PDA

View Full Version : Hỏi đáp Y học: Bệnh tiểu đường



tcl
06-06-2016, 22:59
Thính giả tên Tim, ở Massachusetts, hỏi:

“Kính thưa Bác sỹ Hồ văn Hiền.

Tôi tên là Tim, 51 tuổi, hiện cư ngụ ở tiểu bang Massachusetts.

Tôi bị bệnh tiểu đường loại 2, bị cao huyết áp và cholesterol, tôi vẫn uống thuốc và tập thể thao thường xuyên.

Câu hỏi của tôi là về chỉ số đo trong máu của những lần tôi đi thử máu.

Về chỉ số đo (Trig) của tôi luôn cao hơn mức cho phép có lần lên đến 415 và thường là 300 cho đến 310. Con số cho phép là 0-149 phải không thưa Bác sỹ? Và những lần cao nhưng vậy tôi không có một cảm giác hoặc một phản ứng ǵ trong cơ thể. Những lần như vậy tôi phải cố gắng giảm cân th́ chỉ số đi xuống.

Kính thưa Bác sỹ vậy chỉ số đo đó có đáng tin cậy hay không?

Lên đến con số nào th́ phải thận trọng?

Ai là người ra chỉ số đo đó?

Về phần Bác sỹ gia đ́nh, ông ấy không muốn tôi uống thuốc cholesterol. Chỉ uống hai loại: Metformin và Lisinopril. C̣n ngoài ra nên để ư về vấn đề ăn uống.

Tôi bị những chứng bệnh trên cũng 5 năm rồi, nếu chỉ số (Trig) của tôi cao như vậy trong một thời gian th́ sẽ có những triệu chứng như thế nào và tôi có nên yêu cầu Bác sỹ gia đ́nh cho tôi dùng thuốc cao cholesterol hay không?

Xin cảm ơn Bác sĩ."



Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:



Thính giả đặt câu hỏi ở Mỹ và đang được chữa trị đầy đủ. Tôi chỉ xin nêu ra một số nhận xét hoàn toàn có tính cách thông tin tổng quát, tuyệt đối không có tính cách hướng dẫn tự định bệnh hay chữa bệnh cho cá nhân.


1. Triglyceride (TG) là một loại mỡ trong máu. Vai tṛ của nó là cung cấp năng lượng cho các tế bào. Mỗi gram mỡ chứa đến 9 Calorie, so với 4 Cal cho mỗi gram glucose (đường). Triglycerides là kết quả của kết hợp glycerol với các acid béo, làm thành phân tử ester. Các acid béo loại no (saturated fatty acid) thường nguồn gốc động vật (mỡ heo, mỡ ḅ) và ở dạng rắn (solid) lúc nhiệt độ b́nh thường. Các acid béo thuộc loại không no (unsaturated fatty acids), thường nguồn gốc thực vật (như dầu olive, soybean, canola oil, avocado) và ở dạng lỏng trong nhiệt độ bỉnh thường. Hiện nay chúng ta được khuyên nên chọn các loại mỡ không no hơn là các loại mỡ no. Các chất mỡ càng không-no càng dễ bị oxy hoá, làm hư và chua, hôi.

Các mỡ triglycerides trong thứ ăn phải được các men tuỳ tạng (pancreatic enzymes) tiêu hoá thành những phân tử nhỏ hơn (monoacylglycerol + acid béo tự do) th́ mới hấp thụ qua màng ruột non (lipolysis). Tế bào màng ruột non phải tổng hợp lại triglycerides và gởi chúng vào các mạch lâm ba (lymphatic channels) trước khi nhập vào các tĩnh mạch lớn gần tim. Gan có thể tổng hợp và dự trữ các triglycerides. Các tế bào cần chẻ triglyceride một lần nữa ra glycerol và acid béo trước khi dùng chúng để cung cấp năng lượng. Tóm lại triglycerides trong máu là h́nh thức trung chuyển của các loại mỡ trong thời gian chúng được hấp thụ ở ruột cho đến khi chúng được tế bào dùng cho mục đích năng lượng.



2. Do đó tự nó, sự hiện diện của triglycerides không gây ra triệu chứng trực tiếp nào trước mắt mà bệnh nhân hay bác sĩ quan sát có thể thấy được. Chúng ta phải đo huyết tương lấy từ mẫu máu đă ly tâm của bệnh nhân trong pḥng thí nghiệm mới biết được mức triglycerides cao hay là thấp. Bệnh nhân thường có mức triglycerides giữa 0-149 mg/100 ml máu. Thường bệnh nhân phải nhịn ăn trước đó chừng 12 giờ để tránh chất mỡ vừa mới được hấp thụ sau một bữa ăn, có thể làm mức đo được lên quá cao mà không phản ảnh t́nh trạng quân b́nh. Trường hợp thính giả cố gắng sụt cân, có lẽ bằng cách bớt ăn lại, hay kiêng ăn mỡ, cơ thể sẽ giảm lượng mỡ cung cấp từ ngoài vào và dùng 'đốt' những dự trữ sẳn có, cho nên triglycerides trong máu sẽ giảm đi. Đấy cũng là biện pháp đầu tiên mà người ta khuyên bệnhnhân có TG quá cao: bớt ăn lại và vận động nhiều hơn.



3. Các khảo cứu cho thấy TG càng cao th́ cơ nguy xơ vữa động mạch (atherosclerosis) càng nhiều, do đó cơ nguy bệnhnhồi máu cơ tim (đau tim), hay tai biến động mạch năo (stroke) càng cao. Có thể một phần do mức TG ảnh hưởng ngược chiều đến mức cholesterol tốt (“good’ cholesterol, HDL cholesterol). HDL cholesterol có tác dụng che chỡ cho các động mạch.

Mức triglycerides đáng tin cậy nhiều ít là tuỳ thuộc vào phẩm chất của pḥng thí nghiệm và mẫu máu lấy để thử nghiệm, ví dụ bệnhnhân có nhịn đói trước đó hay không, chuyên chở tới pḥng thí nghiệm có đúng điều kiện nhiệt độ, thời gian. Suy luận mức đó ư nghĩa như thế nào là nhiệm vụ của bác sĩ tuỳ theo hoàn cảnh bệnhlư của bệnhnhân, ví dụ bệnhcholesterol cao, bệnhgan, bệnhtiêu hoá, bệnhtim mạch, vv



4. Hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome) gồm có:

a. Bụng quá lớn do mập, "bụng phệ" (abdominal obesity,"a large waistline", having an apple shape="h́nh dạng như trái táo, ph́nh ra ở giữa , thay v́ ph́nh ra ở mông và đùi với h́nh dạng trái lê)
b. Mỡ triglycerides trong máu quá cao (hoặc đang cần phải uống thuốc để hạ xuống)
c. Cholesterol "tốt" quá thấp (HDL=High Density Lipoprotein; "good cholesterol"))
d. Áp huyết cao (hay đang dùng thuốc hạ áp huyết)
e. Đường trong máu quá cao lúc chưa ăn sáng (fasting blood glucose)



5. Nói chung, biện pháp chính cho TG hơi cao là thay đổi nếp sống:

- Chế độ ăn uống, giảm chất mỡ, đường, đồ ăn ngọt, gạo "nâu" (brown rice) thay v́ gạo trắng (dễ làm tăng đường máu hơn), giảm hay ngưng rượu, bia; giảm cholesterol, tránh các mỡ "no" (saturated fats) như mỡ heo, ḅ, chọn các dầu thực vật như dầu olive.
- Giảm cân nếu quá nặng, mập.
- Vận động cơ thể, thể thao, thể dục, đi bộ, tránh ngồi một chỗ (vd xem tivi, ipad)
- Tránh thuốc có estrogen (hormone nữ, ví dụ trong thuốc ngừa thai, thuốc trị các triệu chứng thời tắt kinh, bế kinh của phụ nữ) trong một số trường hợp
- Acid béo 3 omega ('dầu cá') (Omega-3 fatty acids, “fish oil’); liều cao (4gram/ngày) cần bác sĩ biên toa, với sự theo dơi của bác sĩ. Acid béo loại omega 3 là loại mỡ tốt cho tim mạch, giúp giảm triglycerides trong máu (có thể giảm từ 20-50%), giảm nguy cơ đau tim (heart disease và tai biến mạch máu năo (stroke). Nên phân biệt: ở đây chúng ta nói về viên dầu cá chứa omega-3 fatty acids chứ không phải dầu gan cá thu (cod liver oil; chứa rất nhiều vitamin A và dùng không đúng có thể ngộ độc vitamin A).
- Chữa các bệnh liên hệ như tiểu đường (diabetes), tuyến giáp suy (hypothyroidism), vv

Chữa trị mức TG cao hơn tuỳ theo trường hợp, theo cách chữa bệnhcủa bác sĩ.

Lư do: thuốc có thể gây phản ứng phụ không tốt (adverse effects), ngoài ra chưa chứng minh liên hệ trực tiếp giữa triglyceride như là một yếu tố độc lập có thể gây ra xơ động mạch (triglyceride level is an independent risk factor for atherosclerosis). Một số bác sĩ không dùng thuốc để trị các trường hợp này nếu TG thấp hơn 500mg/dl.

Theo NCEP (National Cholesterol Education Program; Chương tŕnh Quốc gia Giáo dục và Trị liệu về Cholesterol):

a) Mức TG b́nh thường: <150mg/dl

b)TG ranh giới (borderline) 150-199 mg/dl:

==>>>Giảm calories trong ăn uống; gia tăng vận động, thể dục, thể thao.

c)TG Cao (high) 200-499 mg/dl

d)TG Rất cao (very high) >500 mg/dl

Đối với triglycerides trên 200mg/dl, theo NCEP, bác sĩ cần đo mức non-HDL cholesterol (tổng số cholesterol trừ cholesterol "tốt" là HDL= LDL+triglycerides) và dùng chế độ ăn uống kèm với thuốc (vd statin) để làm giảm chỉ số này xuống mức [LDL chỉ tiêu +30 mg/dl] . Mức LDL chỉ tiêu (goal level) này từ <100 mg/dl đến 160 mg/dl tuỳ theo bệnh nhân có cơ nguy tim mạch nhiều hay ít.

Theo Hội Nội Tiết Hoa Kỳ:

Chữa trị bắt đầu bằng thay đổi nếp sống (lifestyle therapy), có thể cộng thêm thuốc, mục đích giảm thiểu cơ nguy tim mạch, mục tiêu là làm cholesterol 'xấu' giảm xuống mức theo NCEP hướng dẫn (mức LDL này từ dưới 100mg/dl đến 160 mg/dl tuỳ theo bệnhnhân có cơ nguy tim mạch nhiều hay ít).

a) Mức TG b́nh thường: <150mg/dl

b) TG Cao nhẹ 150-199 mg/dl

c)TG Vừa 200-999 mg/dl

e) TG Nặng 1000-1999 mg/dl

f) TG Rất nặng >= 2000 mg/dl

Mức trên 1000 mg, có cơ nguy viêm tuỳ tạng (pancreatitis)..

Bác sĩ nên dùng thuốc fibrate (vd fenofibrate hay Tricor) chữa ngay từ đầu (first line treatment)



Chúc bệnhnhân may mắn




BS Hồ Văn Hiền (voatiengviet)