PDA

View Full Version : Đôi Mắt Mùa Xuân



Quada09
15-10-2024, 22:55
Đôi Mắt Mùa Xuân


Tác Giả : Phạm Tín An Ninh


https://bacaytruc.com/images/people/Pham_Tin_An_Ninh/i_mt_ma_cun.png (https://bacaytruc.com/images/people/Pham_Tin_An_Ninh/i_mt_ma_cun.png)

Hình ảnh được chụp bởi cố vấn Mỹ tại Yếu Khu Phan Rí Cửa . Đường ra Bãi biển Gió Trùng Dương, Nghĩa Quân Phan Rí Cửa .


Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đă giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính ḿnh, thời tôi c̣n lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi c̣n mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một ṿng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan c̣n lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc th́ có cái ǵ để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay v́ gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những ṿng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ c̣n hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin t́nh báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dăy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhăo nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên vơng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời c̣n thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng ǵ của một người sắc tộc, tôi ṭ ṃ rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, t́m đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào pḥng. Trông anh c̣n rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu ḿnh là hiệu trưởng, và căn pḥng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong pḥng đang có một đám học tṛ, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy tṛ cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy tṛ anh một bài, nêu lư do đám học tṛ hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em”, bài ruột của tôi khi ấy, v́ cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất t́nh này cho tụi em nghe để thấy đời c̣n lên hương một chút.”



https://bacaytruc.com/images/Beauties/beaute_montagnarde.png (https://bacaytruc.com/images/Beauties/beaute_montagnarde.png)


Vẻ đẹp sơn nữ (h́nh minh họa)





Trong những ánh mắt của các cô cậu học tṛ chăm chú nh́n lên, tôi bỗng lưu ư tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được h́nh ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở măi cùng tôi trong kư ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vă. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học tṛ phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đăi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy kư gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dă chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm th́ tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa t́m được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh t́nh nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng t́m cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra c̣n được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đă tṛn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học tṛ, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng c̣n nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác tŕnh độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh c̣n phải dạy thêm lớp Nh́ và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học tṛ xúm xít bên anh, giúp anh dọn pḥng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy tṛ anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi c̣n học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn ḿnh trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không c̣n nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện ǵ. Anh kéo tôi vào trong pḥng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học tṛ có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề pḥng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đă pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng. Tôi đă may mắn, kịp thay đổi pḥng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu v́ sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đă mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật ḿnh khi thấy đạn pháo đă cày nát vị trí đóng quân của ḿnh. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự t́nh. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đăi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học tṛ người Thượng. Hôm sau, chính tôi đă mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát ḥ với thầy tṛ suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hăm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vă chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đă tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học tṛ ra ngă ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không c̣n nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của ḿnh.

Tiểu Khu cho biết đă có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ tŕnh, nhưng khi đoàn xe đến một ngă ba th́ bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật ḿn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật ḿn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ t́nh h́nh. Khi đang đứng liên lạc t́m chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay v́ đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học tṛ người Thượng đă từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đă ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh ḷng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào v́ được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra ḿnh chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ c̣n biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết c̣n mỏng hơn sợi tóc, th́ đâu dám mơ ǵ đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học tṛ người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh ḷng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nước hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng măi trong ḷng. Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng măi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy ḍng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy tṛ đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đă nhỏ những giọt nước mắt ân t́nh xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đă ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về tŕnh diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, v́ cái chân c̣n yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đă được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ B́nh-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai th́ ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước th́ nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học tṛ thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đă là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn pḥng ngày xưa giờ đă được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh c̣n cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học tṛ cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đă chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nh́n tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy ḷng man mác!
Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng h́nh ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ kư ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ c̣n gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng c̣n tha thiết tới điều ǵ.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có c̣n chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong ḷng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đă vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (T́nh Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đă từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đă từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đă ghi lại h́nh ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu t́nh vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máy Aluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật ḿnh. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm năo làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học tṛ người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đă từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đă nhỏ những giọt nước mắt ân t́nh xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rơ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đă không c̣n hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đă hoa râm và gầy g̣ hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đă chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ th́ hai người đă gặp lại nhau ở chốn b́nh an vĩnh cữu.

Từ nay, tôi sẽ măi măi không bao giờ c̣n nh́n thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi kư ức và trái tim tôi. Đôi mắt đă để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.




Phạm Tín An Ninh