ, phát hành tại miền Nam năm 1955


Tại miền Nam, từ năm 1953, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đă lưu hành đồng tiền được sử dụng trên toàn cơi Việt Nam Cộng ḥa. Đặc điểm dễ nhận nhất của các loại tiền giấy phát hành tại miền Nam trước năm 1975 là trên đồng tiền luôn luôn có câu “H́nh luật phạt khổ sai những kẻ nào làm giả mạo giấy bạc do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát ra”.

Trên các giấy bạc c̣n có 2 chữ kư của Tổng kiểm tra và Thủ quỹ Trung ương. Đến năm 1968, đổi là chữ kư của Tổng kiểm soát và Giám đốc Sở phát hành; đến năm 1970, đổi sang chữ kư của Tổng kiểm soát và Thống đốc; năm 1971 đổi là chữ kư của Một quản trị viên và Giám đốc Phát hành.

Trong năm 1975, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam in giấy bạc 5.000 và 10.000 đồng với chữ kư củaTổng kiểm soát và Thống đốc. Tuy nhiên, 2 loại giấy bạc này chưa được phát hành trên thị trường th́ đă đến ngày miền Nam thất thủ.



https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/5000donga.jpg?w=830
Mặt trước giấy bạc 5.000 đồng của VNCH in năm 1975 nhưng chưa kịp phát hành

https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/5000dongb.jpg?w=830
Mặt sau giấy bạc 5.000 đồng của VNCH in năm 1975 nhưng chưa kịp phát hành

https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/10000donga.jpg?w=830
Mặt trước giấy bạc 10.000 đồng của VNCH in năm 1975 nhưng chưa kịp phát hành

https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/10000dongb.jpg?w=830
Mặt sau giấy bạc 10.000 đồng của VNCH in năm 1975 nhưng chưa kịp phát hành



Sau khi Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ hoàn toàn và được thay thế bằng chính phủ Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam, qua danh nghĩa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đă tổ chức đổi tiền trên qui mô toàn miền Nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là “Tiền Ngân hàng Việt Nam” (c̣n gọi là tiền ‘giải phóng’). Tiền này được sử dụng tại miền Nam cho đến khi đổi tiền năm 1978 nhằm thống nhất tiền tệ hai miền Nam Bắc.

Ngày 6/6/1975, Chính phủ cách mạng lâm thời đă ra Nghị định số 04/PCT-75 về việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc. Thông qua danh nghĩa là cơ quan đại diện chính thức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, ngân hàng này thừa kế vai tṛ hội viên của Ngân hàng VNCH trong các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB).

Cũng chiếu theo Nghị định 04, đến ngày 22/9/1975 th́ tiền VNCH có mệnh giá trên 50 đồng bị cấm lưu hành tại miền Nam và phải đổi sang tiền mới của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Tiền mới được in tại Tiệp Khắc từ năm 1966 (!), không mang chữ kư, gồm 8 mệnh giá: 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng. Tỉ giá hối đoái vào thời điểm ban hành Nghị định 04 là 1 USD tương đương với 1,51đ Cộng ḥa Miền Nam.


Điều đáng nói là giá trị chuyển đổi của đồng tiền mới không thống nhất về mặt địa lư mà thay đổi theo từng vùng theo Nghị định 04:

– Từ Quảng Nam, Đà Nẵng trở xuống miền Nam, giá trị tiền đổi được tính theo tỉ lệ 500đ VNCH tương đương với 1đ tiền mới.

– Từ Thừa Thiên Huế trở lên miền Bắc, tỉ lệ đổi tiền là 1.000đ VNCH tương đương với 3đ tiền mới.

Việc thu đổi tiền VNCH được bắt đầu lúc 6g sáng ngày 22/9/1975 và chấm dứt vào lúc 6g chiều cùng ngày tại Sài G̣n. Riêng tại các tỉnh xa xôi thuộc phía Nam, việc đổi tiền có hạn ***t là ngày 30/9/1975. Định mức đổi tối đa không quá 100.000đ tiền VNCH cho nhu cầu sinh hoạt của mỗi gia đ́nh; các hộ kinh doanh được phép đổi từ 200.000đ đến 1.000.000đ tiền VNCH sang tiền mới.

Đối với người dân miền Nam, việc đổi tiền năm 1975 là cú xốc đầu tiên mà chính quyền mới dành cho vùng đất. C̣n đang bàng hoàng trước những thay đổi về thể chế chính trị từ ngày 30/4/1975, chỉ chưa đầy 2 tháng sau là một sự kiện kinh tế-tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày tại miền Nam.

Xét về mặt quản lư kinh tế-tài chính, việc đổi tiền là một điều tất yếu đối với một đất nước vừa được thống nhất trong đó lưu hành 2 thứ tiền: tiền VNCH và tiền miền Bắc. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách đó như thế nào là cả một vấn nạn đáng mổ xẻ. Rất nhiều câu hỏi được đặt ra và cho đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Người dân miền Nam chỉ thấy sau khi Nghị định 04 được ban hành, túi tiền của họ bỗng trở nên teo tóp một cách đáng kể.



https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/tienho001.jpg?w=830
Giấy bạc miền Bắc, phát hành năm 1965 (Có in cả chữ Hán)

https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/tienho002.jpg?w=830
Giấy bạc miền Bắc, phát hành năm 1973



Cuộc đổi tiền lần thứ hai được diễn ra vào năm 1978. Ngoài mục đích thống nhất tiền tệ giữa hai miền Nam Bắc, đổi tiền lần thứ hai được coi là một trong những phương thức tiến hành cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam Việt Nam. Với quyết tâm xóa bỏ h́nh thức kinh tế tư bản hiện hữu tại miềnNam, chính quyền mới đă thực thi mô h́nh kinh tế xă hội chủ nghĩa trên cả nước.

Theo nghị quyết khóa III, nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xă, cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Đổi tiền là một bước trong quá tŕnh đó. Hiện tượng này trong quá khứ đă từng được thực hiện một cách bất ngờ ở các nước cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên nhằm tịch thu tài sản và giảm thiểu nền kinh tế chợ đen.

Theo Sắc lệnh của Thủ tướng Chính phủ mang số 88 CP, kư ngày 25/4/1978 th́ lệnh đổi tiền được giữ kín cho đến ngày 3/5/1978 là thời điểm công bố trên toàn quốc. Sắc lệnh quy định tiền tệ cũ của cả hai miền Nam Bắc bị cấm lưu hành, những ai sở hữu tiền cũ th́ phải đem đổi lấy tiền mới.

Ở miền Bắc, một đồng mới trị giá bằng một đồng cũ, loại tiền này được phát hành từ năm 1958. Riêng ở trong Nam, một đồng mới đổi được 0,80 đồng cũ (8 hào) phát hành năm 1975 qua đợt đổi tiền lần thứ nhất.

Dân thị thành được đổi tối đa 100 đồng cho mỗi hộ 1 người; 200 đồng cho mỗi hộ 2 người; hộ trên 2 người th́ từ người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người. Hạn mức tối đa cho các hộ thành phố bất kể số người là 500 đồng mỗi hộ.

Dân vùng quê được phép đổi theo hạn ngạch 100 đồng cho mỗi hộ 2 người (50 đồng mỗi người); hộ trên 2 người th́ người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người. Tối đa cho mọi hộ vùng quê, bất kể số người, là 300 đồng.

Số tiền sở hữu trên mức tối đa phải khai báo và kư thác vào ngân hàng. Khi cần dùng th́ tiền đó có thể rút ra nếu… có lư do chính đáng. Một điều kiện nữa là người dân phải chứng minh rằng số tiền trên mức tối đa là tiền kiếm được bằng ‘lao động cá nhân’ chân chính chứ không phải tiền trục lợi qua lao động của người khác.

Cũng như lần đổi tiền năm 1975, cuộc đổi tiền năm 1978 đă phá giá đồng tiền của Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam đang lưu hành tại miền Nam. Tuy nhiên, tại miền Bắc, giá trị của đồng tiền vẫn giữ nguyên.

Tại miền Nam, dù đă qua một lần đổi tiền vào năm 1975 nhưng đa số người dân vẫn bị bất ngờ v́ lệnh đổi tiền lập lại 3 năm sau đó. Chính sách đổi tiền lần này chủ yếu nhắm vào giới tư sản miền Nam, nhưng trên thực tế, cuộc sống của mọi người, nhất là những người sinh sống tại miền Nam, đều bị ảnh hưởng.

Năm 1978 nhà nước vẫn duy tŕ chính sách quản lư người dân bằng hộ khẩu, nói một cách khác, hộ khẩu kiểm soát lương thực qua chế độ tem phiếu. Đến khi đổi tiền, hộ khẩu quyết định tiêu chuẩn định mức tiền được đổi nên bi thảm nhất là những gia đ́nh bỏ về từ những vùng kinh tế mới. Họ không c̣n hộ khẩu tại thành phố nên cũng không đủ tiêu chuẩn để đổi tiền, cuộc sống hàng ngày vốn đă khốn khổ phải tạm trú nơi mái hiên, gầm cầu đến lúc đổi tiền lại không có giấy tờ hợp pháp.

Vào thời điểm 1978, mức sống của dân miền Nam vẫn c̣n cao hơn miền Bắc nên tỷ lệ sở hữu tiền tiết kiệm của từng gia đ́nh tại Sài G̣n, nói chung, vẫn cao hơn tại Hà Nội. Biện pháp ‘đổi tiền có giới hạn’ chính là một h́nh thức ‘cào bằng’ giữa hai miền. Tuy nhiên, đa số người miền Nam vẫn có thói quen mua vàng hoặc đô la thay v́ giữ tiền mặt dù việc mua bán vàng và ngoại tệ vẫn bị nhà nước nghiêm cấm vào thời điểm đó.

Số lượng vàng c̣n lại tại miền Nam sau 1975 vẫn c̣n là một ẩn số nhưng qua các vụ vượt biên người ta có thể nói ‘tiềm lực vàng’ của người miền Nam vẫn c̣n rất mạnh. Trung b́nh một người vượt biên phải trả cho chủ tầu khoảng 3 ‘cây’ (một danh từ phổ biến để chỉ 1 lạng vàng), nếu làm một con tính nhẩm với gần nửa triệu người đến được bến bờ tự do hoặc bỏ thây ngoài biển cả ta sẽ thấy một số vàng khổng lồ có trị giá hàng tỷ Mỹ kim mà người miền Nam đă đổ vào các cuộc vượt biên. Có người c̣n vượt biên nhiều lần, điều này chứng tỏ ‘tiềm lực vàng’ của người dân miền Nam là rất lớn.

Sự kiện ‘nạn kiều’ của người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức bằng đường bộ và đường thủy năm 1979 với giá trên 10 cây vàng một đầu người cũng là một minh chứng việc ‘đánh tư sản’ không đạt được kết quả như mong muốn. Trong Chợ Lớn không thiếu ǵ những trường hợp người buôn bán nhỏ lẻ, thậm chí hành nghề ve chai, bán dạo vẫn có vàng để trả cho các chuyến vượt biên bán chính thức.



https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/tienho003.jpg?w=830
Giấy bạc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Phát hành năm 1984)


Lần đổi tiền thứ ba diễn ra vào ngày 4/9/1985 với việc phát hành tiền mới có mệnh giá 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng. Như vậy, trong ṿng 10 năm (1975-1985) Việt Nam đă có ba lần đổi tiền. Điểm nổi bật của lần đổi tiền năm 1985 là 10 đồng tiền cũ đổi được 1 đồng tiền mới. Người dân b́nh thường nhận thấy tiền của họ khi đổi sang tiền mới chỉ cần bớt một con số không. Chẳng hạn, một tô phở trước khi đổi tiền có giá 1.000đ nay chỉ c̣n 100đ tiền mới.

Tuy nhiên, đối với những chuyên gia kinh tế, thực tế phức tạp hơn những ǵ người b́nh thường suy nghĩ. Cuộc đổi tiền năm 1985 đă khiến đồng tiền lưu hành tại Việt Nam vào thời điểm đó bị giảm đi 10% trong khi đồng Việt Nam vẫn chưa ‘có khả năng chuyển đổi’ (transferable) trên thị trường hối đoái quốc tế. Đồng tiền Việt Nam vẫn là tiền ‘có khả năng tự do chuyển đổi thấp’, chưa trở thành đồng tiền dùng trong thanh toán quốc tế.



https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/tienho004.jpg?w=830
Giấy bạc mệnh giá 500 đồng được phát hành năm 1987


Tháng 11/2009, Chính phủ Việt Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền Việt Nam, đồng thời tăng lăi suất lên 8%. Chính sách này được xem như là hành động làm căng thẳng thị trường tài chính Châu Á, v́ các nền kinh tế trong vùng đang tranh nhau tạo ưu thế với thị trường Âu Mỹ.

Ngày 11/2/2010, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam định lại mức tỷ giá b́nh quân liên ngân hàng giữa tiền đồng Việt Nam và đôla Mỹ, qua đó, một đôla Mỹ ăn 18.544 đồng. Nếu so với mức tỷ giá 17.941 đồng một ngày trước đó, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá 3,4% so với đôla Mỹ. Ngày 28/2/2010, mức tỷ giá ở thị trường chợ đen là 19.500 đồng.

Ngày 18/08/2010 Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD lên mức 18.932 đồng/USD (tương đương tăng 388 đồng). Ngày 11/02/2011 Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định tăng tỷ giá b́nh quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693 VND (tăng 9,3%), cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân hàng thương mại từ +/- 3% xuống c̣n +/- 1%. Tuy nhiên, đến ngày 19/02/2011 tỷ giá USD ở thị trường chợ đen là 22.300 đồng.

Những diễn biến vừa nêu trên cho thấy sự bất ổn của đồng tiền Việt Nam. Đồng tiền hiện đang lưu hành trên thị trường Việt Nam có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng, nhiều người nghĩ một ngày nào đó sẽ xuất hiện tờ giấy bạc 1.000.000 đồng nhưng không ai nghĩ Việt Nam sẽ soán ngôi ‘đơn vị tiền tệ thấp giá nhất’ của Zimbabwe với mệnh giá 100 ngh́n tỷ đô la.


https://ongvove.files.wordpress.com/2014/02/1trillion.jpg?w=830
Kỷ lục thế giới: giấy bạc 100 ngh́n tỷ đô la của Zimbabwe


Về phần những người bi quan, họ lại nghĩ ngay đến cuộc đổi tiền lần thứ 4 tại Việt Nam trong tương lai!



***



(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu linh)
Nguồn :Nguyễn Ngọc Chính’s Hồi ức một đời người