BigBoy
02-05-2025, 19:18
Trúc Phương
Việc người lao động Mỹ mất việc trong ngành sản xuất là thực tế không thể phủ nhận nhưng không v́ vậy mà nước Mỹ trở nên nghèo khó. Trong thực tế, sự thịnh vượng của Mỹ không phải đến từ những nhà máy sản xuất quần áo hoặc đinh vít.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/05/A1-Dai-cong-xuong-My-scaled.jpg (https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/05/A1-Dai-cong-xuong-My-scaled.jpg)
Chính sách thuế quan không chỉ không mang lại việc làm mà c̣n bóp chết chính người Mỹ, bởi v́ hàng xuất cảng nước ngoài đắt hơn sẽ không làm cho hàng hóa sản xuất ở Mỹ rẻ hơn. (H́nh minh họa: Chandan Khanna/AFP via Getty Images)
Những thỏa thuận thương mại tự do mà các tổng thống Dân Chủ lẫn Cộng Ḥa thực hiện vào những năm 1990 và 2000 đă góp phần làm xẹp ngành sản xuất Mỹ.
Tại sao ngành sản xuất gia công biến mất?
Hàng trăm ngàn công nhân công nghiệp đă mất việc sau khi Hiệp Định Thương Mại Tự Do Bắc Mỹ và quy chế tối huệ quốc dành cho Trung Quốc được thông qua. Hàng chục ngàn nhà máy phải đóng cửa. Thập niên 1950, việc làm trong lĩnh vực sản xuất chiếm 35%. Con số này hiện chỉ c̣n 9.4% – tức khoảng 12.8 triệu việc làm.
Hậu quả từ trào lưu thương mại tự do đă ít nhiều gây ra sự phẫn nộ trong xă hội lẫn chính trường. Khai thác tối đa điều này như một phần trong chiến lược tranh cử, ông Donald Trump, tổng thống, hứa rằng thuế quan sẽ phục hồi ngành sản xuất nội địa. Đa số cử tri thuộc tầng lớp lao động ở các tiểu bang Wisconsin, Michigan và Pennsylvania… nhiệt t́nh ủng hộ chính sách này. Ông Trump nhấn mạnh, chỉ cần áp thuế các đối tác thương mại th́ người Mỹ sẽ có việc làm trở lại, mọi nơi, từ Janesville, Wisconsin, đến Youngstown; từ Ohio, Tonawanda, New York đến các thị trấn sản xuất thép ở Tây Pennsylvania…
Xét về lịch sử, sự trỗi dậy của Mỹ khi trở thành cường quốc sản xuất được thúc đẩy bởi sự hội tụ của nhiều yếu tố. Đầu những năm 1900, Mỹ là quốc gia tiên phong trong kỹ thuật dây chuyền sản xuất hàng loạt. Những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến, Mỹ nhanh chóng trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về sản xuất, chiếm lĩnh mọi lĩnh vực, từ xe hơi đến máy rửa chén. Ngoài ra, nhờ chính sách giáo dục tốt, Mỹ có lực lượng lao động có tŕnh độ học vấn cao nhất thế giới.
Sau những năm 1950, vai tṛ công nghiệp sản xuất bắt đầu suy yếu. Một phần nguyên nhân là do người Mỹ ngày càng giàu hơn và chi tiêu nhiều hơn cho các dịch vụ như ngân hàng, du lịch, nhà hàng, chăm sóc y tế, tư vấn pháp lư… Từ giữa thập niên 1960 đến đầu những năm 1980, ngành dịch vụ phát triển mạnh và dân Mỹ bắt đầu không muốn trực tiếp sản xuất những mặt hàng có lợi nhuận thấp. Thay v́ mở nhà máy, họ mở ngân hàng. Thay v́ đóng giày, họ góp vốn mở bệnh viện.
Cũng trong thời gian này, các khu vực kém phát triển hơn trên thế giới, như Mỹ La Tinh và Á Châu, nơi có chi phí lao động thấp, bắt đầu sản xuất những mặt hàng mà dân Mỹ không c̣n muốn rớ vào. Nói cách khác, chính người Mỹ đă phần nào tự đóng cửa nhà máy của họ. Thay v́ sản xuất quần lót hoặc ḷ nướng bánh ḿ, người Mỹ mua hàng nhập với giá rẻ hơn. Năm 2001, khi Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), hàng loạt ông chủ Mỹ sang nước này mở hăng xưởng. Cùng với hàng Mỹ sản xuất ở Trung Quốc, hàng hóa Trung Quốc bắt đầu ào ạt đổ vào Mỹ.
Mỹ không thể trở thành siêu cường nếu chỉ sản xuất… nón MAGA
Năm 1999, giá trị xuất cảng hàng hóa của Trung Quốc chỉ bằng khoảng 1/10 Mỹ. Năm 2008, Trung Quốc vượt mặt Mỹ trở thành nước xuất cảng hàng đầu thế giới. Giới sản xuất những mặt hàng công nghệ thấp như đồ nội thất và hàng gia dụng Mỹ bị thiệt hại nặng. Tuy nhiên, không v́ vậy mà nước Mỹ trở nên nghèo hơn. Ngược lại, Mỹ ngày càng giàu sụ, nhờ sự bùng nổ hàng loạt sản phẩm dịch vụ.
Mỹ “lụt tay nghề” trong việc sản xuất quần áo hay máy xay sinh tố nhưng họ đứng đầu thế giới về nhu liệu và sản phẩm trí tuệ. Năm 2023, Mỹ xuất cảng $24 tỷ dịch vụ quảng cáo. Tổng quát, Mỹ xuất cảng hơn $1,000 tỷ giá trị dịch vụ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác (Wall Street Journal, 15 Tháng Tư).
Theo kinh tế gia Gordon Hanson (đại học Harvard University), năm 1980, lĩnh vực sản xuất chiếm 39% việc làm tại Mỹ. Đến năm 2021, tỷ lệ này giảm c̣n 20%. Tuy nhiên, trong cùng kỳ, tỷ lệ việc làm được trả lương cao trong các ngành tài chính, chuyên môn và pháp lư đă tăng từ 8% lên 26%.
Nói cách khác, toàn cầu hóa đă giết chết ngành sản xuất Mỹ nhưng thế giới thông thương cũng mang lại sự thịnh vượng chưa từng có cho nước Mỹ nhờ xuất cảng dịch vụ. Trong thực tế, sản xuất chỉ chiếm 10% GDP Mỹ. Để so sánh, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe chiếm 17.5% GDP, bất động sản chiếm khoảng 14% và các loại dịch vụ chuyên nghiệp và kinh doanh chiếm khoảng 13% GDP.
Toàn cảnh, các ngành dịch vụ, trong đó có tài chính, pháp lư, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, kế toán, bất động sản, du lịch, công nghệ thông tin, phát triển nhu liệu và truyền thông và giải trí… chiếm đến 70% nền kinh tế Mỹ (MSNBC, 10 Tháng Tư).
Năm 2022, dịch vụ chiếm 30% tổng kim ngạch xuất cảng Mỹ. Yếu tố quan trọng này hầu như không được đề cập trong chính sách thuế quan của ông Trump. Chính quyền Trump nhắc đi nhắc lại về thâm hụt thương mại nhưng chỉ nói về mặt sản xuất. Trong khi đó, Mỹ có thặng dư thương mại gần $280 tỷ trong lĩnh vực dịch vụ!
Chính sách thuế quan không chỉ không mang lại việc làm mà c̣n bóp chết chính người Mỹ. Điều này đang xảy ra. Việc đưa ngành sản xuất Mỹ trở lại bằng cách tăng thuế khiến hàng xuất cảng nước ngoài đắt hơn sẽ không làm cho hàng hóa sản xuất ở Mỹ rẻ hơn, bởi v́ yếu tố chi phí lao động, hàng hóa được sản xuất tại Mỹ sẽ đắt hơn rất nhiều. Điều này sẽ nuốt chửng mọi lợi ích từ việc tăng sản lượng trong nước và doanh thu từ thuế của chính phủ. Và ngay cả khi tăng 30% việc làm trong lĩnh vực sản xuất th́ tỷ lệ việc làm trong lĩnh vực sản xuất tư nhân cũng chỉ tăng lên khoảng 12%, thấp hơn nhiều so với trước đây.
Một ví dụ cụ thể là may mặc. Thị trường Mỹ toàn hàng may mặc sản xuất ở Trung Quốc, Việt Nam, Bangladesh… Chỉ 2% quần áo mà người Mỹ mua là được cắt và may trong nước. Khoảng một nửa trong số đó được sản xuất cho quân đội, theo luật định phải sử dụng các nhà sản xuất Mỹ.
Theo Cơ Quan Thống Kê Lao Động, ngành may mặc Mỹ hiện sử dụng 84,000 người, so với 938,000 người vào năm 1990; trong đó có 6,619 cơ sở, so với 15,622 cơ sở vào năm 2001 (The New York Times, 10 Tháng Tư). Do vậy, mức thuế quan mới của ông Trump – tăng thêm vào mức hiện hành đối với quần áo nhập cảng, trung b́nh là 12.6% – sẽ ảnh hưởng nặng đến túi tiền sắm quần áo của chính người Mỹ.
Mang lại việc làm cho nước Mỹ nhưng ai làm?
Một nghịch lư là khi ông Trump nâng hàng rào thuế quan, việc xây dựng nhà máy tại Mỹ trở nên khó khăn bội phần. Đơn giản, nguyên vật liệu dùng xây nhà máy phải nhập từ nước ngoài bây giờ bị đội giá.
Wall Street Journal (6 Tháng Tư) cho biết, chi phí xây dựng tăng do thuế quan đă làm chết yểu dự án nhà máy tái chế nhựa International Recycling Group trị giá $300 triệu ở Erie (Pennsylvania), vốn được xây dựng trong bốn năm và gần hoàn thành. Nói cách khác, việc ông Trump đảo ngược chính sách thương mại tự do đang tạo ra sự hỗn loạn cho chính lĩnh vực mà ông Trump muốn tái xây dựng, tức ngành sản xuất Mỹ, từ các nhà máy thiết bị y tế ở Florida, đồ chơi ở Ohio hay xe đạp ở California.
The Washington Post (14 Tháng Tư) cho biết, hàng ngàn nhà sản xuất Mỹ đang lao đao v́ không thể nhập linh kiện và nguyên vật liệu từ nước ngoài. Bà Suzanne Shriner, chủ tịch Lions Gate Farms, công ty chuyên cung cấp cà phê Kona trồng ở Hawaii bán khắp Á Châu và Âu Châu, nói: “Chúng tôi đă xuất cảng ra thị trường quốc tế suốt 20 năm, giờ đây đột nhiên thị trường của chúng tôi đang đóng cửa.” Công ty sản xuất xe điện tại Hudson (Ohio) – lâu nay xuất cảng trung b́nh 200,000 chiếc đến Á Châu, Âu Châu và Mỹ Châu La Tinh – cũng gặp rắc rối bởi khách hàng nước ngoài ngưng mua v́ mức thuế quan cao mà nước họ đang áp dụng nhằm vào hàng nhập từ Mỹ, nhằm đáp trả động thái áp thuế của ông Trump.
Liên quan việc biến nước Mỹ thành đại công xưởng, một trong những vấn đề nhức đầu là nguồn nhân lực. Tháng Ba, 40% chủ doanh nghiệp nhỏ cho biết họ không thể t́m được nguồn nhân lực đang cần. Toàn cảnh, nếu không thể thời kỳ đại dịch, t́nh trạng thiếu hụt lao động ở Mỹ là tồi tệ nhất trong 50 năm (Wall Street Journal, 6 Tháng Tư).
Chính sách lương bổng của Mỹ cũng khiến việc mở nhà máy trở nên khó khăn. Một công nhân sản xuất ở Mỹ kiếm được hơn $70,000 một năm, trong khi công nhân ở Trung Quốc chỉ kiếm được chừng $13,000 và công nhân ở Ấn Độ chỉ kiếm được khoảng $2,300. Điều đó có nghĩa, đối với nhiều sản phẩm, việc sản xuất ở nước ngoài và trả thuế quan khi nhập vào Mỹ vẫn rẻ hơn so với việc chuyển nhà máy vào Mỹ và trả lương cao hơn.
C̣n có một thực tế “đau ḷng:” Dân Mỹ ngày nay không chịu làm việc trong các nhà máy sản xuất những thứ linh tinh mà dân nghèo ở Trung Quốc, Mexico hay Việt Nam làm. Có đến 80% ư kiến người Mỹ trả lời cuộc khảo sát của Viện CATO đă hoan hỉ nói rằng nước Mỹ cần phục hồi ngành sản xuất nhưng trong cùng cuộc khảo sát, chỉ có 25% nói rằng tương lai họ tốt hơn nếu họ làm gia công trong các hăng xưởng (TIME, 15 Tháng Tư).
Theo khảo sát chuỗi cung ứng do CNBC thực hiện (CNBC, 16 Tháng Tư), hơn một nửa số người được khảo sát (57%) cho biết chi phí là rào cản lớn nhất trong việc dời chuỗi cung ứng đến Mỹ; 21% cho biết thách thức lớn nhất là t́m nguồn lao động có tay nghề.
Chính ở những nước như Trung Quốc hay Việt Nam, chẳng phải ai cũng muốn làm việc trong nhà máy. Công nhân thường là thành phần không có tŕnh độ học vấn cao. Họ phải miễn cưỡng làm việc trong các nhà máy lắp ráp gia công chỉ để lây lất mưu sinh. Ngay ở Trung Quốc, khi giới trung lưu ngày càng nhiều hơn, cũng bắt đầu xuất hiện t́nh trạng nhiều người không muốn làm thợ lắp ráp, khiến giới chủ Trung Quốc phải mở hăng xưởng ở Phi Châu, nơi chi phí nhân công thậm chí thấp hơn Trung Quốc.
Tất cả những ǵ đề cập ở trên cho thấy, chính sách thuế quan không chỉ khó có thể mang lại việc làm trở lại mà c̣n gây thiệt hại cho chính nước Mỹ. Vấn đề cần thiết hơn đối với Mỹ là đầu tư vào những lĩnh vực công nghệ hoặc dịch vụ mà Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối và mang lại sự giàu có như lâu nay. Ngay cả một nước Á Châu nhỏ như Singapore từ lâu cũng ư thức rằng họ sống sung túc bằng dịch vụ chứ không phải sản xuất.
Việc người lao động Mỹ mất việc trong ngành sản xuất là thực tế không thể phủ nhận nhưng không v́ vậy mà nước Mỹ trở nên nghèo khó. Trong thực tế, sự thịnh vượng của Mỹ không phải đến từ những nhà máy sản xuất quần áo hoặc đinh vít.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/05/A1-Dai-cong-xuong-My-scaled.jpg (https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/05/A1-Dai-cong-xuong-My-scaled.jpg)
Chính sách thuế quan không chỉ không mang lại việc làm mà c̣n bóp chết chính người Mỹ, bởi v́ hàng xuất cảng nước ngoài đắt hơn sẽ không làm cho hàng hóa sản xuất ở Mỹ rẻ hơn. (H́nh minh họa: Chandan Khanna/AFP via Getty Images)
Những thỏa thuận thương mại tự do mà các tổng thống Dân Chủ lẫn Cộng Ḥa thực hiện vào những năm 1990 và 2000 đă góp phần làm xẹp ngành sản xuất Mỹ.
Tại sao ngành sản xuất gia công biến mất?
Hàng trăm ngàn công nhân công nghiệp đă mất việc sau khi Hiệp Định Thương Mại Tự Do Bắc Mỹ và quy chế tối huệ quốc dành cho Trung Quốc được thông qua. Hàng chục ngàn nhà máy phải đóng cửa. Thập niên 1950, việc làm trong lĩnh vực sản xuất chiếm 35%. Con số này hiện chỉ c̣n 9.4% – tức khoảng 12.8 triệu việc làm.
Hậu quả từ trào lưu thương mại tự do đă ít nhiều gây ra sự phẫn nộ trong xă hội lẫn chính trường. Khai thác tối đa điều này như một phần trong chiến lược tranh cử, ông Donald Trump, tổng thống, hứa rằng thuế quan sẽ phục hồi ngành sản xuất nội địa. Đa số cử tri thuộc tầng lớp lao động ở các tiểu bang Wisconsin, Michigan và Pennsylvania… nhiệt t́nh ủng hộ chính sách này. Ông Trump nhấn mạnh, chỉ cần áp thuế các đối tác thương mại th́ người Mỹ sẽ có việc làm trở lại, mọi nơi, từ Janesville, Wisconsin, đến Youngstown; từ Ohio, Tonawanda, New York đến các thị trấn sản xuất thép ở Tây Pennsylvania…
Xét về lịch sử, sự trỗi dậy của Mỹ khi trở thành cường quốc sản xuất được thúc đẩy bởi sự hội tụ của nhiều yếu tố. Đầu những năm 1900, Mỹ là quốc gia tiên phong trong kỹ thuật dây chuyền sản xuất hàng loạt. Những năm sau Đệ Nhị Thế Chiến, Mỹ nhanh chóng trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về sản xuất, chiếm lĩnh mọi lĩnh vực, từ xe hơi đến máy rửa chén. Ngoài ra, nhờ chính sách giáo dục tốt, Mỹ có lực lượng lao động có tŕnh độ học vấn cao nhất thế giới.
Sau những năm 1950, vai tṛ công nghiệp sản xuất bắt đầu suy yếu. Một phần nguyên nhân là do người Mỹ ngày càng giàu hơn và chi tiêu nhiều hơn cho các dịch vụ như ngân hàng, du lịch, nhà hàng, chăm sóc y tế, tư vấn pháp lư… Từ giữa thập niên 1960 đến đầu những năm 1980, ngành dịch vụ phát triển mạnh và dân Mỹ bắt đầu không muốn trực tiếp sản xuất những mặt hàng có lợi nhuận thấp. Thay v́ mở nhà máy, họ mở ngân hàng. Thay v́ đóng giày, họ góp vốn mở bệnh viện.
Cũng trong thời gian này, các khu vực kém phát triển hơn trên thế giới, như Mỹ La Tinh và Á Châu, nơi có chi phí lao động thấp, bắt đầu sản xuất những mặt hàng mà dân Mỹ không c̣n muốn rớ vào. Nói cách khác, chính người Mỹ đă phần nào tự đóng cửa nhà máy của họ. Thay v́ sản xuất quần lót hoặc ḷ nướng bánh ḿ, người Mỹ mua hàng nhập với giá rẻ hơn. Năm 2001, khi Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), hàng loạt ông chủ Mỹ sang nước này mở hăng xưởng. Cùng với hàng Mỹ sản xuất ở Trung Quốc, hàng hóa Trung Quốc bắt đầu ào ạt đổ vào Mỹ.
Mỹ không thể trở thành siêu cường nếu chỉ sản xuất… nón MAGA
Năm 1999, giá trị xuất cảng hàng hóa của Trung Quốc chỉ bằng khoảng 1/10 Mỹ. Năm 2008, Trung Quốc vượt mặt Mỹ trở thành nước xuất cảng hàng đầu thế giới. Giới sản xuất những mặt hàng công nghệ thấp như đồ nội thất và hàng gia dụng Mỹ bị thiệt hại nặng. Tuy nhiên, không v́ vậy mà nước Mỹ trở nên nghèo hơn. Ngược lại, Mỹ ngày càng giàu sụ, nhờ sự bùng nổ hàng loạt sản phẩm dịch vụ.
Mỹ “lụt tay nghề” trong việc sản xuất quần áo hay máy xay sinh tố nhưng họ đứng đầu thế giới về nhu liệu và sản phẩm trí tuệ. Năm 2023, Mỹ xuất cảng $24 tỷ dịch vụ quảng cáo. Tổng quát, Mỹ xuất cảng hơn $1,000 tỷ giá trị dịch vụ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác (Wall Street Journal, 15 Tháng Tư).
Theo kinh tế gia Gordon Hanson (đại học Harvard University), năm 1980, lĩnh vực sản xuất chiếm 39% việc làm tại Mỹ. Đến năm 2021, tỷ lệ này giảm c̣n 20%. Tuy nhiên, trong cùng kỳ, tỷ lệ việc làm được trả lương cao trong các ngành tài chính, chuyên môn và pháp lư đă tăng từ 8% lên 26%.
Nói cách khác, toàn cầu hóa đă giết chết ngành sản xuất Mỹ nhưng thế giới thông thương cũng mang lại sự thịnh vượng chưa từng có cho nước Mỹ nhờ xuất cảng dịch vụ. Trong thực tế, sản xuất chỉ chiếm 10% GDP Mỹ. Để so sánh, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe chiếm 17.5% GDP, bất động sản chiếm khoảng 14% và các loại dịch vụ chuyên nghiệp và kinh doanh chiếm khoảng 13% GDP.
Toàn cảnh, các ngành dịch vụ, trong đó có tài chính, pháp lư, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, kế toán, bất động sản, du lịch, công nghệ thông tin, phát triển nhu liệu và truyền thông và giải trí… chiếm đến 70% nền kinh tế Mỹ (MSNBC, 10 Tháng Tư).
Năm 2022, dịch vụ chiếm 30% tổng kim ngạch xuất cảng Mỹ. Yếu tố quan trọng này hầu như không được đề cập trong chính sách thuế quan của ông Trump. Chính quyền Trump nhắc đi nhắc lại về thâm hụt thương mại nhưng chỉ nói về mặt sản xuất. Trong khi đó, Mỹ có thặng dư thương mại gần $280 tỷ trong lĩnh vực dịch vụ!
Chính sách thuế quan không chỉ không mang lại việc làm mà c̣n bóp chết chính người Mỹ. Điều này đang xảy ra. Việc đưa ngành sản xuất Mỹ trở lại bằng cách tăng thuế khiến hàng xuất cảng nước ngoài đắt hơn sẽ không làm cho hàng hóa sản xuất ở Mỹ rẻ hơn, bởi v́ yếu tố chi phí lao động, hàng hóa được sản xuất tại Mỹ sẽ đắt hơn rất nhiều. Điều này sẽ nuốt chửng mọi lợi ích từ việc tăng sản lượng trong nước và doanh thu từ thuế của chính phủ. Và ngay cả khi tăng 30% việc làm trong lĩnh vực sản xuất th́ tỷ lệ việc làm trong lĩnh vực sản xuất tư nhân cũng chỉ tăng lên khoảng 12%, thấp hơn nhiều so với trước đây.
Một ví dụ cụ thể là may mặc. Thị trường Mỹ toàn hàng may mặc sản xuất ở Trung Quốc, Việt Nam, Bangladesh… Chỉ 2% quần áo mà người Mỹ mua là được cắt và may trong nước. Khoảng một nửa trong số đó được sản xuất cho quân đội, theo luật định phải sử dụng các nhà sản xuất Mỹ.
Theo Cơ Quan Thống Kê Lao Động, ngành may mặc Mỹ hiện sử dụng 84,000 người, so với 938,000 người vào năm 1990; trong đó có 6,619 cơ sở, so với 15,622 cơ sở vào năm 2001 (The New York Times, 10 Tháng Tư). Do vậy, mức thuế quan mới của ông Trump – tăng thêm vào mức hiện hành đối với quần áo nhập cảng, trung b́nh là 12.6% – sẽ ảnh hưởng nặng đến túi tiền sắm quần áo của chính người Mỹ.
Mang lại việc làm cho nước Mỹ nhưng ai làm?
Một nghịch lư là khi ông Trump nâng hàng rào thuế quan, việc xây dựng nhà máy tại Mỹ trở nên khó khăn bội phần. Đơn giản, nguyên vật liệu dùng xây nhà máy phải nhập từ nước ngoài bây giờ bị đội giá.
Wall Street Journal (6 Tháng Tư) cho biết, chi phí xây dựng tăng do thuế quan đă làm chết yểu dự án nhà máy tái chế nhựa International Recycling Group trị giá $300 triệu ở Erie (Pennsylvania), vốn được xây dựng trong bốn năm và gần hoàn thành. Nói cách khác, việc ông Trump đảo ngược chính sách thương mại tự do đang tạo ra sự hỗn loạn cho chính lĩnh vực mà ông Trump muốn tái xây dựng, tức ngành sản xuất Mỹ, từ các nhà máy thiết bị y tế ở Florida, đồ chơi ở Ohio hay xe đạp ở California.
The Washington Post (14 Tháng Tư) cho biết, hàng ngàn nhà sản xuất Mỹ đang lao đao v́ không thể nhập linh kiện và nguyên vật liệu từ nước ngoài. Bà Suzanne Shriner, chủ tịch Lions Gate Farms, công ty chuyên cung cấp cà phê Kona trồng ở Hawaii bán khắp Á Châu và Âu Châu, nói: “Chúng tôi đă xuất cảng ra thị trường quốc tế suốt 20 năm, giờ đây đột nhiên thị trường của chúng tôi đang đóng cửa.” Công ty sản xuất xe điện tại Hudson (Ohio) – lâu nay xuất cảng trung b́nh 200,000 chiếc đến Á Châu, Âu Châu và Mỹ Châu La Tinh – cũng gặp rắc rối bởi khách hàng nước ngoài ngưng mua v́ mức thuế quan cao mà nước họ đang áp dụng nhằm vào hàng nhập từ Mỹ, nhằm đáp trả động thái áp thuế của ông Trump.
Liên quan việc biến nước Mỹ thành đại công xưởng, một trong những vấn đề nhức đầu là nguồn nhân lực. Tháng Ba, 40% chủ doanh nghiệp nhỏ cho biết họ không thể t́m được nguồn nhân lực đang cần. Toàn cảnh, nếu không thể thời kỳ đại dịch, t́nh trạng thiếu hụt lao động ở Mỹ là tồi tệ nhất trong 50 năm (Wall Street Journal, 6 Tháng Tư).
Chính sách lương bổng của Mỹ cũng khiến việc mở nhà máy trở nên khó khăn. Một công nhân sản xuất ở Mỹ kiếm được hơn $70,000 một năm, trong khi công nhân ở Trung Quốc chỉ kiếm được chừng $13,000 và công nhân ở Ấn Độ chỉ kiếm được khoảng $2,300. Điều đó có nghĩa, đối với nhiều sản phẩm, việc sản xuất ở nước ngoài và trả thuế quan khi nhập vào Mỹ vẫn rẻ hơn so với việc chuyển nhà máy vào Mỹ và trả lương cao hơn.
C̣n có một thực tế “đau ḷng:” Dân Mỹ ngày nay không chịu làm việc trong các nhà máy sản xuất những thứ linh tinh mà dân nghèo ở Trung Quốc, Mexico hay Việt Nam làm. Có đến 80% ư kiến người Mỹ trả lời cuộc khảo sát của Viện CATO đă hoan hỉ nói rằng nước Mỹ cần phục hồi ngành sản xuất nhưng trong cùng cuộc khảo sát, chỉ có 25% nói rằng tương lai họ tốt hơn nếu họ làm gia công trong các hăng xưởng (TIME, 15 Tháng Tư).
Theo khảo sát chuỗi cung ứng do CNBC thực hiện (CNBC, 16 Tháng Tư), hơn một nửa số người được khảo sát (57%) cho biết chi phí là rào cản lớn nhất trong việc dời chuỗi cung ứng đến Mỹ; 21% cho biết thách thức lớn nhất là t́m nguồn lao động có tay nghề.
Chính ở những nước như Trung Quốc hay Việt Nam, chẳng phải ai cũng muốn làm việc trong nhà máy. Công nhân thường là thành phần không có tŕnh độ học vấn cao. Họ phải miễn cưỡng làm việc trong các nhà máy lắp ráp gia công chỉ để lây lất mưu sinh. Ngay ở Trung Quốc, khi giới trung lưu ngày càng nhiều hơn, cũng bắt đầu xuất hiện t́nh trạng nhiều người không muốn làm thợ lắp ráp, khiến giới chủ Trung Quốc phải mở hăng xưởng ở Phi Châu, nơi chi phí nhân công thậm chí thấp hơn Trung Quốc.
Tất cả những ǵ đề cập ở trên cho thấy, chính sách thuế quan không chỉ khó có thể mang lại việc làm trở lại mà c̣n gây thiệt hại cho chính nước Mỹ. Vấn đề cần thiết hơn đối với Mỹ là đầu tư vào những lĩnh vực công nghệ hoặc dịch vụ mà Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối và mang lại sự giàu có như lâu nay. Ngay cả một nước Á Châu nhỏ như Singapore từ lâu cũng ư thức rằng họ sống sung túc bằng dịch vụ chứ không phải sản xuất.