PDA

View Full Version : Bản đồ mới của Trump và vận mệnh NATO



BigBoy
16-03-2025, 17:46
Nguồn: Robert D. Kaplan, “Trump’s New Map (https://foreignpolicy.com/2025/02/25/trump-america-panama-greenland-canada-nato-europe-geography/),” Foreign Policy, 25/02/2025



Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng (nghiencuuquocte.org (https://nghiencuuquocte.org/2025/03/02/ban-do-moi-cua-trump-va-van-menh-nato/))




Vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ hậu đọc hiểu lịch sử chỉ c̣n biết dựa vào địa lư.





http://danviet.com.au/upload/images/1(2204).png

(Ảnh: Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump nh́n vào điện thoại di động của ḿnh khi Marine One đến Ṭa Bạch Ốc ở Washington vào ngày 9 tháng Tám năm 2020. SAMUEL CORUM/GETTY IMAGES)




Trong bài phát biểu mang tính tiên tri tại Brussels vào tháng 06/2011, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ khi đó là Robert M. Gates đă cảnh báo các đồng minh Âu châu của Washington rằng: nếu họ không bắt đầu chi nhiều hơn đáng kể cho an ninh của chính họ, NATO một ngày nào đó có thể sẽ trở thành dĩ văng. Gates lưu ư rằng ông chỉ là “người mới nhất trong một loạt các bộ trưởng quốc pḥng Mỹ đă thúc giục các đồng minh, cả riêng tư lẫn công khai, thường là với sự bực tức, yêu cầu họ đáp ứng các tiêu chuẩn đă thỏa thuận của NATO về chi tiêu quốc pḥng.”

Vào thời điểm đó, chỉ có năm trong số 28 thành viên của NATO – Albania, Anh, Pháp, Hy Lạp, và Mỹ – chi ít nhất 2 phần trăm GDP của họ cho quốc pḥng hàng năm, như họ đă cam kết vào năm 2006. Gates nói rằng, trừ phi t́nh h́nh đó thay đổi đáng kể, nếu không sẽ có “sự suy giảm mong muốn” bảo vệ Âu châu trong “chính giới Mỹ nói chung.”

Âu Châu cuối cùng cũng thay đổi, nhưng có lẽ không đủ nhanh. Ngày nay, đă có hai phần ba số thành viên NATO đạt chuẩn 2 phần trăm. Nhưng xét đến cuộc chiến của Nga ở Ukraine và yêu cầu của Tổng thống Mỹ Donald Trump rằng các đồng minh phải tăng chi tiêu lên 5 phần trăm, Âu châu vẫn c̣n phải đi một chặng đường dài. Trump từ lâu đă chế giễu NATO. Năm ngoái, ông nói rằng ḿnh sẽ khuyến khích người Nga “làm bất cứ điều ǵ họ muốn” với bất kỳ quốc gia NATO nào không chịu trả nhiều tiền hơn cho nền quốc pḥng của ḿnh. Trong khi đó, Phó Tổng thống J.D. Vance nói rằng Mỹ có thể ngừng hỗ trợ cho NATO nếu Liên minh Âu châu cố gắng quản lư các nền tảng kinh doanh của Elon Musk.

Sự bất đồng về phân bổ ngân sách chỉ ra một vấn đề sâu sắc hơn: Quá nhiều người Mỹ, như thể hiện qua lời lẽ dân túy của Trump và Vance, không c̣n quan tâm nhiều đến việc bảo vệ Âu châu nữa.


http://danviet.com.au/upload/images/2(874).png

Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Pete Hegseth và vợ, Jennifer Rauchet, theo dơi một buổi lễ của quân đội tại Warsaw vào ngày 14/02. © Omar Marques/Getty Images



Sự thay đổi trong thái độ của Mỹ đối với Âu châu không có ǵ đáng ngạc nhiên. NATO đă tồn tại gần 80 năm. Đó là một khoảng thời gian dài đối với lịch sử hiện đại, đặc biệt là trong kỷ nguyên của những thay đổi công nghệ nhanh chóng vốn đă ảnh hưởng đến thông tin, kinh tế, du lịch hàng không, mô h́nh di cư, và chính bản sắc.

Khi NATO được thành lập sau Thế chiến II, Mỹ đang thống trị thế giới với hơn một nửa tổng năng lực sản xuất-chế tạo toàn cầu. Con số đó giờ đây đă giảm xuống c̣n khoảng 16 phần trăm. Trong thời kỳ hậu chiến, cũng dễ hiểu khi Mỹ vừa lănh đạo vừa tài trợ cho liên minh mới; xét cho cùng, các thành phố Âu châu vẫn đang bốc khói v́ bom đạn trên không, trong khi Liên Xô của Joseph Stalin dần nổi lên như một mối đe dọa chết người đối với Tây Âu. Tuy nhiên, sau nhiều thập niên, động lực đó đă phát triển. Với an ninh phần lớn được Mỹ chi trả, Âu châu đă xây dựng các quốc gia với hệ thống phúc lợi xă hội đáng ghen tị, nơi người dân được hưởng cuộc sống tốt đẹp. Sau khi Stalin qua đời, Tây phương đạt được sự ḥa hoăn với Liên Xô, và Liên Xô sau đó sụp đổ.

NATO đă sống sót qua những thập niên sau Chiến tranh Lạnh và sự tái sinh của chủ nghĩa đế quốc Nga – một giai đoạn bao gồm sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy và chính trị bản sắc ở Tây phương– phần lớn là do liên minh được lănh đạo bởi những người có kư ức sâu sắc về Thế chiến II và giai đoạn đầu Chiến tranh Lạnh, hoặc lớn lên cùng và ngưỡng mộ những người có kư ức đó. Tuy nhiên, kư ức lịch sử sống động đó đang dần tan biến. Trong quá tŕnh này, người Mỹ đă khám phá lại một khía cạnh cũ hơn, cổ xưa hơn trong bản sắc của chính họ – một khía cạnh đă bị người Âu châu lăng quên từ lâu. Âu Châu luôn biết rằng Mỹ là một lục địa nằm giữa Thái B́nh Dương và Đại Tây Dương, nhưng kiến thức đó chưa bao giờ được nội hóa đủ để ảnh hưởng đến cách hành xử của họ.

Bản sắc Mỹ, chí ít là kể từ đầu thế kỷ 20, đă được định h́nh bởi hai hiện tượng: một là địa lư và hai là chủ nghĩa Wilson. Hiện tượng địa lư có vẻ hiển nhiên, nhưng đối với quá nhiều người – đặc biệt là giới tinh hoa Âu châu – th́ thực ra không phải vậy.

Khu vực ôn đới Bắc Mỹ, mà nước Mỹ chiếm phần lớn, là vùng đất hoàn hảo cho một quốc gia, với các cảng nước sâu dọc theo Bờ Đông và các tuyến đường đi xuyên Dăy Appalachia đến tận vùng đất màu mỡ rộng lớn của thảo nguyên. Sa mạc Mỹ Lớn, hay c̣n được gọi là Đại B́nh nguyên, khô cằn đă trở thành một rào cản tự nhiên thực sự, nhưng một tuyến đường sắt xuyên lục địa đă được xây dựng để đưa dân cư vượt qua Dăy Rocky đến Thái B́nh Dương. Địa lư đă tạo nên một quốc gia gắn kết, tách biệt với thế giới bên ngoài bởi hai đại dương, và có quá nhiều điều đang diễn ra bên trong quốc gia đó – với tất cả những rắc rối và tiềm năng của riêng nó – khiến cho phần c̣n lại của thế giới bị lu mờ.

Tuy nhiên, một khi đă đến được Thái B́nh Dương, không chỉ có một mà là hai bờ biển cần xem xét, chưa kể Bờ Vịnh nằm giữa Florida và Texas. Điều này đă mở ra những tuyến đường biển lớn, có thể liên lạc với cả Âu châu và Á châu, đồng thời tạo điều kiện cho giao thương mạnh mẽ với thế giới bên ngoài.


http://danviet.com.au/upload/images/3(493).png

Một bức chân dung không ghi ngày tháng của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson. © Hulton Archive/Getty Images



Đây là lúc khía cạnh thứ hai của bản sắc Mỹ xuất hiện: Chủ nghĩa Wilson – một cách gọi ngắn gọn của hệ tư tưởng xem việc đạt được tự do vượt xa bờ biển Mỹ là điều cần thiết cho an ninh của chính nước Mỹ. Dù Woodrow Wilson, Tổng thống Mỹ thứ 28, đă không thể đưa đất nước vào một trật tự quốc tế sau Thế chiến I, nhưng ông đă tạo ra một mục tiêu để đất nước phấn đấu – ngay khi tàu hơi nước và máy bay bắt đầu đưa họ đến gần Âu châu hơn. Phải đến khi xảy ra Thế chiến II và những năm sau đó, biến Washington trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, th́ người ta mới có thể hiện thực hóa lư tưởng của Wilson về việc thiết lập một thành tŕ của tự do và dân chủ ở một phần lớn lục địa Âu châu.

Dù tất cả những điều này có vẻ hiển nhiên và đáng khao khát trong những năm thời hậu chiến, nhưng xét về mặt địa lư, nó lại không hoàn toàn tự nhiên. Nó đ̣i hỏi sự hiểu biết về những hy sinh mà người Mỹ đă thực hiện v́ một thế giới tốt đẹp hơn, kết hợp với mối quan hệ lịch sử dựa trên nguồn gốc Âu châu của Washington – một nguồn gốc về triết học hơn là về huyết thống và đất đai. Và sự hiểu biết đó đ̣i hỏi người ta phải đọc sách, điều mà giới tinh hoa cho là lẽ dĩ nhiên, nhưng họ không nên làm thế. Tám mươi năm đă trôi qua, truyền thống này giờ đây chỉ có thể được trân trọng thông qua sách vở và giáo dục, v́ kư ức sống động về việc thành lập liên minh Đại Tây Dương đă biến mất, giống như cách mà Chiến tranh Lạnh đang dần phai nhạt khỏi ư thức của mọi người.

Trump không phải là người kế thừa truyền thống này. Ông không thực sự đọc. Ông là người hậu đọc hiểu lịch sử (post-literate) – tức là ông tồn tại trong thế giới của mạng xă hội và điện thoại thông minh, chứ không đắm ḿnh vào việc nghiên cứu lịch sử, dù chỉ để có những hiểu biết cơ bản.

Do đó, ông cũng không trân trọng câu chuyện hậu chiến của Tây phương. NATO chỉ là một từ viết tắt đối với ông, chứ không phải là biểu tượng của liên minh quân sự lớn nhất trong lịch sử loài người, liên minh được h́nh thành từ cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát-xít Đức. Ông có thể không biết ǵ về Hiến chương Đại Tây Dương – được kư bởi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill ngoài khơi bờ biển Newfoundland, Canada, vào tháng 08/1941 – văn kiện đă vạch ra một tầm nh́n đầy cảm hứng cho một thế giới hậu chiến, hoặc về việc xây dựng một trật tự hậu chiến bởi các nhà ngoại giao và chính khách vĩ đại của Mỹ, như Averell Harriman và George Kennan.

Giới tinh hoa chính sách đối ngoại Mỹ đă trưởng thành nhờ những câu chuyện lịch sử đầy cảm hứng như vậy. Nhưng Trump, và những người ủng hộ ông, có lẽ không quen thuộc với những điều này. Và do sự phát triển của công nghệ, ông có thể không phải là vị tổng thống cuối cùng có những suy nghĩ như vậy.

V́ Trump không quan tâm đến lịch sử, ông chỉ có thể dựa vào địa lư. Ông đă tưởng tượng Mỹ là một lục địa tồn tại độc lập, và ông ghi nhận sự gần gũi tương đối của những nơi như Greenland và Panama, nơi ông đă thề sẽ giành lại. Trong tâm trí của Trump, Greenland và Kênh đào Panama là sự mở rộng hữu cơ của logic địa lư Mỹ, đặc biệt là trong thời đại có khả năng sẽ chứng kiến nhiều hoạt động hải quân hơn ở Bắc Cực.

Một yếu tố khác cần xem xét là công nghệ đă thu hẹp địa lư. Đây là một thay đổi dễ bỏ qua, v́ nó diễn ra rất chậm. Khủng hoảng ở một nơi trên thế giới có thể ảnh hưởng đến khủng hoảng ở những nơi khác theo cách chưa từng có. Những người hiểu sâu biết rộng về lịch sử xem sự phát triển này là lư do khiến Mỹ nên củng cố các liên minh trên toàn thế giới. Nhưng trong thế giới quan nguyên thủy và tất định hơn của Trump, đây là thời điểm để củng cố phạm vi ảnh hưởng ở khu vực trong một thế giới ngột ngạt hơn của những xung đột vĩnh cửu.

Điều mà Trump dường như đang nghĩ đến là một Bắc Mỹ rộng lớn hơn, trải dài từ Kênh đào Panama đến Greenland, với Canada phụ thuộc vào Mỹ. Vận mệnh hiển nhiên trong “câu chuyện thần thoại” của Trump giờ đây đă bắt đầu hoàn thiện: Những ǵ từng có nghĩa là chinh phục vùng đất ôn đới Bắc Mỹ từ đông sang tây giờ đây đ̣i hỏi một cuộc chinh phục từ bắc xuống nam. Nỗ lực đổi tên Vịnh Mexico thành “Vịnh Mỹ” của Trump đă nói lên tất cả.

Về phần ḿnh, Âu châu đang trở nên yếu kém và chia rẽ hơn, bị đe dọa bởi Nga ở phía đông và t́nh trạng bất ổn chính trị do làn sóng di cư từ Trung Đông và Phi châu ở phía nam. Như tôi đă viết trong cuốn sách năm 2018 của ḿnh, The Return of Marco Polo’s World (Sự trở lại của Thế giới Marco Polo), “trong lúc Âu châu dần biến mất, Á-Âu lại gắn kết hơn.” Tôi đă giải thích rằng Âu châu cuối cùng sẽ hợp nhất với hệ thống quyền lực Á-Âu. Cuộc chiến ở Ukraine – vốn đưa Nga vào các liên minh sâu hơn với Trung Quốc, Iran, và Bắc Hàn – đă chứng minh cho lư thuyết này. Trong thế giới nhỏ bé ngày nay, Âu châu không thể tách ḿnh khỏi những biến động ở Phi-Á-Âu, khiến cho họ trở nên kém giá trị hơn trên bản đồ mới của Trump. Và đó là những ǵ xảy ra khi chủ nghĩa Wilson sụp đổ.

Trong nhiều năm, người Âu châu đă lo lắng về việc Mỹ dành quá nhiều sự chú ư đến Trung Quốc và phần c̣n lại của Đông Á. Nhưng vấn đề c̣n sâu xa hơn thế. Trump có lẽ đă xem Trung Quốc như một lục địa và một khối quyền lực riêng biệt, giống như nước Mỹ. Ông có thể phát động một cuộc thương chiến với Trung Quốc, hoặc có thể không. Ông thậm chí có thể cố gắng cải thiện quan hệ với Bắc Kinh. Điểm mấu chốt là, trong quan điểm của Trump về một Trái Đất bị phân chia thành các khu vực, tầm quan trọng của Trung Quốc được thừa nhận, trong khi Âu châu, dù có cả NATO và Liên minh Âu châu, lại chưa đủ thống nhất để có ư nghĩa ǵ nhiều.

Trump cũng ghét giới tinh hoa và các dự án của họ, và NATO chính là dự án tinh hoa tối thượng. Nếu các thành viên của liên minh này chịu lắng nghe lời khiển trách của Gates vào năm 2011 và tăng ngân sách quốc pḥng sớm hơn, Trump có lẽ đă có cái nh́n khác với bây giờ. Ngay cả khi ông không làm vậy, th́ chí ít ông cũng không thể dùng lư do ngân sách quốc pḥng nhỏ bé của Âu châu để công kích các đồng minh NATO, điều đó sẽ làm cho luận điểm của ông ấy yếu đi rất nhiều.

Vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ ở thời kỳ hậu đọc hiểu lịch sử báo hiệu một thách thức mà Âu châu chưa từng phải đối mặt kể từ khi Washington ra tay giải cứu họ vào năm 1941. Chiến tranh Lạnh và những năm sau đó, khi các nước Trung và Đông Âu từng bị ḱm kẹp lần lượt gia nhập NATO, có thể sẽ được nh́n lại như một thời kỳ yên b́nh trong dĩ văng.


Robert D. Kaplan là tác giả của “Waste Land: A World in Permanent Crisis.” Ông hiện là Giám đốc về Địa chính trị tại Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại.


(nghiencuuquocte.org)