BigBoy
31-08-2024, 04:04
http://danviet.com.au/upload/images/Picture3(3).png
(Ảnh: nghiencuuquocte.org)
Nguồn: Ian Seow Cheng Wei, “What Is Driving Thailand and China’s ‘Falcon Strike’ Air Force Exercises? (https://thediplomat.com/2024/08/what-is-driving-thailand-and-chinas-falcon-strike-air-force-exercises/)”, The Diplomat, 20/08/2024
Biên dịch: Viên Đăng Huy | Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương (nghiencuuquocte.org)
Thần thoại Trung Quốc và Thái Lan đều có những sinh vật bay huyền thoại: rồng và quái thú nửa người nửa đại bàng Garuda. Khi Trung Quốc và Thái Lan thực hiện cuộc tập trận không quân chung đầu tiên vào năm 2015, họ đă đặt tên cho nó là “Falcon Strike”, một sự gợi nhớ đến thần thoại phong phú của cả hai quốc gia.
Vào tháng tám, Bộ Quốc pḥng Trung Quốc (MND) đă công bố cuộc tập trận “Falcon Strike 2024” sắp tới, dự kiến diễn ra tại Căn cứ Không quân Udorn Thani, một cơ sở quân sự cũ của Mỹ gần Vịnh Thái Lan. Cuộc tập trận, bắt đầu vào ngày 19 tháng 8, sẽ chứng kiến hai lực lượng không quân tham gia các cuộc tập trận mô phỏng “hỗ trợ xuyên biên giới, triển khai lực lượng, pḥng thủ không quân chung, [và] tấn công chung.”
Các nhà phân tích thường chỉ trích các cuộc tập trận quân sự chung của Trung Quốc chủ yếu mang tính phô diễn, được kịch bản hóa nặng nề và thiếu huấn luyện thực tế. Tuy nhiên, các lần lặp lại trước đây của cuộc tập trận Falcon Strike đă bao gồm huấn luyện chiến đấu trên không giữa Không quân Hoàng gia Thái Lan (RTAF) và Không quân Giải phóng Quân Trung Quốc (PLAAF), bao gồm cả việc triển khai máy bay chiến đấu tiên tiến của cả hai nước. Với việc không có tranh chấp lănh thổ hoặc nhận thức về mối đe dọa chung, điều ǵ thúc đẩy các cuộc tập trận chiến đấu trên không này?
Đối với Trung Quốc, các cuộc tập trận này không chỉ nâng cao năng lực của PLAAF mà c̣n gửi tín hiệu đến Mỹ rằng việc kiềm chế quân sự đối với Trung Quốc là không khả thi do quan hệ quốc pḥng chặt chẽ của Bắc Kinh với các đồng minh của Mỹ. Mặt khác, sự tham gia của Thái Lan có mục đích đánh lạc hướng những lời chỉ trích tiềm năng của Mỹ về chính quyền của Thái Lan đồng thời đạt được nhượng bộ từ Washington.
Đánh lạc hướng chỉ trích của Mỹ
Thái Lan và Trung Quốc đă tiến hành cuộc tập trận quân sự chung đầu tiên, mang mật danh “Strike”, vào năm 2005. Cuộc tập trận này bao gồm 60 đơn vị đặc nhiệm từ Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (PLA) và Quân đội Hoàng gia Thái Lan (RTA). Vào thời điểm đó, Thủ tướng Thaksin Shinawatra sử dụng các cuộc tập trận như vậy để củng cố quan hệ song phương với Trung Quốc, quốc gia ngày càng trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Thái Lan. Sau cuộc tập trận Strike thành công, Thái Lan và Trung Quốc đă kư bản Kế hoạch chung về Hợp tác Chiến lược vào năm 2007, nêu rơ 15 lĩnh vực hợp tác, bao gồm hợp tác quân sự và an ninh.
Cả hai nước đều đồng ư rằng mục tiêu của các cuộc tập trận quân sự chung này là giải quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền thống chung, chẳng hạn như khủng bố xuyên quốc gia, buôn lậu ma túy, buôn người và thiên tai. Mặc dù có thỏa thuận này, Thái Lan vẫn do dự tham gia các cuộc tập trận chung sâu hơn với Trung Quốc, viện dẫn rào cản ngôn ngữ và học thuyết quân sự khác nhau. Do đó, quy mô của các cuộc tập trận chung vẫn c̣n tương đối nhỏ so với các cuộc tập trận Cobra Gold của Thái Lan với Mỹ. Ví dụ, cuộc tập trận Strike 2007 chỉ có 30 binh sĩ đặc nhiệm từ cả PLA và RTA, trong khi cuộc tập trận Cobra Gold 2007 có gần 4.000 binh sĩ.
Các cuộc tập trận quân sự chung giữa Thái Lan và Trung Quốc đă tăng lên sau khi quan hệ giữa Thái Lan và Mỹ xấu đi sau cuộc đảo chính năm 2014. Đáp lại, Mỹ đă thu hẹp quy mô cuộc tập trận không quân Cope Tiger hàng năm, cũng bao gồm Singapore, đồng thời chỉ trích chính phủ Thái Lan về những thiếu sót về dân chủ. Trong bối cảnh này, Thái Lan đă chuyển sang các đối tác huấn luyện thay thế, dẫn đến cuộc tập trận chiến đấu trên không Falcon Strike đầu tiên vào năm 2015. Thông qua cuộc tập trận bổ sung với Trung Quốc, Thái Lan đang báo hiệu cho Mỹ rằng họ có các lựa chọn khác cho hợp tác quân sự.
Có thể thấy những động thái tương tự trong các nhánh huấn luyện chung khác giữa Thái Lan và Trung Quốc. Ví dụ, từ năm 2007 đến năm 2014, cuộc tập trận Blue Strike giữa Trung Quốc với Thái Lan bao gồm từ 60 đến 200 binh sĩ cùng với sự tham gia hạn chế của các khí tài hải quân và máy bay. Sau cuộc đảo chính năm 2014, các cuộc tập trận Blue Strike song phương đă mở rộng lên gần 500 binh sĩ, bao gồm cả khí tài hải quân và trực thăng tấn công.
Tuy nhiên, khi Mỹ ngày càng yêu cầu các đối tác và đồng minh của ḿnh chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, Mỹ đă khôi phục quy mô ban đầu của cuộc tập trận không quân Cope Tiger với Thái Lan và cung cấp khoản vay cho Thái Lan để mua một đội máy bay chiến đấu F-16.
Động cơ của Trung Quốc trong các cuộc tập trận chiến đấu trên không với Thái Lan
Trước năm 2005, các cuộc tập trận quân sự chung của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào Trung Á, do lo ngại về khủng bố xuyên quốc gia sau vụ tấn công 11/9. Vào năm 2005, Trung Quốc đă mở rộng trọng tâm của ḿnh để có thêm Thái Lan, đánh dấu cuộc tập trận quân sự chung đầu tiên với quốc gia này như một phần của ngoại giao ngoại vi. Chiến lược này nhằm giải quyết các mối quan tâm khu vực về sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc quân sự và kinh tế bằng cách nhấn mạnh hợp tác về các thách thức an ninh phi truyền thống chung. Ví dụ, cuộc tập trận Blue Strike 2023 bao gồm nhiệm vụ t́m kiếm và cứu hộ trên biển.
Mặc dù hầu hết các cuộc tập trận quân sự chung của Trung Quốc với Thái Lan đều tập trung vào chống khủng bố, các cuộc tập trận Falcon Strike đă dần dần chuyển sang huấn luyện chiến tranh không quân thông thường giữa RTAF và PLAAF. Sự chuyển dịch này có thể được quy cho hai yếu tố chính.
Thứ nhất, kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận B́nh đă khởi động một chương tŕnh hiện đại hóa quân sự “hàng đầu thế giới” đầy tham vọng nhằm đảm bảo PLA có thể “chiến đấu và giành chiến thắng trong chiến tranh” vào năm 2050. Một yếu tố quan trọng của chương tŕnh này là nâng cao năng lực chiến đấu của PLAAF, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng quân sự đang diễn ra với Mỹ ở Biển Đông.
Theo Sách trắng Quốc pḥng năm 2015 của Trung Quốc, “PLAAF sẽ tăng cường năng lực cảnh báo sớm chiến lược, tấn công trên không, pḥng thủ không quân và tên lửa, đối phó thông tin, hoạt động trên không, triển khai chiến lược và hỗ trợ toàn diện.” Các cuộc tập trận chiến đấu trên không chung với Thái Lan đặc biệt có giá trị đối với mục tiêu này, v́ không quân Thái Lan tuân thủ học thuyết quân sự của Mỹ, cung cấp cho PLAAF cơ hội thực hành và trau dồi năng lực của ḿnh.
Ví dụ, trong cuộc tập trận Falcon Strike 2015, không quân Thái Lan đă vượt trội đáng kể so với các đối thủ Trung Quốc trong một cuộc tập trận mô phỏng chiến đấu trên không, khiến các phi công Trung Quốc phải sửa đổi chiến thuật và quy tŕnh của họ. Hơn nữa, trong phiên bản 2024 của cuộc tập trận Falcon Strike, Trung Quốc đă triển khai một loạt máy bay chiến đấu tiên tiến như J-10C, máy bay vận tải Y-20 và máy bay chiến đấu-ném bom JH-7A để cạnh tranh với các phi công Thái Lan.
Thứ hai, các cuộc tập trận Falcon Strike cũng đóng vai tṛ như một tín hiệu gửi đến Mỹ và các đồng minh khu vực rằng việc kiềm chế quân sự đối với Trung Quốc có thể sẽ không thành công. Thái Lan, một đồng minh quan trọng của Mỹ trong khu vực, thể hiện sự do dự trong việc đứng về một bên trong cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung thông qua việc tham gia các cuộc tập trận này.
Trung Quốc có truyền thống sử dụng các cuộc tập trận quân sự chung với các quốc gia khác như các công cụ truyền tín hiệu cấp cao để khẳng định quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lănh thổ và để ngăn chặn các đối thủ khu vực. Ví dụ, vào năm 2016, Trung Quốc và Nga đă tiến hành một cuộc tập trận hải quân chung ở Biển Đông sau khi Ṭa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) ra phán quyết có lợi cho Philippines.
Phiên bản 2024 của cuộc tập trận Falcon Strike diễn ra trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc về Biển Đông. Vào tháng 4 năm 2024, Mỹ, Nhật Bản, Úc và Philippines đă tiến hành các cuộc tập trận hải quân chung trong khu vực để chống lại hành động của Trung Quốc. Ngoài ra, vào tháng 5 năm 2024, Mỹ và Philippines đă tổ chức cuộc tập trận song phương Balikatan lớn nhất từ trước đến nay, với sự tham gia của gần 16.000 binh sĩ.
Trong bối cảnh những diễn biến này, cuộc tập trận Falcon Strike cho phép Trung Quốc chứng minh rằng biện pháp ngăn chặn quân sự do Mỹ dẫn đầu có thể không thành công do mối quan hệ quân sự chặt chẽ của Bắc Kinh với Thái Lan, một đồng minh quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á.
Garuda gặp Rồng
Không thể tránh khỏi việc các cuộc tập trận Falcon Strike của Trung Quốc với Thái Lan có những hạn chế, v́ chúng c̣n mới và quy mô nhỏ hơn so với các cuộc tập trận Cope Tiger của Mỹ. Cuộc tập trận Cope Tiger, được tiến hành hàng năm kể từ năm 1994, ước tính có nhiều máy bay hơn cuộc tập trận Falcon Strike giữa Trung Quốc và Thái Lan. Ngoài ra, Mỹ đă cấm RTAF sử dụng máy bay chiến đấu F-16 trong huấn luyện chung với PLAAF, viện dẫn mối quan ngại về ṛ rỉ bí mật quân sự.
Tuy nhiên, cam kết của Trung Quốc trong việc triển khai máy bay chiến đấu ngày càng tiên tiến trong các cuộc tập trận Falcon Strike cho thấy quy mô và phạm vi của các cuộc tập trận này có thể sẽ mở rộng trong những năm tới. Điều này cũng báo hiệu một sự chuyển dịch dần dần sang huấn luyện thực tế hơn, hướng đến chiến đấu để xây dựng năng lực chiến đấu của PLAAF ở Đông Nam Á.
Về phía Thái Lan, những diễn biến chính trị gần đây, chẳng hạn như việc Thủ tướng Srettha Thavisin được thay thế bởi Paetongtarn Shinawatra, có thể thu hút sự chỉ trích từ Mỹ, đặc biệt là trong bối cảnh kết quả bầu cử năm 2023. Mặc dù đảng Pheu Thai của Paetongtarn về nh́, việc bà đảm nhận chức thủ tướng diễn ra sau một quá tŕnh chính trị phức tạp trong đó Srettha ban đầu được chọn làm ứng cử viên thỏa hiệp. Trong bối cảnh này, sự tham gia của Thái Lan vào các cuộc tập trận quân sự chung với Trung Quốc có thể được coi là một nỗ lực chiến lược để củng cố quan hệ với Trung Quốc đồng thời có thể giảm bớt mối quan ngại từ Mỹ.
Ian Seow Cheng Wei là sinh viên Thạc sĩ Triết học tại Khoa Chính trị và Quan hệ Quốc tế của Đại học Oxford. Ông quan tâm đến các chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc, các cuộc tập trận quân sự chung cũng như Quan hệ quốc tế của ASEAN.
(Ảnh: nghiencuuquocte.org)
Nguồn: Ian Seow Cheng Wei, “What Is Driving Thailand and China’s ‘Falcon Strike’ Air Force Exercises? (https://thediplomat.com/2024/08/what-is-driving-thailand-and-chinas-falcon-strike-air-force-exercises/)”, The Diplomat, 20/08/2024
Biên dịch: Viên Đăng Huy | Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương (nghiencuuquocte.org)
Thần thoại Trung Quốc và Thái Lan đều có những sinh vật bay huyền thoại: rồng và quái thú nửa người nửa đại bàng Garuda. Khi Trung Quốc và Thái Lan thực hiện cuộc tập trận không quân chung đầu tiên vào năm 2015, họ đă đặt tên cho nó là “Falcon Strike”, một sự gợi nhớ đến thần thoại phong phú của cả hai quốc gia.
Vào tháng tám, Bộ Quốc pḥng Trung Quốc (MND) đă công bố cuộc tập trận “Falcon Strike 2024” sắp tới, dự kiến diễn ra tại Căn cứ Không quân Udorn Thani, một cơ sở quân sự cũ của Mỹ gần Vịnh Thái Lan. Cuộc tập trận, bắt đầu vào ngày 19 tháng 8, sẽ chứng kiến hai lực lượng không quân tham gia các cuộc tập trận mô phỏng “hỗ trợ xuyên biên giới, triển khai lực lượng, pḥng thủ không quân chung, [và] tấn công chung.”
Các nhà phân tích thường chỉ trích các cuộc tập trận quân sự chung của Trung Quốc chủ yếu mang tính phô diễn, được kịch bản hóa nặng nề và thiếu huấn luyện thực tế. Tuy nhiên, các lần lặp lại trước đây của cuộc tập trận Falcon Strike đă bao gồm huấn luyện chiến đấu trên không giữa Không quân Hoàng gia Thái Lan (RTAF) và Không quân Giải phóng Quân Trung Quốc (PLAAF), bao gồm cả việc triển khai máy bay chiến đấu tiên tiến của cả hai nước. Với việc không có tranh chấp lănh thổ hoặc nhận thức về mối đe dọa chung, điều ǵ thúc đẩy các cuộc tập trận chiến đấu trên không này?
Đối với Trung Quốc, các cuộc tập trận này không chỉ nâng cao năng lực của PLAAF mà c̣n gửi tín hiệu đến Mỹ rằng việc kiềm chế quân sự đối với Trung Quốc là không khả thi do quan hệ quốc pḥng chặt chẽ của Bắc Kinh với các đồng minh của Mỹ. Mặt khác, sự tham gia của Thái Lan có mục đích đánh lạc hướng những lời chỉ trích tiềm năng của Mỹ về chính quyền của Thái Lan đồng thời đạt được nhượng bộ từ Washington.
Đánh lạc hướng chỉ trích của Mỹ
Thái Lan và Trung Quốc đă tiến hành cuộc tập trận quân sự chung đầu tiên, mang mật danh “Strike”, vào năm 2005. Cuộc tập trận này bao gồm 60 đơn vị đặc nhiệm từ Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (PLA) và Quân đội Hoàng gia Thái Lan (RTA). Vào thời điểm đó, Thủ tướng Thaksin Shinawatra sử dụng các cuộc tập trận như vậy để củng cố quan hệ song phương với Trung Quốc, quốc gia ngày càng trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Thái Lan. Sau cuộc tập trận Strike thành công, Thái Lan và Trung Quốc đă kư bản Kế hoạch chung về Hợp tác Chiến lược vào năm 2007, nêu rơ 15 lĩnh vực hợp tác, bao gồm hợp tác quân sự và an ninh.
Cả hai nước đều đồng ư rằng mục tiêu của các cuộc tập trận quân sự chung này là giải quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền thống chung, chẳng hạn như khủng bố xuyên quốc gia, buôn lậu ma túy, buôn người và thiên tai. Mặc dù có thỏa thuận này, Thái Lan vẫn do dự tham gia các cuộc tập trận chung sâu hơn với Trung Quốc, viện dẫn rào cản ngôn ngữ và học thuyết quân sự khác nhau. Do đó, quy mô của các cuộc tập trận chung vẫn c̣n tương đối nhỏ so với các cuộc tập trận Cobra Gold của Thái Lan với Mỹ. Ví dụ, cuộc tập trận Strike 2007 chỉ có 30 binh sĩ đặc nhiệm từ cả PLA và RTA, trong khi cuộc tập trận Cobra Gold 2007 có gần 4.000 binh sĩ.
Các cuộc tập trận quân sự chung giữa Thái Lan và Trung Quốc đă tăng lên sau khi quan hệ giữa Thái Lan và Mỹ xấu đi sau cuộc đảo chính năm 2014. Đáp lại, Mỹ đă thu hẹp quy mô cuộc tập trận không quân Cope Tiger hàng năm, cũng bao gồm Singapore, đồng thời chỉ trích chính phủ Thái Lan về những thiếu sót về dân chủ. Trong bối cảnh này, Thái Lan đă chuyển sang các đối tác huấn luyện thay thế, dẫn đến cuộc tập trận chiến đấu trên không Falcon Strike đầu tiên vào năm 2015. Thông qua cuộc tập trận bổ sung với Trung Quốc, Thái Lan đang báo hiệu cho Mỹ rằng họ có các lựa chọn khác cho hợp tác quân sự.
Có thể thấy những động thái tương tự trong các nhánh huấn luyện chung khác giữa Thái Lan và Trung Quốc. Ví dụ, từ năm 2007 đến năm 2014, cuộc tập trận Blue Strike giữa Trung Quốc với Thái Lan bao gồm từ 60 đến 200 binh sĩ cùng với sự tham gia hạn chế của các khí tài hải quân và máy bay. Sau cuộc đảo chính năm 2014, các cuộc tập trận Blue Strike song phương đă mở rộng lên gần 500 binh sĩ, bao gồm cả khí tài hải quân và trực thăng tấn công.
Tuy nhiên, khi Mỹ ngày càng yêu cầu các đối tác và đồng minh của ḿnh chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, Mỹ đă khôi phục quy mô ban đầu của cuộc tập trận không quân Cope Tiger với Thái Lan và cung cấp khoản vay cho Thái Lan để mua một đội máy bay chiến đấu F-16.
Động cơ của Trung Quốc trong các cuộc tập trận chiến đấu trên không với Thái Lan
Trước năm 2005, các cuộc tập trận quân sự chung của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào Trung Á, do lo ngại về khủng bố xuyên quốc gia sau vụ tấn công 11/9. Vào năm 2005, Trung Quốc đă mở rộng trọng tâm của ḿnh để có thêm Thái Lan, đánh dấu cuộc tập trận quân sự chung đầu tiên với quốc gia này như một phần của ngoại giao ngoại vi. Chiến lược này nhằm giải quyết các mối quan tâm khu vực về sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc quân sự và kinh tế bằng cách nhấn mạnh hợp tác về các thách thức an ninh phi truyền thống chung. Ví dụ, cuộc tập trận Blue Strike 2023 bao gồm nhiệm vụ t́m kiếm và cứu hộ trên biển.
Mặc dù hầu hết các cuộc tập trận quân sự chung của Trung Quốc với Thái Lan đều tập trung vào chống khủng bố, các cuộc tập trận Falcon Strike đă dần dần chuyển sang huấn luyện chiến tranh không quân thông thường giữa RTAF và PLAAF. Sự chuyển dịch này có thể được quy cho hai yếu tố chính.
Thứ nhất, kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận B́nh đă khởi động một chương tŕnh hiện đại hóa quân sự “hàng đầu thế giới” đầy tham vọng nhằm đảm bảo PLA có thể “chiến đấu và giành chiến thắng trong chiến tranh” vào năm 2050. Một yếu tố quan trọng của chương tŕnh này là nâng cao năng lực chiến đấu của PLAAF, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng quân sự đang diễn ra với Mỹ ở Biển Đông.
Theo Sách trắng Quốc pḥng năm 2015 của Trung Quốc, “PLAAF sẽ tăng cường năng lực cảnh báo sớm chiến lược, tấn công trên không, pḥng thủ không quân và tên lửa, đối phó thông tin, hoạt động trên không, triển khai chiến lược và hỗ trợ toàn diện.” Các cuộc tập trận chiến đấu trên không chung với Thái Lan đặc biệt có giá trị đối với mục tiêu này, v́ không quân Thái Lan tuân thủ học thuyết quân sự của Mỹ, cung cấp cho PLAAF cơ hội thực hành và trau dồi năng lực của ḿnh.
Ví dụ, trong cuộc tập trận Falcon Strike 2015, không quân Thái Lan đă vượt trội đáng kể so với các đối thủ Trung Quốc trong một cuộc tập trận mô phỏng chiến đấu trên không, khiến các phi công Trung Quốc phải sửa đổi chiến thuật và quy tŕnh của họ. Hơn nữa, trong phiên bản 2024 của cuộc tập trận Falcon Strike, Trung Quốc đă triển khai một loạt máy bay chiến đấu tiên tiến như J-10C, máy bay vận tải Y-20 và máy bay chiến đấu-ném bom JH-7A để cạnh tranh với các phi công Thái Lan.
Thứ hai, các cuộc tập trận Falcon Strike cũng đóng vai tṛ như một tín hiệu gửi đến Mỹ và các đồng minh khu vực rằng việc kiềm chế quân sự đối với Trung Quốc có thể sẽ không thành công. Thái Lan, một đồng minh quan trọng của Mỹ trong khu vực, thể hiện sự do dự trong việc đứng về một bên trong cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung thông qua việc tham gia các cuộc tập trận này.
Trung Quốc có truyền thống sử dụng các cuộc tập trận quân sự chung với các quốc gia khác như các công cụ truyền tín hiệu cấp cao để khẳng định quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lănh thổ và để ngăn chặn các đối thủ khu vực. Ví dụ, vào năm 2016, Trung Quốc và Nga đă tiến hành một cuộc tập trận hải quân chung ở Biển Đông sau khi Ṭa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) ra phán quyết có lợi cho Philippines.
Phiên bản 2024 của cuộc tập trận Falcon Strike diễn ra trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc về Biển Đông. Vào tháng 4 năm 2024, Mỹ, Nhật Bản, Úc và Philippines đă tiến hành các cuộc tập trận hải quân chung trong khu vực để chống lại hành động của Trung Quốc. Ngoài ra, vào tháng 5 năm 2024, Mỹ và Philippines đă tổ chức cuộc tập trận song phương Balikatan lớn nhất từ trước đến nay, với sự tham gia của gần 16.000 binh sĩ.
Trong bối cảnh những diễn biến này, cuộc tập trận Falcon Strike cho phép Trung Quốc chứng minh rằng biện pháp ngăn chặn quân sự do Mỹ dẫn đầu có thể không thành công do mối quan hệ quân sự chặt chẽ của Bắc Kinh với Thái Lan, một đồng minh quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á.
Garuda gặp Rồng
Không thể tránh khỏi việc các cuộc tập trận Falcon Strike của Trung Quốc với Thái Lan có những hạn chế, v́ chúng c̣n mới và quy mô nhỏ hơn so với các cuộc tập trận Cope Tiger của Mỹ. Cuộc tập trận Cope Tiger, được tiến hành hàng năm kể từ năm 1994, ước tính có nhiều máy bay hơn cuộc tập trận Falcon Strike giữa Trung Quốc và Thái Lan. Ngoài ra, Mỹ đă cấm RTAF sử dụng máy bay chiến đấu F-16 trong huấn luyện chung với PLAAF, viện dẫn mối quan ngại về ṛ rỉ bí mật quân sự.
Tuy nhiên, cam kết của Trung Quốc trong việc triển khai máy bay chiến đấu ngày càng tiên tiến trong các cuộc tập trận Falcon Strike cho thấy quy mô và phạm vi của các cuộc tập trận này có thể sẽ mở rộng trong những năm tới. Điều này cũng báo hiệu một sự chuyển dịch dần dần sang huấn luyện thực tế hơn, hướng đến chiến đấu để xây dựng năng lực chiến đấu của PLAAF ở Đông Nam Á.
Về phía Thái Lan, những diễn biến chính trị gần đây, chẳng hạn như việc Thủ tướng Srettha Thavisin được thay thế bởi Paetongtarn Shinawatra, có thể thu hút sự chỉ trích từ Mỹ, đặc biệt là trong bối cảnh kết quả bầu cử năm 2023. Mặc dù đảng Pheu Thai của Paetongtarn về nh́, việc bà đảm nhận chức thủ tướng diễn ra sau một quá tŕnh chính trị phức tạp trong đó Srettha ban đầu được chọn làm ứng cử viên thỏa hiệp. Trong bối cảnh này, sự tham gia của Thái Lan vào các cuộc tập trận quân sự chung với Trung Quốc có thể được coi là một nỗ lực chiến lược để củng cố quan hệ với Trung Quốc đồng thời có thể giảm bớt mối quan ngại từ Mỹ.
Ian Seow Cheng Wei là sinh viên Thạc sĩ Triết học tại Khoa Chính trị và Quan hệ Quốc tế của Đại học Oxford. Ông quan tâm đến các chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc, các cuộc tập trận quân sự chung cũng như Quan hệ quốc tế của ASEAN.