PDA

View Full Version : Luật Thuế – Kết quả sau cuộc kiểm thuế



BigBoy
17-02-2025, 17:46
Luật Sư LyLy Nguyễn

https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/02/THUE-kiem-thue-2.jpg (https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/02/THUE-kiem-thue-2.jpg)
Theo thống kê th́ chỉ có khoảng 30% trong tổng số người bị kiểm thuế nhận được kết quả “không đổi.” (H́nh minh họa: FlyFin Inc/Pixabay)

Mỗi khi có kiểm thuế, sau buổi phỏng vấn cuối cùng của viên chức thanh tra IRS, người thọ thuế sẽ nhận được thư của Sở Thuế kèm theo bản báo cáo với kết quả hoặc IRS không t́m ra khiếm khuyết nên không thay đổi tiền thuế hoặc có t́m ra những khoản không được chấp nhận và yêu cầu người thọ thuế phải đóng bù thuế điều chỉnh.





Kết quả cuộc kiểm thuế – Thông thường chỉ có một thiểu số người bị kiểm thuế được Sở Thuế IRS gửi giấy báo không thay đổi có nghĩa là sau khi duyệt xét IRS chấp nhận tờ khai thuế là đúng không sai sót ǵ cả. Theo thống kê th́ chỉ có khoảng 30% trong tổng số người bị kiểm thuế nhận được kết quả “không đổi.” Đôi khi cũng xảy ra một vài trường hợp rất hiếm hoi mà IRS nhận ra phần sai về ḿnh và hoàn lại một phần tiền thuế đă đóng trước đó.


Tuy nhiên phần đông kết quả kiểm thuế theo đó IRS có t́m ra những mục khai không đúng hay các mục miễn trừ không được chấp nhận cho nên người thọ thuế phải nợ thêm IRS. Trong trường hợp này IRS gửi cho người thọ thuế một “thư 30 ngày” kèm theo bản báo cáo kiểm thuế (audit report) trong đó có lời giải thích ngắn lư do tại sao phải đóng thêm và đóng với số tiền thuế điều chỉnh là bao nhiêu; thí dụ như “ông/bà không trưng ra được bằng chứng về khoản miễn trừ chi phí đi lại cho doanh nghiệp trong chuyến đi ngày…” Trong bản báo cáo kiểm thuế cũng nêu rơ tổng số tiền thuế, tiền lăi, và tiền phạt cộng thêm vào. Mỗi khoản thay đổi đều được liệt kê chi tiết cùng với dẫn chứng điều khoản luật thuế nào được áp dụng và lời giải thích tổng quát. Dĩ nhiên phần nhiều những lời giải thích trong bản báo cáo của IRS thường rất mơ hồ cần phải đọc và hiểu cho kỹ.


Sau khi nhận được thư và bản báo cáo của viên chức kiểm thuế IRS, người thọ thuế có hai đường lựa chọn, hoặc đồng ư với IRS trả thêm thuế theo bản báo cáo, hoặc khiếu nại quyết định của IRS. Nếu đồng ư với những thay đổi theo chi tiết trong tờ báo cáo kiểm thuế th́ người ấy chỉ cần kư nhận vào mẫu IRS-870 đính kèm theo thư rồi gửi chung về IRS với chi phiếu ghi số tiền trả trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày IRS viết thư. Kư mẫu này có nghĩa là người thọ thuế chấp nhận phần khiếm khuyết về ḿnh và bằng ḷng trả phẩn thuế sai biệt, tiền lăi lẫn tiền phạt. Ngoài ra khi kư mẫu này người thọ thuế cũng khước từ quyền hạn khiếu nại và không c̣n quyền đưa nội vụ ra ṭa án thuế. Nếu người thọ thuế đồng ư với quyết định của IRS mà không đính kèm chi phiếu th́ IRS ngay sau đó sẽ gửi một phiếu đ̣i tiền (bill), người nhận bắt buộc phải thanh toán trong ṿng 10 ngày. Muốn thanh toán theo cách nào th́ người thọ thuế cũng vẫn phải trả thêm tiền lăi trên số tiền thuế điều chỉnh được tính từ ngày cuối của kỳ khai thuế năm đó cho đến ngày nhận giấy đ̣i tiền. Thí dụ cuộc kiểm thuế chấm dứt ngày 20 Tháng Mười Một của năm thuế 2024 th́ lăi sẽ tính từ 16 Tháng Tư, năm 2024 cho tới Tháng Mười Một, 2024.


Dù rằng người thọ thuế đă kư vào bản báo cáo nhưng cũng chưa được coi là chung kết mà phải đợi có sự chấp thuận cuối cùng của thượng cấp viên chức kiểm thuế hoặc của ban duyệt xét (Audit Review Staff) thuộc IRS. Đôi khi ban này t́m ra sai sót do lỗi viên chức kiểm thuế hoặc t́m ra vấn đề mới cho nên bản báo cáo bị trả về. Nếu xẩy ra như vậy th́ viên chức kiểm thuế phải liên lạc lại với người thọ thuế, điều này có vẻ bất công nhưng người thọ thuế không làm ǵ hơn được khi phải chịu kiểm thuế đến hai lần.


Nếu người thọ thuế không đồng ư với số thuế sai biệt, trong “thư 30 ngày” IRS cũng cho một đường lựa chọn khác là quyền yêu cầu “khiếu nại nội bộ” (internal appeal process). Thủ tục này khởi đầu bằng cách nộp kháng thư trong ṿng 30 ngày xin gặp mặt một “giới chức giải quyết khiếu nại của IRS” (IRS’s appeal officer) có văn pḥng tại hầu hết các thành phố lớn. Nếu số tiền thuế điều chỉnh dưới $25,000 th́ có thể khiếu nại qua điện thoại mà không cần phải viết kháng thư.


Theo luật người thọ thuế không bắt buộc phải trả lời bản báo cáo kiểm thuế. Trường hợp đương sự “lờ” đi không trả lời th́ sau hạn định đó IRS sẽ gửi thư bảo đảm thông báo chính thức rằng IRS coi như đương sự không đồng ư với kết quả kiểm thuế và muốn khiếu nại. Thư này được gọi là “thông báo khiếm khuyết” (notice of deficiency) đôi khi c̣n được gọi là “thư 90 ngày” bởi v́ thư đó báo cho người thọ thuế biết rằng đương sự có 90 ngày để hoặc dàn xếp giải quyết vấn đề với IRS hoặc nộp đơn kiện IRS ra ṭa án thuế. Để được quyền tranh tụng kết quả cuộc kiểm thuế, người thọ thuế phải nộp đơn tới ṭa án thuế trong ṿng 90 ngày, bằng không kết quả kiểm thuế trở thành chung kết. Trong ṿng 60 ngày IRS sẽ gửi “phiếu thông báo thuế đáo hạn” (Notice of Tax Due) và khởi sự thủ tục truy thâu thuế (tax collection).


Khiếu nại kết quả kiểm thuế – Nếu người thọ thuế không đồng ư với bản báo cáo kiểm thuế và muốn tranh luận với IRS th́ trước hết người ấy có quyền đến Sở Thuế địa phương để khiếu nại hoặc trực tiếp nộp đơn kiện tại ṭa án thuế liên bang. Khiếu nại với Sở Thuế địa phương thông thường không mấy rắc rối và nói chung ít tốn kém và ít mất thời giờ hơn là đưa nội vụ ra kiện ở ṭa án thuế.


Nếu người thọ thuế đi kiện IRS và thắng kiện th́ trong vài trường hợp có thể được IRS trả lại một phần hoặc tất cả lệ phí hành chánh và án phí, nhưng chỉ với điều kiện trước đó đă trải qua “thủ tục khiếu nại nội bộ” tại IRS địa phương. Người thọ thuế sẽ bắt đầu thủ tục khiếu nại này bằng cách yêu cầu được gặp thẩm quyền IRS để thảo luận tại sở thuế địa phương. Giới chức thẩm quyền sau đó sẽ dàn xếp cho đương sự một cuộc gặp gỡ với “giới chức giải quyết khiếu nại” như đă đề cập ở trên.


Trong đơn khiếu nại người thọ thuế cần phải xác định rơ không đồng ư về điểm nào hay phần nào trong bản báo cáo kiểm thuế. Ngoài ra đương sự phải nêu rơ đă dùng điều luật thuế nào để bênh vực cho lư lẽ của ḿnh cùng với mọi yếu tố có lợi nào khác nhưng phải liên hệ đến đề mục tranh luận trong vụ kiện. Cũng như bất cứ cuộc tiếp xúc hay thương thảo nào với Sở Thuế IRS, người thọ thuế có quyền cử đại diện hoặc đi cùng luật sư trong buổi gặp mặt với giới chức IRS cũng như có quyền mang theo nhân chứng để ủng hộ hay minh chứng các sự kiện nêu ra.


Cuộc hội họp này là cơ hội bán chính thức cuối cùng để giải quyết vụ khiếu nại trước khi đem nội vụ ra ṭa. Không có một bảo đảm nào rằng sự việc ǵ sẽ xảy ra, nhưng có một điều thường thấy trong thời điểm này là giới chức IRS hay có khuynh hướng nhượng bộ để tránh ra ṭa án.


Nếu người thọ thuế nghĩ rằng quyết định của Sở Thuế bất công, không chính đáng và vô lư th́ người ấy có quyền kiện IRS tại trong ba loại ṭa án thuế. Đó là Ṭa Án Thuế Liên Bang (U.S. Tax Court), Ṭa Án Quận Hạt Liên Bang (U.S. District Court), và Ṭa Khiếu Nại Liên Bang (U.S. Claim Court). Các ṭa án thuế này hoạt động hoàn toàn độc lập với Sở Thuế IRS. Quyết định nên nộp đơn kiện tại ṭa án thuế nào tùy thuộc vào một số những yếu tố pháp lư cũng như yếu tố cá nhân. Mỗi loại ṭa án xử theo tiền lệ do những án lệ trước đó các ṭa đă xử. Do đó cơ may thắng kiện của người thọ thuế có thể “hên” ở ṭa này nhưng “xui” ở ṭa kia. Phần nhiều các vụ án thuế cho dù ṭa nào xử trước tiên nhưng cuối cùng cũng chỉ có thể kết thúc tại ṭa án cao nhất là Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (the United States Supreme Court). Riêng chỉ có một biệt lệ không được quyền kháng án tại Tối Cao Pháp Viện là những vụ đă xử theo “thủ tục thuế nhỏ” (small tax case procedure).


Người thọ thuế cũng có thể ra ṭa mà không cần phải qua thủ tục khiếu nại của IRS, nhưng thường thường các vị chánh án ṭa án thuế không chịu xử vụ án trừ phi vụ khiếu nại này đă được IRS địa phương tỏ ư muốn ḥa giải. Nếu người thọ thuế đưa nội vụ ra thẳng ṭa án thuế mà trước đó không chịu qua thủ tục ḥa giải với IRS th́ trong trường hợp thua kiện th́ có thể bị chánh án ṭa án thuế phạt lên tới mức $5,000 v́ ṭa án cho rằng đương sự có dụng ư dùng vụ kiện để tŕ hoăn không chịu thanh toán ngay số tiền thuế đang nợ IRS, hoặc nghĩ rằng vụ kiện có tính cách bịa đặt vu vơ. Tại tất cả ba loại ṭa án thuế kể trên, người thọ thuế phải chịu trách nhiệm chứng minh rằng IRS có sai trái. Nói một cách khác, ṭa án thuế trước hết bao giờ cũng đặt giả thuyết là IRS đă diễn giải đúng luật thuế khi áp dụng các điều luật này vào vụ kiện. Người thọ thuế sẽ không bao giờ thắng được vụ kiện trừ phi có thể đem lư lẽ ra thuyết phục cho ṭa tin ngược lại.


Kỳ tới chúng tôi sẽ tŕnh bày hệ thống tổ chức các loại ṭa án thuế tại Hoa Kỳ và phân tích các trường hợp nào thích hợp với mỗi loại ṭa thuế.


Cũng như thường lệ người viết xin xác nhận nội dung của những loạt bài t́m hiểu luật pháp này chỉ có mục đích sử dụng với tính cách thông tin (information) giúp quí độc giả một vài kiến thức tổng quát về luật pháp Hoa Kỳ mà thôi và không thể coi như liên hệ của luật sư với thân chủ (attorney-client relationship). Do đó nếu có vấn đề liên quan đến luật, quí độc giả vẫn cần thảo luận với một luật sư chuyên môn về trường hợp của quí vị.