PDA

View Full Version : Bệnh viêm gan B



tcl
01-08-2016, 02:07
Hỏi đáp Y học: Bệnh viêm gan B




http://gdb.voanews.com/24DD787D-FA09-4369-AFF8-737FE5349391_cx0_cy6_cw0_w987_r1_s_r1.jpg
Bác sĩ Hồ Văn Hiền.



Thính giả Vinh Phạm ở Hà Nội, hỏi:

“Thưa Bác sĩ


Hiện nay, tôi đang bị viêm gan B măn đă 3 năm và hiện trong máu không phát hiện ra virut nhưng trong gan th́ vẫn c̣n 3.220 con.


Thưa Bác sĩ tôi được biết các nhà khoa học Úc và Hoa Kỳ đă t́m ra được loại thuốc đặc trị viêm gan B rồi. Cho tôi hỏi bao giờ loại thuốc này có trên thị trường, và hiện ở Mỹ thử nghiệm loại thuốc này trên người th́ thế nào rồi?

Xin cảm ơn Bác sĩ."




Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:



Hiện nay các thuốc dùng chữa bệnh viêm gan B măn tính gồm:


1) Các chất điều hành hệ miễn nhiễm (immunomodulatory agents) như interferon alfa-2b (Intron A); Pegasys (Pegylated Interferon): chất tổng hợp giống như chất tự nhiên của cơ thể sản xuất để chống nhiễm khuẩn, thuốc chích, dùng cho người trẻ không muốn dùng thuốc lâu dài, muốn có thai kịp thời. Có thể gây trầm cảm, khó thở.


2) Các chất oral nucleoside/nucleotide analog như lamivudine (Epivir), tenofovir, adefovir (Hepsera), telbivudine (Tyzeka) và entecavir (Baraclude), những thuốc uống, ức chế men (enzyme) DNA polymerase của siêu vi HBV, ngăn chặn không cho nó sinh sản và giảm thiểu tác hại trên gan. Thuốc thịnh hành v́ có thể uống mỗi ngày một lần và ít phản ứng phụ. Bất tiện chính là dễ lờn thuốc do siêu vi đột biến, và bệnh tái phát (relapses).


Thuốc Baraclude (tên thương mại của Entecavir) được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận được dùng để chữa những trường hợp viêm gan B mà virus sinh sản tích cực (active viral replication) cộng với tổn thương ở gan, chứng minh bằng các xét nghiệm cơ năng gan (enzyme ALT hoặc AST lên cao) hoặc sinh thiết tế bào gan cho thấy bệnh đang ở giai đoạn tích cực, hoạt động (active liver disease). Năm 2010, FDA, chấp thuận việc dùng entecavir cho các trường hợp suy gan (liver failure) do siêu vi gan B.


Xin trích dẫn một số điểm công bố trong package insert được FDA chấp thuận:

- Các biến chứng thường gặp nhất: nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn, ói.

- Uống entecavir nếu ngừng đột ngột có thể là bệnh nhiễm trở nặng hơn, nhất là trong 6 tháng đầu.

- Thuốc thải ra ngoài do thận, nên nếu cơ nặng thận yếu, giảm thấp do tuổi già, phải điều chỉnh liều thuốc.Thuốc lại có khả năng gây độc gan (hepatotoxicity): nếu da vàng, buồn nôn, phân mất màu, trở nên trắng, phải cho bác sĩ ḿnh biết.

- Thuốc không có khả năng trị dứt (cure) nhiễm trùng siêu vi gan B mà chỉ làm giảm lượng virus trong cơ thể, giảm khả năng nhiễm những tế bào gan mới.

- Thuốc có thể làm cơ năng gan tốt hơn.

- Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, không biết thuốc có giảm nguy cơ ung thư và xơ gan do viêm gan B măn tính gây ra hay không.

Khác với entecavir, birinapant (đang trong ṿng thử nghiệm [investigational drug], của Tetralogic Pharmaceuticals, USA) tấn công trên tế bào gan bị nhiễm khuẩn thay v́ tấn công trên virus. B́nh thường, tế bào cơ thể của chúng ta có hiện tượng tự sát, gọi là "apoptosis". Tế bào tự huỷ diệt một cách đều đặn có kiểm soát, chừng 50-70 tỷ tế bào tự huỷ diệt mỗi ngày trong cơ thể một người lớn. Tế bào tự sát có thể v́ lư do nội tại (stress) hay v́ lư do ngoại lai, lúc mà các tế nào khác ra lệnh cho nó tự sát. Các chất enzyme phụ trách tiêu hoá các protein trong tế bào được kích hoạt, làm "nổ tung" tế bào ra từng mảnh được các tế bào phụ trách dọn dẹp (đại thực bào, macrophage) nuốt vào và thanh toán sạch sẽ không để lại dấu vết.

Apoptosis quá nhiều th́ bộ phận teo lại, quá ít th́ tế bào sinh sản quá nhiều, là hoàn cảnh bệnh ung thư, cho nên cơ thể lành mạnh phải giữ mức tạo tế bào mới quân b́nh với sự tự huỷ hoại của tế bào cũ hay bệnh hoạn.

Trong trường hợp tế bào nhiễm virus viêm gan B măn tính, virus có khả năng ngăn chặn hiện tượng apoptosis này (Cellular Inhibitors of Apoptosis Proteins or cIAP), giữ cho tế bào gan sống để chúng khai thác và sinh sôi nẩy nở theo, v́ bản thân virus không thể sống độc lập được. Thuốc birinapant có khả năng đảo ngược tác dụng này của virus (cIAP antagonist) và làm cho những tế bào bị virus nhiễm phải tự huỷ, tự sát, làm cho virus không c̣n nơi chốn để ẩn núp, ăn bám. Theo Tiến sĩ Marc Pellegrini, tác giả chính của khảo cứu được công bố trên báo Proceedings of the National Academy of Sciences (Mỹ), th́ trong lúc đó, thuốc không hại đến các tế bào gan b́nh thường. Đồng thời, dùng với kháng sinh khống HBV, các virus được thanh toán nhanh gấp hai lần nếu dùng một ḿnh birinapant.

Đứng về phương diện chiến lược, tấn công hai mặt một bên là thuốc chống virus (antiviral agent), bên kia là tấn công sào huyệt của nó (tế bào bệnh bị huỷ diệt) là một chiến lược tốt trong pḥng thí nghiệm. Tuy nhiên, khi đem áp dụng trên người bệnh thật (clinical trial), th́ gặp những biến chứng về thần kinh (h́nh như bệnh nhân bị liệt thần kinh sọ [cranial nerve]), cho nên các thử nghiệm lâm sàng bị ngưng lại. Cho đến bây giờ, th́ tôi không t́m được tin tức nào mới về các thử nghiệm lâm sàng này nữa. Có thể trong tương lai, sẽ có những cố gắng mới, nhưng có lẽ mất nhiều năm mới ngă ngũ. Tetralogic Pharmaceuticals loan báo trên trang web của họ là dự định vào tháng 7-2015 sẽ dùng birinapant (một thuốc thôi) trong một clinical study cho viêm gan B măn tính nhưng không cung cấp chi tiết.

Tôi không biết đây có phải là tin tức vị thính giả muốn biết hay không. Tuy nhiên, đây là một trường hợp thú vị, điển h́nh cho bao trường hợp khác mà báo chí và các phương tiện truyền thông làm bệnh nhân phấn khởi quá sớm về các kết quả trong pḥng thí nghiệm. Đem các nghiên cứu từ thú vật qua con người là một con đường dài và chông gai, và rất tốn kém cho các nhà sản xuất thuốc. Đây là lúc chúng ta nhớ đến câu “Trăm lần găy, ngh́n lần mài”, “bách chiết thiên ma”, càng thất bại càng phải kiên nhẫn cố gắng làm lại th́ mới được các thành quả khoa học như hiện nay.

Chúc mừng vị thính giả điều trị với kết quả tốt. Cần theo dơi với bác sĩ điều trị cho ḿnh.


Kính chúc quư vị may mắn.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền (VOA)