BigBoy
24-08-2024, 03:06
Thụy Vũ (https://saigonnhonews.com/tacgia/thuy-vu/)
Nếu thường xuyên sử dụng mạng xă hội và chỉ cần để ư một chút, có lẽ bạn sẽ nhận ra tiếng Việt của chúng ta đă và đang bị “biến dạng” một cách đáng ngại.
Những dạng biến thể, “cách tân” của tiếng Việt được các cư dân mạng nâng lên thành “ngôn ngữ mạng” để tṛ chuyện, nhắn tin, b́nh luận, livestream trên các ứng dụng như Zalo, Facebook, Instagram, Twitter, Whatsapp, Viber, Snap Chat… Có thể nhận diện vài nguyên nhân chính khiến tiếng Việt bị “biến dạng” như sau:
Tạo các xu hướng ngôn ngữ bằng tiếng Việt
Đó là những từ ngữ mang tính nhất thời, thường xuất hiện sau một sự kiện hay phát ngôn của một nhân vật nổi tiếng nào đó có sức ảnh hưởng đáng kể đến cộng đồng (các KOL, hot Facebooker, influencers, TikToker…) Dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn “ăn theo” các sự kiện hay nhân vật đó nhưng các “trend” này cũng đủ để lôi kéo một đám đông không nhỏ hưởng ứng theo, đặc biệt là giới trẻ, đối tượng dễ bị tác động và dẫn dắt nhất bởi những hiện tượng đang diễn ra trong xă hội.
Có thể điểm qua một số từ như “trẻ trâu,” “u là trời,” “xịn ṣ,” “chanh sả,” “ố dề”…
Thói quen ‘chêm’ ngoại ngữ vô tiếng Việt
Nhiều nhất là tiếng Anh được các cư dân mạng “mượn” để chen vô các câu tiếng Việt của ḿnh. Để khoe tŕnh độ ngoại ngữ, khả năng hội nhập hay thể hiện đẳng cấp ǵ đó không rơ nhưng khi sử dụng ngôn ngữ theo kiểu nửa nạc nửa mỡ như thế này chỉ cho thấy tâm lư sính ngoại, sự thiếu chuyên nghiệp, thậm chí là thiếu khả năng sử dụng tiếng Việt thuần, chuẩn của người nói hay viết.
Cố t́nh tạo ra phiên bản lỗi của tiếng Việt thuần, gốc
Điều này đôi khi xảy ra với chính những người giỏi tiếng Việt hơn ai hết như giới phóng viên, nhà báo, giáo viên, những người có vị trí nhất định trong xă hội… nhằm mục đích hài hước cho vui, tạo sự thân thiện, gần gũi, gây ấn tượng… Họ cố t́nh viết sai chính tả, chế, nhại, bẻ từ gốc ra thành từ mới như “vui vẻ” thành “dzui dzẻ,” “mệt,” thành “mệch,” “chắc… chết” thành “chắc… chớt,” “cực chất” thành “cực trất,” “yêu” thành “iu”…
Người viết sử dụng tiếng Việt sai cách
Đó là cách dùng từ trùng lắp, dư nghĩa mà nhiều người thoạt tưởng là sành sơi tiếng Việt lắm khi vẫn bị sai. Có thể thấy qua các ví dụ như “an yên” (“an” và “yên” là hai từ đồng nghĩa), “ngành nghề” (“ngành” và “nghề” là hai từ đồng nghĩa), “nhé ạ” (“nhé” với “ạ” là hai từ cảm thán đồng nghĩa), “đi du lịch” (“du lịch” đă mang nghĩa là đi chơi, sao c̣n kết hợp với “đi”?), “cặp đôi” (cả hai từ đều chỉ số “2” sao lại đứng cùng nhau?)
Những từ mới vô nghĩa
Nhiều năm sau này, tiếng Việt liên tục xuất hiện những từ mới thoạt nghe qua rất vang nhưng lại chẳng mang ư nghĩa cụ thể nào. Có thể thấy những từ như “chênh chao,” “hoang hoải,” “chông chênh,” “chao chát,” “riết róng,” “đắng đót,”…
Teen code, chữ viết tắt
Mới đọc qua, nhiều người không biết cứ tưởng đó là những mật mă hay kư hiệu ǵ đó như kiểu dùng mă telex trong việc trao đổi thông tin của bưu điện vậy. Các cư dân mạng ngày nay (đa phần là giới trẻ) “sáng tạo” ra nhiều cách viết mới gọi là teen code không tuân theo một quy tắc ngôn ngữ, văn hóa nào khiến cho những “kẻ ngoại đạo” nếu không t́m hiểu về teen code sẽ không thể hiểu được người ta đang nói ǵ với nhau trên cơi mạng.
Có thể điểm qua các từ tiêu biểu như vk (thay cho “vợ”), ck (thay cho “chồng”), hok (thay cho “không”), cmnr (thay cho “chết mẹ nó rồi”), bựk (thay cho “bực”), qtqđ (thay cho “quá trời quá đất”), tứk (thay cho “tức”)…
Dùng tiếng lóng, văng tục
Nhiều từ lóng được các cư dân mạng dùng để chửi bậy, mạt sát nhau là những từ tả hành động hoặc từ tượng h́nh được viết tắt từ tên của các bộ phận trên cơ thể. Nhiều từ được giới trẻ “khai sinh” như “vcl,” “vcc,” “vcđ,” “đú trend,” “bú fame,”… đủ khiến ai đó đỏ mặt v́ ngượng khi phát ngôn hoặc ṭ ṃ t́m hiểu ư nghĩa là ǵ.
Đáng ngại hơn khi các “dị thể” của tiếng Việt không chỉ phổ biến trên thế giới mạng mà c̣n “xâm thực” vào đời sống qua việc người ta sử dụng để đặt tên hàng quán nơi phần đông khách hàng là giới trẻ, đặt tên món ăn dành cho tuổi teen, quảng cáo, đưa vào âm nhạc (đặc biệt là nhạc rap)… khiến những ai không vững tiếng Việt dễ lầm tưởng đây là ngôn ngữ Việt chính thống.
Không phủ nhận hiệu ứng “vui là chính” cũng như khả năng sáng tạo không giới hạn của các nhà “ngôn ngữ… mạng” nhưng việc bóp méo tiếng Việt, dù vô t́nh hay cố ư, khi đă tạo thành thói quen cho người sử dụng đều để lại những hậu quả khó lường với hậu thế, nhất là với những người c̣n trẻ vốn chưa đủ kiến thức lẫn kinh nghiệm để phân biệt đâu là tiếng Việt thuần, tiếng Việt gốc với thứ tiếng Việt bị lai căng, biến thể.
Việc làm dụng ngôn ngữ mạng theo hướng tiêu cực có khi khiến giới trẻ ngộ nhận rằng ḿnh là người sành điệu, bắt kịp các xu hướng (trend) của xă hội. Chưa kể việc sử dụng các thể loại ngôn ngữ mạng như nói trên dễ gây tác dụng ngược khi bị xem là thiếu tôn trọng người đọc, người nghe trong một số t́nh huống nghiêm túc hay với người lớn tuổi, người có vai vế cao hơn.
Một đối tượng khác cũng bị ảnh hưởng gián tiếp là các bạn trẻ sinh ra và lớn lên ở hải ngoại nhưng muốn duy tŕ việc sử dụng, ǵn giữ ngôn ngữ mẹ đẻ của ḿnh. Khi phải dùng tiếng Việt ở một nơi khác không phải quê hương của ḿnh, có thể nói các em đă chịu thiệt tḥi. Nếu phải tiếp xúc với thứ ngôn ngữ bị biến tấu lệch lạc trên mạng, các em dễ ngộ nhận dẫn tới hiểu sai và sử dụng sai theo.
Chính v́ giới trẻ là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất nên rất khó để họ có thể vô tư sử dụng ngôn ngữ mạng mà vẫn bảo đảm dùng đúng chính tả tiếng Việt trong những t́nh huống cần nói/viết nghiêm túc.
Nếu những người lớn trong gia đ́nh như ông bà, cha mẹ của các em ở cả Việt Nam lẫn hải ngoại không chú ư điều chỉnh, uốn nắn, hậu quả sẽ là các em lớn lên với vốn tiếng Việt xấu xí, “dị dạng.”
Để làm gương cho con, em ḿnh, đă tham gia mạng xă hội, kể cả người lớn không nên lạm dụng ngôn ngữ mạng, bảo tồn sự trong sáng, thuần khiết của tiếng Việt, cũng như cần trang bị đủ kiến thức để nhắc nhở lớp trẻ nhận diện nhiều thứ đẹp – xấu, đúng – sai, phải – trái trên không gian mạng, chứ không chỉ riêng tiếng Việt!
Nếu thường xuyên sử dụng mạng xă hội và chỉ cần để ư một chút, có lẽ bạn sẽ nhận ra tiếng Việt của chúng ta đă và đang bị “biến dạng” một cách đáng ngại.
Những dạng biến thể, “cách tân” của tiếng Việt được các cư dân mạng nâng lên thành “ngôn ngữ mạng” để tṛ chuyện, nhắn tin, b́nh luận, livestream trên các ứng dụng như Zalo, Facebook, Instagram, Twitter, Whatsapp, Viber, Snap Chat… Có thể nhận diện vài nguyên nhân chính khiến tiếng Việt bị “biến dạng” như sau:
Tạo các xu hướng ngôn ngữ bằng tiếng Việt
Đó là những từ ngữ mang tính nhất thời, thường xuất hiện sau một sự kiện hay phát ngôn của một nhân vật nổi tiếng nào đó có sức ảnh hưởng đáng kể đến cộng đồng (các KOL, hot Facebooker, influencers, TikToker…) Dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn “ăn theo” các sự kiện hay nhân vật đó nhưng các “trend” này cũng đủ để lôi kéo một đám đông không nhỏ hưởng ứng theo, đặc biệt là giới trẻ, đối tượng dễ bị tác động và dẫn dắt nhất bởi những hiện tượng đang diễn ra trong xă hội.
Có thể điểm qua một số từ như “trẻ trâu,” “u là trời,” “xịn ṣ,” “chanh sả,” “ố dề”…
Thói quen ‘chêm’ ngoại ngữ vô tiếng Việt
Nhiều nhất là tiếng Anh được các cư dân mạng “mượn” để chen vô các câu tiếng Việt của ḿnh. Để khoe tŕnh độ ngoại ngữ, khả năng hội nhập hay thể hiện đẳng cấp ǵ đó không rơ nhưng khi sử dụng ngôn ngữ theo kiểu nửa nạc nửa mỡ như thế này chỉ cho thấy tâm lư sính ngoại, sự thiếu chuyên nghiệp, thậm chí là thiếu khả năng sử dụng tiếng Việt thuần, chuẩn của người nói hay viết.
Cố t́nh tạo ra phiên bản lỗi của tiếng Việt thuần, gốc
Điều này đôi khi xảy ra với chính những người giỏi tiếng Việt hơn ai hết như giới phóng viên, nhà báo, giáo viên, những người có vị trí nhất định trong xă hội… nhằm mục đích hài hước cho vui, tạo sự thân thiện, gần gũi, gây ấn tượng… Họ cố t́nh viết sai chính tả, chế, nhại, bẻ từ gốc ra thành từ mới như “vui vẻ” thành “dzui dzẻ,” “mệt,” thành “mệch,” “chắc… chết” thành “chắc… chớt,” “cực chất” thành “cực trất,” “yêu” thành “iu”…
Người viết sử dụng tiếng Việt sai cách
Đó là cách dùng từ trùng lắp, dư nghĩa mà nhiều người thoạt tưởng là sành sơi tiếng Việt lắm khi vẫn bị sai. Có thể thấy qua các ví dụ như “an yên” (“an” và “yên” là hai từ đồng nghĩa), “ngành nghề” (“ngành” và “nghề” là hai từ đồng nghĩa), “nhé ạ” (“nhé” với “ạ” là hai từ cảm thán đồng nghĩa), “đi du lịch” (“du lịch” đă mang nghĩa là đi chơi, sao c̣n kết hợp với “đi”?), “cặp đôi” (cả hai từ đều chỉ số “2” sao lại đứng cùng nhau?)
Những từ mới vô nghĩa
Nhiều năm sau này, tiếng Việt liên tục xuất hiện những từ mới thoạt nghe qua rất vang nhưng lại chẳng mang ư nghĩa cụ thể nào. Có thể thấy những từ như “chênh chao,” “hoang hoải,” “chông chênh,” “chao chát,” “riết róng,” “đắng đót,”…
Teen code, chữ viết tắt
Mới đọc qua, nhiều người không biết cứ tưởng đó là những mật mă hay kư hiệu ǵ đó như kiểu dùng mă telex trong việc trao đổi thông tin của bưu điện vậy. Các cư dân mạng ngày nay (đa phần là giới trẻ) “sáng tạo” ra nhiều cách viết mới gọi là teen code không tuân theo một quy tắc ngôn ngữ, văn hóa nào khiến cho những “kẻ ngoại đạo” nếu không t́m hiểu về teen code sẽ không thể hiểu được người ta đang nói ǵ với nhau trên cơi mạng.
Có thể điểm qua các từ tiêu biểu như vk (thay cho “vợ”), ck (thay cho “chồng”), hok (thay cho “không”), cmnr (thay cho “chết mẹ nó rồi”), bựk (thay cho “bực”), qtqđ (thay cho “quá trời quá đất”), tứk (thay cho “tức”)…
Dùng tiếng lóng, văng tục
Nhiều từ lóng được các cư dân mạng dùng để chửi bậy, mạt sát nhau là những từ tả hành động hoặc từ tượng h́nh được viết tắt từ tên của các bộ phận trên cơ thể. Nhiều từ được giới trẻ “khai sinh” như “vcl,” “vcc,” “vcđ,” “đú trend,” “bú fame,”… đủ khiến ai đó đỏ mặt v́ ngượng khi phát ngôn hoặc ṭ ṃ t́m hiểu ư nghĩa là ǵ.
Đáng ngại hơn khi các “dị thể” của tiếng Việt không chỉ phổ biến trên thế giới mạng mà c̣n “xâm thực” vào đời sống qua việc người ta sử dụng để đặt tên hàng quán nơi phần đông khách hàng là giới trẻ, đặt tên món ăn dành cho tuổi teen, quảng cáo, đưa vào âm nhạc (đặc biệt là nhạc rap)… khiến những ai không vững tiếng Việt dễ lầm tưởng đây là ngôn ngữ Việt chính thống.
Không phủ nhận hiệu ứng “vui là chính” cũng như khả năng sáng tạo không giới hạn của các nhà “ngôn ngữ… mạng” nhưng việc bóp méo tiếng Việt, dù vô t́nh hay cố ư, khi đă tạo thành thói quen cho người sử dụng đều để lại những hậu quả khó lường với hậu thế, nhất là với những người c̣n trẻ vốn chưa đủ kiến thức lẫn kinh nghiệm để phân biệt đâu là tiếng Việt thuần, tiếng Việt gốc với thứ tiếng Việt bị lai căng, biến thể.
Việc làm dụng ngôn ngữ mạng theo hướng tiêu cực có khi khiến giới trẻ ngộ nhận rằng ḿnh là người sành điệu, bắt kịp các xu hướng (trend) của xă hội. Chưa kể việc sử dụng các thể loại ngôn ngữ mạng như nói trên dễ gây tác dụng ngược khi bị xem là thiếu tôn trọng người đọc, người nghe trong một số t́nh huống nghiêm túc hay với người lớn tuổi, người có vai vế cao hơn.
Một đối tượng khác cũng bị ảnh hưởng gián tiếp là các bạn trẻ sinh ra và lớn lên ở hải ngoại nhưng muốn duy tŕ việc sử dụng, ǵn giữ ngôn ngữ mẹ đẻ của ḿnh. Khi phải dùng tiếng Việt ở một nơi khác không phải quê hương của ḿnh, có thể nói các em đă chịu thiệt tḥi. Nếu phải tiếp xúc với thứ ngôn ngữ bị biến tấu lệch lạc trên mạng, các em dễ ngộ nhận dẫn tới hiểu sai và sử dụng sai theo.
Chính v́ giới trẻ là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất nên rất khó để họ có thể vô tư sử dụng ngôn ngữ mạng mà vẫn bảo đảm dùng đúng chính tả tiếng Việt trong những t́nh huống cần nói/viết nghiêm túc.
Nếu những người lớn trong gia đ́nh như ông bà, cha mẹ của các em ở cả Việt Nam lẫn hải ngoại không chú ư điều chỉnh, uốn nắn, hậu quả sẽ là các em lớn lên với vốn tiếng Việt xấu xí, “dị dạng.”
Để làm gương cho con, em ḿnh, đă tham gia mạng xă hội, kể cả người lớn không nên lạm dụng ngôn ngữ mạng, bảo tồn sự trong sáng, thuần khiết của tiếng Việt, cũng như cần trang bị đủ kiến thức để nhắc nhở lớp trẻ nhận diện nhiều thứ đẹp – xấu, đúng – sai, phải – trái trên không gian mạng, chứ không chỉ riêng tiếng Việt!