PDA

View Full Version : Saigon – Đường Catinat đầu thế kỷ 20 – Phần 1, 2 và 3



BigBoy
04-11-2023, 02:04
(Nguyễn Đức Hiệp)






Bài biên khảo này có mục đích tŕnh bày cảnh quan, kiến trúc, sinh hoạt thương mại trên con đường Catinat trong bối cảnh đời sống chính trị, văn hóa của thành phố Saigon vào đầu thế kỷ 20. Phân tích các nét văn hóa, kinh tế đặc thù của một con đường trong một địa phương cho ta một cái nh́n vi mô, liên quan đến các cá thể địa phương, ít nhiều không được biết đến trong bối cảnh tổng quan của một nước. Tuy vậy, mặc dầu chỉ là một “tiểu tự sự” (petit recit) nhưng nó sẽ cho ta thấy sự đậm chất của môi trường văn hóa qua đấy con người hay quá tŕnh lịch sử ít nhiều bị ảnh hưởng.



Đường Đồng Khởi thời Pháp thuộc được gọi là rue Catinat (1), tức đường Tự Do trong thời Việt Nam Cộng Ḥa và sau 1975 là đường Đồng Khởi. Con đường này là con đường xưa nhất và nổi tiếng nhất Saigon. Đây là một trong những con đường được thiết lập đầu tiên khi Pháp qui hoạch lại thành phố sau khi chiếm được và phá thành Saigon. C̣n được gọi là “Rue no. 16” lúc ban đầu cho đến khi là con đường được tráng nhựa đầu tiên, đường Catinat nhanh chóng trở thành trung tâm sinh hoạt thương mại của thành phố.



Sau các công tŕnh xây dựng các cơ sở hạ tầng (đường xá, xe lửa), các kiến trúc công sở, cơ quan hành chánh và thương mại được thống đốc dân sự Le Myre de Vilers (1879-1883) năng động khởi công hay thúc đẩy hoàn thành th́ thành phố Saigon cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 sau hơn 35 năm bị Pháp chiếm đă trở thành một thành phố có cảnh quan qui hoạch và kiến trúc với nét chính ở trung tâm giống như một thành phố Âu châu.


Đầu thập niên 1910, xe hơi bắt đầu phổ biến ở thành phố Saigon và dịch vụ du lịch về các cảnh quan địa điểm, đời sống, sinh hoạt xă hội ở Saigon và Nam Kỳ được biết đến và giới thiệu qua các ảnh “cartes postales” từ những người Âu viếng hay ở Saigon gởi cho bạn bè, thân nhân ở các nước. Kỹ thuật nhiếp ảnh cũng tiến triển nhanh, và bắt đầu phổ biến rộng răi và từ đó nhiều người đă sống được với nghề nhiếp ảnh hay trở thành nhiếp ảnh gia. Các du khách từ Âu châu và Viễn đông đă có cảm nhận chung Saigon là “Perle de l’Orient” đối với người Pháp hay “Paris of the East” đối với các du khách từ các nước hay thuộc địa nói tiếng Anh trong vùng Viễn Đông.



Trong số các nhà nhiếp ảnh sống với nghề mới này ở Saigon có rất nhiều người Việt. Họ có cửa tiệm ở nhiều nơi trong thành phố, nhưng hiện nay hầu như tất cả các h́nh ảnh của họ không t́m lại được hay đă bị mất. Chỉ có một số các h́nh ảnh của các nhà nhiếp ảnh Pháp sống ở Saigon ở đầu thế kỷ 20 là c̣n để lại hay t́m lại được mà đa số là các ảnh “cartes postales” đă được các các cơ sở hay nhà kinh doanh in lại để bán cho các du khách hay người dân ở Saigon có nhu cầu gởi cho bạn bè hay người thân ở nước ngoài.



Đầu thế kỷ 20 cũng là thời điểm mà người Việt bắt đầu thay đổi qua sự đối diện chạm trán với một nền văn hóa mới xa lạ và một tư duy phát triển xă hội, kinh tế và chính trị hoàn toàn khác trong một môi trường họ sinh sống đă hơn 35 năm từ khi người Pháp hiện diện ở Nam kỳ. Phong trào Minh Tân, do Trần Chánh Chiếu phát động, cổ vũ canh tân đất nước con người qua sự phát triển kinh tế, công nghệ. Qua báo “Nông Cổ Mín Đàm” (và sau này “Lục Tỉnh Tân Văn”), các nhà canh tân khuyến khích người nước Nam tham gia (“biển cải Nam nhân”) mở các cơ sở thương mại, sản xuất để cạnh tranh ở khắp Saigon và Lục tỉnh với người Pháp, Hoa và Ấn. Người Pháp, Hoa và Ấn lúc đó đang hầu như thống lĩnh hoàn toàn các hoạt động kinh tế ở Nam Kỳ.



Trung tâm Saigon trên đường Catinat và các đường chung quanh từ năm 1904 đă bắt đầu xuất hiện các cửa hàng thương mại kinh doanh của người Việt như cửa hàng nhiếp ảnh của Jean-Pierre Trọng, nhà in của Nguyễn Văn Toán (Đinh Thái Sơn hay Phát Toán), nhà in Lê Phát Tân, cửa hàng bán xe đạp, làm bánh ḿ của nhà nhiếp ảnh Lê Văn Ba … Trong số các cửa hàng này có một số tham gia trong phong trào Minh Tân như cơ sở thương mại của Nguyễn An Khương, Trần Chánh Chiếu. Cho đến thập niên 1920 ngay cả sau khi phong trào Minh Tân tan ră (Trần Chánh Chiếu bị bắt và quản thúc năm 1908) th́ rất nhiều cơ sở thương mại và dịch vụ của người Việt đă xuất hiện gia nhập tân trào ở khắp nơi (2).



Bài này tŕnh bày sinh hoạt xă hội, kinh tế ở đường Catinat (Đồng Khởi) Saigon đầu thế kỷ 20 qua các h́nh ảnh, hồi kư của các du khách và các tư liệu địa lư kinh tế đă được ghi lại khá đầy đủ và chi tiết trong Niên giám Đông Dương trong thập niên 1910 và 1920. Qua đó ta sẽ thấy sự thay đổi cảnh quan, kiến trúc, thiết kế đô thị từ đầu thế kỷ 20 đến ngày nay một phần lớn là nhờ những h́nh ảnh mà các nhà nhiếp ảnh ở Saigon đă chụp trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đă để lại. Sở dĩ đường Catinat được chọn là tiêu biểu của đề tài này v́ số lượng các h́nh ảnh chụp từ đầu thế kỷ 20 về đường Catinat là c̣n lại nhiều nhất so với các đường khác ở Saigon. Rất nhiều ảnh chụp trước kia đă được các nhà kinh doanh in ra làm “cartes postales” và v́ thế chúng không bị mất hay thất lạc nhiều (3).



Đặc biệt Niên giám Đông Dương trong Thư viện quốc gia Pháp (Bibliothèque Nationale de France, BNF) từ năm 1905 đến 1912 đă có ghi đầy đủ tên và địa chỉ của các cơ sở kinh doanh, chủ hay người ở tại mỗi nhà trên các con đường ở Saigon. Sau đó từ năm 1914 trở đi th́ Niên giám chỉ c̣n ghi lại, theo thứ tự chữ cái, các cơ sở kinh doanh, kỹ nghệ hay các doanh nhân mà thôi, không cho ta biết đầy đủ và chi tiết như các niên giám trước. Các tư liệu này đă được số hóa (digitized) trên mạng BNF và v́ thế giúp cho người nghiên cứu tra khảo được dễ dàng các dữ liệu mà họ cần, qua sự t́m kiếm các từ chính (keywords).



Ngoài những bức ảnh có ghi thời gian chụp, làm sao chúng ta có thể ước đoán được thời điểm các bức ảnh được chụp và vị trí của các ṭa nhà hay cảnh quan trong h́nh để đặt chúng vào đúng chỗ trên con đường?. Để trả lời câu hỏi này, ta có thể dùng một số chi tiết biết được như sau.




Nếu biết được tác giả bức ảnh hay nằm trong bộ sưu tập của họ hay các nhà kinh doanh “cartes postales” và theo các dấu ấn bưu điện ta có thể ước định khoảng thời gian ảnh được chụp.

Dấu ấn của cảnh quan thí dụ như xe hơi chỉ có ở Saigon sau năm 1910, nếu chỉ có xe kéo th́ bức ảnh chắc là trước 1910. Ṭa nhà trong h́nh không có hay chỉ được xây sau này ở một thời điểm đă biết, sẽ giúp ta ước định thời điểm của bức ảnh. Vị thế của đường, các giao điểm (ngă ba, ngă tư) và các ṭa nhà so với bản đồ, tên đường cũng là những mốc mà ta có thể phỏng đoán thời gian (thí dụ, bến Bạch Đằng có nhiều tên như “quai du Donnai”, “quai Napoléon”, “quai du Commerce” (từ 1870), “quai Francis Garnier” (từ 1896), “quai Le Myre de Vilers” (từ 1920), tùy thời điểm khi tên bến được đổi) (4).

Kư hiệu của vật hay bảng hiệu các cửa tiệm nếu có sẽ được kiểm trong niên giám Đông Dương ở các năm phù hợp.

Những chi tiết khác như chất lượng của ảnh, màu sắc, kỹ thuật, series ảnh cũng giúp ta xác định được tác giả hay khoảng thời gian của kỹ thuật chụp và rửa ảnh.



V́ đặt trở lại thời gian đầu thế kỷ 20, nên bắt đầu từ đây trong bài này, tên gọi các con đường được đề cập đến sẽ được dùng như lúc đă được dùng trong thời điểm đó với chú thích tên tương đương với tên đường được dùng hiện nay..



Đường Catinat (Đồng Khởi) – sinh hoạt kinh tế xă hội đầu thế kỷ 20



Trong suốt thế kỷ 18 đến gần cuối thế kỷ 19, trung tâm buôn bán thương mại ở Saigon là dọc kinh Chợ Vải, tụ tập chung quanh chợ (vị trí chợ Cũ ngày nay) ở gần góc kinh và sông Saigon. Kinh Chợ Vải chảy từ sông Saigon từ đầu đường Nguyễn Huệ ngày nay đến tận cửa thành Saigon cũ (cửa Căn Nguyên hay Gia Định Môn của thành Quy hay thành Phiên An dưới thời Gia Long) (4) mà vị trí hiện nay là Ủy ban Nhân dân Thành phố.



Đến thời Pháp thuộc từ năm 1861, trước khi kinh Chợ Vải (Kinh Lớn) bị lấp vào năm 1889 (khởi công lấp năm 1887), gộp chung hai đuờng Charner và Rigault de Genouilly ở hai bên bờ kinh thành Đại lộ Charner (Nguyễn Huệ ngày nay), th́ đường Catinat và Route National (sau 1901 là đường Paul Blanchy, và Hai Bà Trưng ngày nay) là hai đường chính của thành phố Saigon. Nơi đây tập trung nhiều cơ sở kinh doanh Pháp, Hoa, Ấn và Việt với các dịch vụ cao cấp mà người dân (chủ yếu là người Pháp) đ̣i hỏi như ngân hàng, in sách, thuốc tây, máy móc (như máy đánh chữ Remington, Underwood), máy ảnh, rượu, dụng cụ âm nhạc, nữ trang, súng đạn săn bắn hay các đồ nhập từ nước ngoài.



Đối với đa số người dân thường th́ khu vực Chợ Cũ, nơi ghe tàu chở hàng hóa và những sản phẩm như gạo, cá, trái cây, vải... cập bến hai bên bờ các kênh, rạch, là nơi họ cần nhất. Đây cũng là nơi mà người Pháp, các cơ quan chính quyền, trại lính, tu viện… đến để mua thức ăn trong cuộc sống thường ngày.

Chợ Cũ nằm giữa kênh Chợ Vải và rạch Cầu Sấu (đường Hàm Nghi ngày nay). Theo bản đồ “Plan du Port de Saigon (1863)” vẽ theo lệnh của đề đốc de La Grandière (4) th́ kênh Chợ Vải chảy từ sông Saigon, mà hai bờ kênh là đường Charner và đường Rigault de Genouilly, lên đến đường Bonnard (Lê Lợi) và đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Khi đến đường Bonnard, kênh rẽ ra bên phải đến tận khu vực mà sau này là nhà hát thành phố và bên trái đến đường Pellerin (Pasteur). Khúc kênh trên đường Bonnard c̣n gọi là kênh Coffyn (do Đại tá Coffyn thực hiện đào kênh). Khi kênh chảy đến đường Pellerin th́ nó bắt đầu quay ngược lại đổ ra rạch Bến Nghé, để đi vào kênh Tàu Hủ vào Chợ Lớn. Và trước khi đổ ra rạch Bến Nghé, nó cũng rẽ trái thành một nhánh nối với rạch Cầu Sấu để đi ra lại cửa rạch Cầu Sấu và kênh Chợ Vải ở sông Saigon. Ta có thể dễ dàng nhận thấy vị trí Chợ Cũ là nằm ở trung tâm vận chuyển đường thủy qua kinh rạch ở thế kỷ 19. V́ thế khu vực Chợ Cũ và khu vực chung quanh là nơi tập trung nhiều nhất các cơ sở buôn bán của người Hoa, Việt và Ấn ở trung tâm thành phố Saigon.

Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhất là bắt đầu từ thập niên 1910, là lúc vai tṛ vận tải của đường thủy dần nhường chỗ cho hệ thống vận chuyển đường bộ và đường sắt. Các kinh rạch trong thành phố bị lấp dần để trở thành các lộ xá như kênh Coffyn trở thành đại lộ Bonnard, rạch Cầu Sấu thành đại lộ “Boulevard de la Somme” (Hàm Nghi), Kinh Lớn (Chợ Vải) thành đại lộ Charner. Vai tṛ thương mại của Chợ Cũ gần sông Saigon trong nền kinh tế giảm sút lần, cho đến khi Chợ Mới (5) (chợ Bến Thành ngày nay) được thành lập năm 1914 gần bến xe và nhà ga xe lửa nối với Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây th́ Chợ Cũ hầu như hoàn toàn không c̣n được nhắc đến. Cũng vậy sau khi kênh Chợ Vải bị lấp th́ đại lộ Charner trở thành đường lớn song song với đường Catinat ở Saigon. Vị trí thương mại của đường Catinat tuy có yếu đi, nhưng nó vẫn c̣n được coi là trung tâm kinh tế và văn hóa ở Saigon.

Theo ông Jottrand, cố vấn người Pháp về luật pháp cho vua Siam (Thái Lan), khi viếng Saigon đầu thập niên 1900 nhận xét là Saigon và toàn Đông Dương có thương mại và kỹ nghệ yếu kém so với các nước và thành phố trong vùng là v́ thuế nhập khẩu hàng hàng nước ngoài quá cao, không khuyến khích được sự cạnh tranh và phát triển (16).

Theo ông Jottrand đó là hệ quả của chính sách của những người có “tinh thần nhỏ bé” (petit esprit), bị áp lực của các thiểu số giàu có, của các nhà buôn, nhà sản xuất vải bông ở Elbeuf, hàng lụa của Lyon bảo vệ quyền lợi và thị trường của họ bằng hàng rào quan thuế cao. Mà dầu được đă bảo vệ như vậy họ cũng không cạnh tranh lại được với các sản phẩm của người Đức và các nước khác. Về thương mại, trong số khoảng 2500 người Pháp ở Saigon th́ khoảng 2000 người là công chức và gia đ́nh họ, chỉ có khoảng 150 nhà thương mại mà trong đó đa số phục vụ cho các công chức trên. Trừ thành phố Chợ Lớn, th́ kỹ nghệ, thương mại rất yếu không so sánh được với các thành phố trong vùng.

Đó là t́nh h́nh chung của thành phố Saigon đầu thế kỷ 20. Trở lại chuyện nhỏ, “tiểu tự sự” (“petit récit”), về con đường Catinat. Bắt đầu từ bến Bạch Đằng (“quai Francis Garnier”), chúng ta thử trở lại thời gian ở thập niên 1900 đầu thế kỷ 20, cách đây khoảng 100 năm và đi dạo từ đầu đường cho đến cuối đường chấm dứt ngay quảng trường Nhà thờ Đức Bà để quan sát hoạt động thương mại và đời sống của người xưa ở con đường nổi tiếng này của thành phố Saigon.

Từ đầu đường ở bờ sông lên đến cuối đường có dốc lên thoai thoải đến Nhà thờ Đức bà (xưa kia vị trí này là trung tâm của thành Phiên An, tức thành Quy, thời vua Gia Long) là điểm cuối không c̣n dốc, từ đó ta sẽ nh́n lại con đường Catinat này.




http://danviet.com.au/upload/images/1(406).jpg


H́nh 1: H́nh này là của nhà nhiếp ảnh Ludovic Crespin (có cửa tiệm “Photo Studio” ở số 136 đường Catinat). Bên trái là khách sạn “La Rotonde” (trên lầu là văn pḥng của công ty tàu biển “Chargeurs Réunis” mà Nguyễn Tất Thành đến xin làm phụ bếp tàu đi qua Pháp). Theo Niên giám Đông Dương năm 1910 th́ văn pḥng Chargeurs Reunis là do ông Saravane quản lư. Bên trái h́nh là hai tiệm đổi tiền của ba người Ấn (mà người Pháp gọi là “malabar”), số 1 đường Catinat của ông Mougamadou Abdoullah (1909), ông Mougamadou Oussaine (1910) và số 1bis của ông





http://danviet.com.au/upload/images/2.gif


H́nh 2: Đường Catinat và các con đường chung quanh. Mũi tên chỉ các ảnh trong bài này được các nhà nhiếp ảnh cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 chụp theo hướng chỉ của mũi tên trong h́nh.




http://danviet.com.au/upload/images/3(119).png

H́nh 3: Cũng vị trí đầu đường Catinat, bên trái là Khách sạn “Hôtel d’Annam” (Nam Việt khách lầu) của ông Huỳnh Huệ Kư. H́nh chụp vào khoảng giữa hay cuối thập niên 1920. Theo quảng cáo trên báo “L’Ère nouvelle” tháng 9/1926 th́ ông Kư có 2 khách sạn “Nam Việt khách lầu”, một ở số 72-80 đường Kinh Lấp (Charner) và khách sạn thứ hai ở số 15 đường Carabelli. Niên giám Đông Dương (1908, 1909, 1910, 1912, 1914, 1915, 1924, 1925) không thấy ghi địa chỉ này ở góc Catinat và “quai le Myre de Vilers” (năm 1920 đổi tên “quai Francis Garnier” thành “quai Le Myre de Vilers”).




Trong trang quảng cáo trên báo “l’Ère Nouvelle” (Premiere année, numéro 4, Samedi 28 Aout 1926, trụ sở 112 rue d’Espagne) có đăng như sau về “Nam Việt khách lầu” (trích nguyên văn, chính tả giữ nguyên như in trong báo)


“Hotel d’Annam Nam Việt Khách lầu, Đường Kinh-lấp Bd. Charner No 72 à 80 và đường Carabelli No. 15 Saigon

Kính cùng quí khách rỏ, tôi dọn pḥng rộng mát và sạch sẻ, lại cũng có pḥng ở dưới đất, được cận tiện cho quí khách. Xin quí khách có đi Saigon th́ đến tiệm tôi mà ở lấy làm thong thả lắm. Huỳnh Huệ Kư, Cẩm khái”

Từ đầu đường bắt đầu bên phải là số chẵn và bên trái là số lẻ Đi vào đường Catinat phía tay phải, sau “Hôtel de la Rotonde” (số 2 Catinat) là văn pḥng công ty “Denis Frères” ở số 4 Catinat. Công ty này đă hiện diện từ lâu đời ở Nam Kỳ, từ những năm của thập niên 1880 khi Pháp bắt đầu củng cố các tỉnh Nam Kỳ vừa chiếm được. Trụ sở công ty “Denis Frères” chiếm nguyên góc đường Catinat và đường Vannier (6) (số 4 Catinat và 5 rue Vannier).

Công ty “Denis Frères” chuyên xuất nhập khẩu rượu, bảo hiểm tàu biển, đại lư cho nhiều công ty nước ngoài, và là đại diện lănh sự cho hai nước Đan Mạch và Siam (Thái Lan) từ những năm 1880 cho đến thập niên 1920. Từ đây và bên kia đường đi lên là các cửa tiệm may, tiệm vải, sửa giày, nữ trang, tạp hóa của người Hoa, Ấn và Việt, đa số là của người Hoa.





http://danviet.com.au/upload/images/4(72).png

H́nh 4: Đây là ṭa nhà ngay góc đường Catinat và Vannier (bên kia đường Vannier là trụ sở công ty Dennis Frères, số 4 Catinat). Theo niên giám 1907, 1908, 1909 th́ số 6 Catinat là tiệm bán café của ông Lương Trung, số 8 là tiệm may (tailleur) “Lương Tich” (trước cửa là 1 người đang đứng cầm dù), số 10 tiệm may “Dương Kim”, số 12 tiệm sửa giày (cordonnier) “Thai Thieu”, số 14 tiệm may-sửa giày “Ly Nhu”, số 16 tiệm may “Tran-On” (trước cửa là các người Hoa đang đứng ở giữa h́nh) và số 18 tiệm may “Lương-Can”. Kế bên ṭa nhà này, phía trái h́nh là tiệm thuốc tây, số 20-22 Catinat, của ông Holbé. Trong Niên giám 1910 th́ tiệm may “Lương Tich” không c̣n, do đó ta có thể kết luận là bức h́nh này chụp năm 1909 hay trước đó. Niên giám 1906 cho biết số 6 là tiệm may và tiệm sửa giày “Ngo-Thoai” và số 12 là tiệm may “Ly-Nhu”. Trong h́nh, tiệm số 12 có bảng hiệu (chữ mờ đọc không rơ nhưng có lẽ là Thai-Thieu). Như vậy là h́nh được chụp vào khoảng 1907-1909. Tiệm “café Luong-Trung” sau này là tiệm “café Alger” (số 6 Catinat)




Tại ngă tư đầu tiên của đường Catinat, ngă tư Catinat và rue Vannier (ngày nay là đường Ngô Đức Kế), khi đi qua bên kia đường ta sẽ thấy các cửa tiệm may, sửa giày của người Hoa và Việt từ số 8 đến 16 rue Catinat (xem h́nh 4). Như đă nói trên, các cửa tiệm của người Hoa rất nhiều trên đường Vannier từ đại lộ Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) cho đến quảng trường Rigault de Genouilly (quảng trường Mê Linh ngày nay).

Tại đây từ số 8 đến 16 Catinat, góc đường Catinat và đường Vannier sau này, vào năm 1930, Henry Edouard Charigny de Lachevrotière, mở một quán rượu, và năm 1932 ông Patrice Luciani kế vị. Năm 1937 trở thành khách sạn “Saigon Palace” với quán rượu ở dưới. Một khách sạn thanh lịch ở Saigon và ngày nay là khách sạn “Grand Hotel”. Ông Lachevrotière sau này là chủ bút tờ “La Dépêche”. Ông là một người bảo thủ, đứng về phía quyền lợi Pháp chống lại sự thăng tiến độc lập của người Việt. Ông đă từng bút chiến với các nhân sĩ trên báo chí ở Saigon.

Cũng trên đường Catinat phía bên kia, gần bến Bạch Đằng là các nhà in và tiệm bán sách “Imprimerie Librairie Saigonnaise” (15-17-19 rue Catinat, directeur Pointillon), “Imprimerie Nam-Tay” (51 và 53 rue Catinat). Trước nhà in Nam-Tay, ở số 35-41 rue Catinat là nhà in “Imprimerie Saigonnaise” của ông Lê Phát Tân (niên giám 1909), số 39-41 “Imprimerie Saigonnaise” của L. Roger (niên giám 1910) và số 29 “Imprimerie-reliure” của Ki-Cheong (có lẽ là người Hoa từ Singapore hay Malacca).

Địa chỉ 29-31 sau này là trụ sở của công ty “Société Cochinchinoise d’ importation et d’exportation “Thuan-Hoa”” (niên giám 1922) do ông Nguyễn Phú Khai quản lư. Ông Nguyễn Phú Khai là chủ bút tờ báo “Tribune Indigene” (Diễn đàn bản xứ). Trước kia ông tốt nghiệp kỹ sư ở Pháp và mở nhà máy xay lúa ở Mỹ Tho cạnh tranh với người Hoa. Ông Khai chủ trương Việt Nam phải canh tân, tiến bộ, thoát khỏi nghèo khó, có sức mạnh về kinh tế. Ông Khai có tư tưởng cũng giống như ông Phan Chu Trinh, đấu tranh chống Pháp ôn ḥa đem lại quyền lợi cho người bản xứ, vận động để Việt nam được quy chế lập hiến. Ông Nguyễn Phú Khai và các ông Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long,.. sau này lập ra đảng chính trị đầu tiên ở Nam Kỳ vào năm 1923, Đảng Lập Hiến (Parti Constitutionaliste).

Đường Catinat gần phía bến Bạch Đằng vẫn c̣n nhiều cửa tiệm người Hoa. Cửa tiệm người Hoa nhiều hơn các cửa tiệm kinh doanh của người Pháp và Ấn.




http://danviet.com.au/upload/images/5(47).png


H́nh 5: Các thương gia người Hoa ở đường Catinat (Collection Poujade de Ladevèze)




Ta hăy xem niên giám Đông Dương 1908, trên đường Catinat có rất nhiều tiệm của người Hoa (phụ lục 1). Trong số 143 địa chỉ th́ 43 là cơ sở doanh nghiệp người Hoa, chiếm 30% số lượng các cơ sở trên đường Catinat. Và rất nhiều các tiệm Hoa kiều chung quanh đường Catinat, ở trên các đường rue Turc, Vannier, d’Ormay trải dài từ công trường Rigault de Genouilly (công trường Mê Linh ngày nay) đến đại lộ Charner, rue d’Adran (Hồ Tùng Mậu ngày nay) và khu vực Chợ Cũ.

Bà Louise Bourbonnaud (7), trong quyển sách về chuyến đi Ấn Độ và Viễn đông của minh (1889), có ghé Saigon ở một thời gian trong khách sạn “Hotel de l’Univers” gần đường Catinat, bà đă mua đồ ở các tiệm người Hoa và có tả một số tiệm người Hoa như sau (17):


“Ở bên kia đường, có tiệm may và tiệm sửa giày của người Hoa, ngoài ra c̣n có tiệm giặt (blanchisserie). Những người Hoa này làm việc siêng năng đáng ngạc nhiên. Người thợ may có máy may và may từ sáng đến nửa đêm không ngừng. Tôi không c̣n ngạc nhiên nữa khi nghe nói là những thợ thủ công và các nhà thương mại nhỏ người Âu sẽ không bao giờ biết cách cạnh tranh được với các người Hoa cùng nghề.


Người ta biết rằng trong hơn một thành phố lớn ở Mỹ, chính những người “da vàng” (“hommes jaunes”) là chiếm độc quyền nghề giặt ủi. Ở đây cũng như vậy”

Người Ấn có một số cửa hàng tạp hóa và đổi tiền trên đường Catinat (xem phụ lục 2), rue d’Ormay và nhiều cửa hàng (escompteurs) quanh Chợ Cũ, tập trung nhiều nhất là ở đường rue d’Adran, rue d’Ohier. Đường Ohier (trước kia là đường “rue de l’Église” (8) và ngày nay là Tôn Thất Thiệp) có thể được coi như là “Tiểu Ấn Độ” (Little India) như thường được gọi nơi mà cộng đồng của họ có các khu tương tự trong các thành phố khác ở Đông Nam Á như Singapore, Kulua Lumpur. Trên đường Ohier có ngôi đền Ấn Giáo lớn nhất Việt Nam. Và trên đường Amiral Dupré (cắt ngang đường Catinat) là ngôi đền thờ Hồi giáo của người Ấn.

Nguyễn Đức Hiệp

(C̣n tiếp)

Chú thích:

(1) Catinat là tên một tướng Pháp thời Louis XIV, sau này là tên một chiến hạm (la corvette Catinat) tham dự trong trận đánh cảng Đà Nẵng (1856) và Saigon (1859) của hải quân Pháp. Toàn quyền Nam kỳ, đề đốc De la Grandière năm 1865, đổi tên đường “Rue no. 6” thành đường Catinat dựa theo tên của chiến hạm này.


(2) Xem phụ lục 4 về quảng cáo một số cơ sở thương mại người Việt. Báo “Lục Tỉnh Tân Văn” mà Trần Chánh Chiếu chủ biên có trụ sở ở 6 rue Krantz (đường Hàm Nghi ngày nay) do F. H Schneider đứng tên. Kế bên ṭa soạn là khách sạn “Nam Trung”, cơ sở gặp gỡ và kinh tài của phong trào Minh Tân. Niên giám Đông Dương (1910, 1911, 1912) ghi “4-6 F.H Schneider, aubergiste” và Niên giám 1907, 1908, 1909 ghi “8. Mme Lachal, propriétaire du café de la gare”. Khách sạn “Nam Trung” là số 4, kế bên bưu điện số “2. Postes et Telegraphes”, gần ga xe lửa cạnh bến Bạch Đằng. Đường Krantz trước kia là đại lộ “boulevard de Canton” v́ ở đây có rất nhiều người Hoa gốc Quảng Đông buôn bán trên đường dọc kênh rạch, đến năm 1897 th́ chia ra làm hai đường hai bên, đường Krantz và đường Duperré. Đường xe lửa bắt đầu từ đầu đường Krantz đến ga Saigon gần chợ Bến Thành. Năm 1920 hai đường Krantz và Duperré nhập lại thành Boulevard de la Somme (nay là Hàm Nghi). Theo Niên giám Đông Dương 1906 có ghi một người ở số 11 rue d’Adran (đường Hồ Tùng Mậu ngày nay) gần Chợ Cũ tên là “Tran-Chieu, aubergiste”, có thể địa chỉ này cũng là một khách sạn của Gilbert Trần Chánh Chiếu.


(3) Các ảnh “cartes postales” do các nhà tư nhân thỉnh thoảng xuất hiện (đôi khi có dấu ngày tháng trên tem) được bán đấu giá trên mạng như trên www.delcampe.net (http://www.delcampe.net/). Đây cũng là một nguồn ảnh tư liệu tốt cho ta nhiều thông tin


(4) Năm 1920, hàng loạt các đường và địa danh đổi tên thành tên các địa danh hay nhân vật trong Thế chiến thứ nhất, như Boulevard de la Somme, rue d’Alsace Lorraine, rue d’Ypres, rue Général Lizé, rue Dixmude, rue Champagne, Boulevard Kitchener, Place Marechal Joffre. Rue Verdun và “quai de la Marne” (bến Vân Đồn) được đổi từ 1917 (9).


(5) Chợ Mới (bến Thành) là do công ty Brossard & Mopin xây, Công ty Brossard & Mopin xây cất rất nhiều công tŕnh ở Đông Dương và các nơi khác ở Viễn Đông, và có văn pḥng ở Saigon, Singapore, Hồng Kông, Thượng Hải, Thiên Tân, Vladivostock. Ông Jean Brossard có một người con ngoài hôn thú với một phụ nữ Việt năm 1905. Sau này vào năm 1946 người con này và gia đ́nh đă đệ đơn xin chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng ḥa trở lại quốc tịch Việt Nam (23).


(6) Vannier là tên của một sĩ quan Pháp đă giúp vua Gia Long chống Tây Sơn vào đầu thế kỷ 19 và làm quan cho nhà Nguyễn một thời gian ở Huế, trước khi gia đ́nh (vợ là người Việt nam) hồi hương về Pháp dưới thời Minh Mạng.


(7) Bà quả phụ Bourbonnaud là phụ nữ can đảm, gan dạ đi nhiều nơi trên thế giới một ḿnh (Bắc, Trung và Nam Mỹ, Ấn Độ, Borneo, Sumatra, Việt Nam, Nhật, Trung Quốc, Phi Châu,..), ghi lại các sự kiện, sinh hoạt, phong tục các nơi trong các sách bà xuất bản. Vào thế kỷ 19, phụ nữ đi các nơi xa lạ, bất trắc, là một sự khác thường. Bà là hội viên hội “Société de Géographie de Paris” và lập ra giải “Prix Louise Bourbonnaud” cho các tác phẩm du kư. Chồng bà là nhà doanh nghiệp, xây dựng đường xá ở Paris, và là bạn của ông Haussmann, người thay đổi bộ mặt kiến trúc và đường xá Paris thành các đại lộ lớn trong thập niên 1860. Bà hay giúp đỡ các người nghèo ở Paris và các nơi bà đi qua. Louise Bourbonnaud cũng là hội viên sáng lập “Société de secours aux Blessés des Armées de terre et de mer”, sau này trở thành Hội chữ Thập đỏ (Croix-Rouge).


(8) Đường “Rue de l’Église” đi ngang qua nhà thờ đầu tiên ở Saigon (1863). Nhà thờ này xây bằng gỗ ở vị trí sau này là Ṭa Ḥa giải (Justice de Paix) và ngày nay là ṭa nhà Sun Wah, góc đường Nguyễn Huệ và Tôn Thất Thiệp.



Tham khảo

(1) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925


(2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933


(3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.


(4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu & H́nh Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.


(5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.


(6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928

(7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.

(8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.

(9) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (Saïgon), 1917

(10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.

(11) Các h́nh ảnh từ belleindochine.free.fr, www.delcampe.net và http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/ (http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/)

(12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa (http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa) và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2 (http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2)

(13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.

(14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L' Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du Gouvernement général de l'Indo-Chine, 1906.

(15) Annuaire de l'Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.

(16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de l'industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.

(17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l'Extrême-Orient, impressions de voyage d'une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres (http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres)

(18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).

(19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.

(20) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935.

(21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.

(22) Horace Fabiani, Souvenirs d'Algérie et d'Orient, E. Dentu (Paris), 1878.

(23) Christina Firpo, personal communication.

BigBoy
04-11-2023, 02:11
Saigon – Đường Catinat đầu thế kỷ 20 – Phần 2


Nguyễn Đức Hiệp



Ông Nguyễn Liên Phong đă tả một góc cạnh của đường Catinat vào đầu thế kỷ 20 trong quyển “Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” (9) đúng như các cơ sở kinh doanh Hoa, Ấn lúc ấy ở khu đầu đường Catinat như sau:


Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh

Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi

Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son


Tuy vậy cũng có một số cửa tiệm của người Việt trên đường Catinat. Và trên đại lộ Bonnard có cửa tiệm may của ông Nguyễn An Khương ở số 49 đại lộ Charner mà trong niên giám 1910 ghi là: “49. Nguyen-An-khuong, tailleur” (10). Ông Nguyễn An Khương chính là thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Nhà may này về sau là khách sạn Chiêu Nam Lầu, trở thành một cơ sở tham dự trong phong trào Minh Tân do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu lănh đạo. Chiêu Nam Lầu đón nhận những người An-Nam (Việt) ăn ở trú ngụ, khuyến khích người Việt kinh doanh, canh tân đất nước. Cũng chính tại số 49 Charner là nơi ông Phan Chu Trinh mất năm 1926, sau khi ông từ Pháp trở về Việt Nam và trú ngụ tại Chiêu Nam Lầu.

Đi qua các cửa hàng cửa người Hoa và Việt là đến tiệm thuốc tây của ông Holbé ở số 22 Catinat. Đây là tiệm đầu tiên của ông Holbé, sau này ông chuyển đến tiệm thuốc tây Solirène ở số 171 Catinat (góc Catinat và Bonnard). Nhà riêng của ông Holbé ở số 2, place du Chateau d’Eaux (quảng trường tháp nước, nay là Hồ Con Rùa), nơi tụ tập của nhiều nhân sĩ và trí thức Pháp, Việt ở Saigon.

Đến đây ta đến ngă ba Catinat và rue Turc (nay là Hồ Huấn Nghiệp, ông Turc là thị trưởng đầu tiên của thành phố Saigon). Ở bên kia đường Turc là cửa hàng bách hóa “Mottet et Cie.” Bắt đầu từ đây lên ta sẽ thấy tiệm và phố người Pháp nhiều hơn và chiếm đa số cho đến cuối đường Catinat ở quảng trường nhà thờ (ngày nay gọi là quảng trường Công xă Paris).




http://danviet.com.au/upload/images/6(30).png

H́nh 6: Magasins genereaux Mottet et Cie, 1908. Cửa hàng bách hóa công ty Mottet. Góc đường Catinat và đường Turc. “Carte postale” này là do chính công ty Mottet sản xuất.

Công ty Mottet có cửa hàng trên đường Catinat (số 24-30 Catinat và 1-2-3 Café hôtel de la maison Mottet, góc rue Catinat và rue Turc, tức góc Đồng Khởi và Hồ Huấn Nghiệp ngày nay. Niên giám Đông Dương 1908 ghi “Mottet et Cie. (approvisionnement général)”. Cửa hàng “Mottet et Cie.” là một trong hai cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon. “Mottet et Cie.” bán nữ trang, rượu (sỉ và lẻ), nước khoáng (eaux minérales), xe đạp (11), đăng kư gởi tàu biển, bán máy giặt. Niên giám 1908 có ghi “MM. Mottet et Ogliastro” (12) bán máy giặt chạy bằng hơi nước (Blanchisserie à vapeur), giày, nón, đại diện cho công ty đường sông (Compagnie de messageries fluviales) ở Cần Thơ... Công ty cũng in các “carte postales” h́nh ảnh về Saigon và nhiều nơi khác. Công ty Mottet et Cie. bắt đầu xuất hiện trong niên giám Đông Dương vào năm 1906 bán nữ trang. Trong niên giám 1908 có ghi M.-S. Mottet là nhà thương mại và niên giám 1907 cho biết ông Mottet là lănh sự đại diện cho nước Nga hoàng (imperial Russie).

Niên giám năm 1911 ghi ông Hauff (“maison Mottet”) là đại diện lănh sự Nga và ông Novella (“maison Ogliastro”) đại diện lănh sự Ư. Cũng trong niên giám năm 1911 có ghi ông Blanc ở nhà số 23 rue Bangkok là chủ“maison Mottet et Cie” và là người kế nhiệm của công ty “Mottet et Cie.” ở đường Catinat bán rượu sỉ và lẻ. Như vậy có thể nói năm 1911, hai ông Blanc và Hauff đă kế nhiệm ông Mottet điều hành công ty Mottet et Cie. Và đúng như vậy, niên giám Đông Dương năm 1915 chính thức ghi hai ông H. Blanc và P. Hauff là “successeurs Mottet et Cie.” ở các cơ sở công ty trên đường Catinat, đường Turc và đường Vannier.

Hai ông Blanc và Hauff cũng là chủ khách sạn “Hôtel de l’Univers” ở đường Turc. Nếu ở góc đường Catinat và đường Turc, ta quẹo phải vào đường Turc và đi đến hết đường th́ sẽ thấy “Hôtel de l’Univers” ở bên phải, số 3 rue Turc, cạnh quảng trường Rigault de Genouilly (quảng trường Mê Linh). Quang cảnh ở quảng trường này đầu thế kỷ 20 như trong h́nh sau (h́nh 7).




http://danviet.com.au/upload/images/7(18).png

H́nh 7: Carte postale trong bộ sưu tập của nhà thương mại Poujade de Ladevèze - Tượng kim tự tháp tưởng niệm Douard de Lagrée và tượng Rigault de Genouilly nh́n từ đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng). Trong h́nh, nếu ở đường Paul Blanchy ta quẹo phải khoảng 30m th́ sẽ đến khách sạn “Hôtel de l’Univers” trên góc đường Turc và Vannier và cơ sở thương mại của ông Poujade de Ladevèze ở đầu đường Vannier (7 rue Vannier, niên giám 1909) cạnh khách sạn.


Hai nhà thương mại xuất nhập khẩu Henri Blanc và P. Hauff cũng biên tập và in các “carte postale” kư hiệu “en nuage” in các h́nh ảnh chụp trên khắp Đông Dương, và các h́nh ảnh chụp ở Trung Hoa: phần lớn các ảnh này nằm trong bộ sưu tập “Collection Phénix” (vers 1907), số c̣n lại trong bộ sưu tập “Collection Sylvia” (xem phụ lục 3 về các nhà nhiếp ảnh ở Saigon). Sau này vào thập niên 1930, số 24 đường Catinat là tiệm ông J. Aspar, người in quyển sách chỉ dẫn về đường phố, sinh hoạt ở Saigon, quyển “Guide pratiques” in năm 1934.

Bây giờ từ ngă ba Catinat và rue Turc nơi cửa hàng bách hóa “Motte et Cie”, chúng ta đi lên về hướng nhà hát thành phố, sẽ gặp tiệm nữ trang, bán súng đạn đi săn (bijoutier, Noel, armurier) của ông Cafford ở số 32-36 Catinat (theo niên giám 1910, 1911) mà trước đó (1909) là tiệm nữ trang (bijoutier) của ông bà Fernand Michel. Sau này vào thập niên 1950-1960, tiệm bán nữ trang, súng đạn Cafford chuyển về ở góc đường Tự Do và Nguyễn Thiệp, đối diện với quán café Brodard.

Kế tiệm nữ trang Cafford là tiệm thịt nổi tiếng và lâu đời nhất ở đường Catinat: tiệm thịt “Boucher, charcutier A. Guyonnet” số 38-40 Rue Catinat.




http://danviet.com.au/upload/images/8(10).png

H́nh 8: Rue Catinat vào năm 1950 (café Brodard nằm ở góc Nguyễn Thiệp và Đồng Khởi ngày nay). Tiệm bán thịt A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, gần Brodard (131 Đồng Khởi).


Tiệm của ông Guyonnet trước kia ở số 48 Catinat (theo niên giám 1908 và 1916, ông Guyonnet hành nghề “boulangerie, charcuterie, boucherie, fruits primeurs”). Sau đó tiệm chuyển đến số 38-40 rue Catinat (niên giám 1925 và niên giám 1933-1934 đề tựa “Frigorifique de l’alimentation, alimentation générale, R.C Saigon no. 501”). Và cuối cùng ở thập niên 1950 th́́ chuyển đến số 121 rue Catinat. Ông Alban Guyonnet (cùng thời với công ty tiệm cầm đồ Ogliastro-Hui Bon Hoa) là hội viên Pḥng thương mại (niên giám 1933-34).

Tiếp tục đi, ta sẽ đến tiệm sách lớn “Librairie des Écoles” cho học sinh của ông bà Léon Rousseau ở số 64-72 Catinat (1910, 1918).

Đi lên một chút nữa ta sẽ đến một ngă tư thứ hai: đó là ngă tư rue Catinat và rue d’Ormay (13) (Mạc Thị Bưởi ngày nay). Ngay ở góc đường Catinat và rue d’Ormay là nhà in “Imprimerie commerciale”: địa chỉ “74-86 Catinat, M. Rey (Marcelin) imprimerie commerciale” và “60-64 d’Ormay, Rey Imprimerie commerciale dépôt”. Nhà sách và nhà in của ông Marcelin Rey in đủ các loại sách, các quảng cáo thương mại kể cả các sách viết bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán và chữ Khmer.


Nếu ta quẹo trái đi vào đường d’Ormay về hướng đại lộ Charner, gần góc đường d'Ormay và đại lộ Charner, số 63 rue d'Ormay là ṭa nhà cơ sở điện ảnh (cinématographe) của công ty điện ảnh “Pathé frères” do ông Lebreton làm giám đốc (niên giám 1910). Sau này ở nơi đây, ông Louvet (nhà quay phim, cinematographe) làm nơi chiếu phim. Một nơi giải trí rất được ưa chuộng vào ban đêm, trước khi có rạp Eden (đường Catinat) và rạp Casino (đường Bonnard) sau này.

Qua đường d’Ormay, theo niên giám 1909, 1910, 1911 th́ số 88 Catinat là tiệm thịt (charcutier) của ông J. Martinon, và từ số 90 đến 94 Catinat là tiệm tạp hóa, trái cây, kim, chỉ, nút quần áo (épicerie-mercerie) của ông A-Koune (người Hoa c̣n có tên là Huynh-Can theo niên giám 1890). Năm 1912 th́ ông J. Martinon dời tiệm thịt đến số 116 Catinat. Quay đầu về hướng ta đă đi qua, ta sẽ thấy phía bên kia đường là ṭa nhà góc đường Catinat và d’Ormay ở số 25-27 Catinat của ông Lacaze (3) như trong h́nh dưới đây (h́nh 9).




http://danviet.com.au/upload/images/9(15).png

H́nh 9: Đường Catinat, bên phải có lẽ là văn pḥng nhà in báo Impartial (14). Bên phải là đường d’Ormay. H́nh chụp về phía bến Bạch Đằng, khoảng thời gian cuối thập niên 1920 hay đầu 1930s. Đây là h́nh trong bộ sưu tập của nhà nhiếp ảnh F. Nadal. Để ư hai cột đèn nối nhau ở giữa đường. Điện thắp sáng Saigon bắt đầu từ năm 1896, từ nhà máy phát điện đầu tiên ở vị trí sau Nhà hát thành phố trên đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay). Sau đó đầu thập niên 1910 th́ nhà máy điện nhà đèn Chợ Quán được xây và đưa vào hoạt động cung cấp cho toàn Saigon và Chợ Lớn. Nhà máy phát điện cũ, sau nhà hát thành phố, trở thành trạm phụ (sub-station) biến thế cung cấp từ nhà đèn Chợ Quán.



Đi lên nữa, ta sẽ đến ngă ba đường Catinat và đường Amiral Dupré (15) (góc Đồng Khởi và Đông Du ngày nay). Theo niên giám 1909, số 49-55 đường Amiral Dupré là tiệm làm bánh ḿ (boulangerie) của bà Soundan, sau này trở thành nhà hàng (1910, 1911, 1912). Đây chính là quán café, hộp đêm và vũ trường “Croix du Sud” hay Tự Do sau này ở thập niên 1950-1970.

Bên kia đường Amiral Dupré là cửa hàng bách hóa Courtinat, cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon thành lập ít nhất từ năm 1890 (theo niên giám Đông Dương 1890). Công ty “A. Courtenat et Cie” hay Bazar Saigonnais (niên giám 1911). Địa chỉ số 96 đến 106 rue Catinat, và số 95 Rue Catinat (magasins de nouveautés).




http://danviet.com.au/upload/images/10(1).png

H́nh 10: Bộ sưu tập Nadal - Cửa hàng bách hóa A. Courtenat số 96-106 rue Catinat và 48 Amiral Dupré (bên phải h́nh). Trên ṭa nhà phía đường Dupré có đề chữ “A. Courtenat Cie, nouveauté” (bazar). Công ty có văn pḥng ở Lyon, buôn bán cửa hàng dầu thơm, nước hoa, máy may, cung cấp dụng cụ điện và dịch vụ gắn điện... Ngoài ra công ty Courtenat c̣n có cửa hàng ở Rue Amiral Dupré (nay là đường Đông Du) số 19, 21, 23 etc. (Loueurs en garni), và số 48 Amiral Dupré (bazar de nouveautés).


Ông Auguste Courtinat bắt đầu buôn bán ở Saigon it nhất là từ năm 1890 khi ông có tên trong niên giám Đông Dương (“Annuaire générale de l’Indochine”). Trong niên giám năm 1900 ông là hội viên Pḥng thương mại Saigon (“Chambre commerce de Saigon”). Ông là người cùng thời với ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon 1895-1901), và ông Holbé (dược sĩ và nhà sưu tầm khảo cổ học).

Ngoài ra công ty “Courtenat et Cie” c̣n có đất canh tác ở Vị Thủy (Rạch Giá) (theo niên giám 1917).

Bên kia đường, số 89 Catinat là tiệm thuốc tây của ông Molinier (1905, 1906, 1907-1911). Theo niên giám 1912, số 95 là trụ sở của Hội Âm thanh Viễn Đông (Société phonique d’Extrême-Orient), mà các năm trước đó là tiệm đổi tiền của người Ấn. Theo niên giám Đông Dương từ 1906 đến 1910, th́ ông F. Coudurier và Montégout là chủ nhà sách và nhà in (imprimeurs libraires) ở số 119 đến 129 Catinat. Trước đó vào năm 1905, th́ cơ sở in và nhà sách này vẫn c̣n là của công ty của ông Claude (“Claude et Cie.”). Năm 1906, nhà in “Coudurier et Montégout” in cuốn sách hướng dẫn về Saigon “Saïgon-Souvenir “ của L. I. (8). Cuốn sách này rất có ích cho những ai muốn t́m hiểu về sinh hoạt Saigon đầu thế kỷ 20. Sau đó, theo niên giám 1912, th́ ông Portail thay thế ông F. Coudurier và ông Montégout (“ancienne maison Coudurier et Montégout”). Đến năm 1924 th́ ông A. Portail dời đến số 171-173-175 rue Catinat. Đây chính là tiền thân của nhà sách Xuân Thu ngày nay. Nhà in của ông Portail đă in nhiều sách của các tác giả sống ở Saigon, như quyển tiểu thuyết “L’Âme de Cochinchine” của Albert Viviès, và các Niên giám Đông Dương như niên giám các năm 1933, 1934.





http://danviet.com.au/upload/images/11(11).png

H́nh 11: Bộ sưu tập Nadal - Pharmacie Normale 123 rue Catinat (theo Guide pratiques, 1934). Khoảng thập niên 1920 (theo sư hiện diện của các xe hơi trong h́nh). Theo niên giám 1922, L. Sarreau (pharmacien) có tiệm thuốc ở số 119 rue Catinat (ancienne maison Bérenguier, Molinier, de Mari). H́nh chụp từ trước ṭa nhà Courtenay et Cie. hướng về quảng trường nhà hát thành phố. Góc đường giữa h́nh gần 2 xe đậu song nhau là đường Carabelli (Nguyễn Thiệp sau này). Xem bức h́nh này với h́nh chụp năm 1950 (h́nh 8) trong đó có cửa tiệm A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, th́ ta thấy ṭa nhà “Pharmacie Normale” gần như không thay đổi (16).



Kế cửa hàng bách hóa “Courtenat et Cie.” là tiệm đồng hồ, nữ trang, in khắc (horloger, bijoutier, graveur) của ông Reynault Monnier ở số 108-110. Đi lên nữa về hướng Nhà hát thành phố, ta sẽ gặp tiệm nón và giày (chapellerie et chaussures) của ông Canavaggio ở số 118-120 Catinat. Chính nơi này đầu thập niên 1920 là nơi nhà nhiếp ảnh Ả Rập Fernand Nadal có tiệm nhiếp ảnh và buôn bán dụng cụ nhiếp ảnh. Ông Nadal đă để lại các h́nh ảnh và các bộ sưu tập quư giá về Saigon.

“Nam kỳ nhơn vật diễn ca” (1906) đă tả cảnh khu giữa gần nhà hát thành phố đường Catinat nơi có nhiều cửa hàng người Pháp như sau:
..Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
Ăng-lê, Nhựt Bổn món ǵ cũng sang
Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi


Số 128 là tiệm của bà Wirth ở (1907, 1908, 1909), một nhà buôn bán tạp hóa. Tiệm tạp hóa của bà Wirth trước đó ở số 120 Catinat (1905, 1906). Ngoài bán hàng, bà Wirth c̣n sản xuất và thương mại các ảnh “cartes postales” từ cuối thế kỷ 19 với các ảnh xưa ở Saigon, quí hiếm trong giai đoạn đó cho đến đầu thế kỷ 20. Tiệm bà Wirth cạnh ngay khách sạn và quán “Café de la Terrasse” nổi tiếng của ông Bénard (1909, 1910, 1912) ở địa chỉ 130 Catinat, ngay góc đường Catinat và quảng trường Francis Garnier. Sau này số 128 Catinat là tiệm nữ trang “Bijouterie Parisienne” (1910, 1911) và năm 1912 do Guintoli và Bardotti làm sở hữu chủ, th́ tiệm nữ trang dời tới địa chỉ 130 Catinat, ngay ở địa điểm của quán “Café de la Terrasse”.

Bây giờ trước khi đi đến quảng trường Francis Garnier, ta hăy nh́n lại đoạn đường vừa đi qua. Ta sẽ thấy cảnh quang giống như h́nh dưới đây (h́nh 12).





http://danviet.com.au/upload/images/12(4).png

H́nh 12: Bộ sưu tập Nadal - Đường bên phải là Carabelli chứ không phải Garabaldy như trong h́nh (Carabelli là tên của ông thị trưởng người gốc Corse của thành phố Saigon vào cuối thế kỷ 19, rue Carabelli là đường Nguyễn Thiệp ngày nay). Ṭa nhà ngay góc đường, 141-143 Catinat và 2 Carabelli, là quán “Café de l’Union” của bà Aymés. Cũng tại quán Café này là trụ sở “Amicale Bretonne” (Hội ái hữu Bretonne). Sau này là tiệm café Brodard, Gloria Jeans (131 Đồng Khởi). Cạnh “Café de l’Union”, số 131 đến 139 Catinat là ṭa nhà của ông Lorin (1912), Flarin (1910), O. Sammarcelli (1909), với hai tiệm đổi tiền của hai người Ấn (Theo niên giám 1909, 1910, 1912, Va. Mougamadoucharif số 131 và Mougamadoumeinedine số 139, hai người Ấn này có thể mướn hai địa chỉ này). Trên đường Carabelli, th́ số 1 Carabelli là hội “Amicale Corse”, nơi những người gốc Corse hội họp. Ảnh chụp về hướng bến Bạch Đằng. Để ư cạnh ṭa nhà số 131-139 và 141-143, là ṭa nhà “Pharmacie Normale”.



Từ “Café de l’Union” đi qua đường Carabelli là tiệm thuốc tây của ông Trombetta ở số 145-147. Đi lên chút nữa, 149-151, là tiệm tóc “Lavatory Saigonnais” của ông Hombert và khách sạn “Hôtel de France” như h́nh dưới đây (h́nh 13).




http://danviet.com.au/upload/images/13(2).png

H́nh 13: H́nh này trong bộ album h́nh sưu tập của P. Dieulefils (h́nh chụp khoảng trước năm 1900). Bên trái h́nh là khách sạn “Grand Hôtel de France” (157 rue Catinat theo niên giám 1905-1906 do bà Dabène làm chủ, 159bis rue Catinat theo niên giám 1907-1911, 157bis 1er étage theo niên giám 1912). Ṭa nhà bên phải là “Café de la Terrasse” và khách sạn (ngày nay là khách sạn Caravelle). H́nh chụp vào đầu thế kỷ 20 (đầu thập niên 1900). Bức h́nh này tương tự như ảnh carte postale trong collection Poujade de Ladeveze. H́nh chụp về phía quảng trường Nhà hát thành phố (“Place Francis Garnier” hay “Place du Théâtre”) và nhà thờ Đức Bà. Trên đường chưa có xe hơi, như vậy là h́nh chụp trước ít nhất khoảng năm 1910. H́nh chụp cho thấy khách sạn “Grand Hôtel de France” chưa đổi đến góc đường ở số 159bis, như vậy h́nh chụp khoảng năm 1905-1906 hay trước đó.



Góc đường Catinat và đại lộ Bonnard, số 159bis cũng là địa chỉ của công ty “Compagnie Générale exportation” (1907-1912), nơi nhà thương gia Edouard Tréfaut và kế toán Gaston Phélyzon trú ngụ. Số 159 là tiệm đổi tiền của người Ấn, Condassamy (1907-1911). kế bên ở số 157bis là tiệm tạp hóa và quần áo (epicerie et mercerie) của Hoa kiều có tên Soa-a-Pan, Sina et Cie (niên giám 1907-1912). Cùng địa chỉ 157bis năm 1910 là tiệm mứt kẹo (confiseur) của ông Marius Rousseng và tiệm đổi tiền của N. Labigang (niên giám 1910-1912). Đến năm 1922, theo niên giám Đông Dương, th́ 157bis vẫn là của N. Labigang (“Maison Rousseng, Pâtisseur – Confiseur – Chocolatier”).

Số 157 là tiệm đổi tiền của người Ấn (1907-1912), ṭa nhà trước đó là khách sạn “Hôtel de France” (1905-1906). Sau này vào năm 1922, số 157 Catinat (theo niên giám 1922) là “Imprimerie Librairie de l’Union” của ông Nguyễn Văn Của mà ông G. Durrwell, một nhà nghiên cứu văn hóa, là người có trách nhiệm về luật pháp (fondé de pouvoir). Theo Vương Hồng Sển (10) nhà in này trước đó là của ông Đinh Thái Sơn, sau chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Văn Của vào năm 1918. Ông Durrwell cũng là chủ tịch “Hội Nghiên cứu Đông Dương” (“Société des Etudes Indochinoises”). Nhà in của ông Của đă có in các tập san nghiên cứu của hội Nghiên cứu Đông Dương.

Ngoài ra nhà in “Imprimerie de l”Union” (157 Catinat) đă in các tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Lề Hoàng Mưu và các quyển sách nghiên cứu có giá trị như “Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon” năm 1917 về lịch sử thành phố Saigon, và nguồn gốc các tên đường dưới sự hướng dẫn của thư kư ṭa thị sảnh thành phố (9), quyển “Recueil de Morale Annamite par Yên Sa Diệp Văn Cương” năm 1917, quyển “Monographie de la province de Bac Lieu, par Louis Girerd” in năm 1925, quyển “La pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l’histoire Saigon-Cholon par P. Midan” in năm 1934 ở nhà in “Imprimerie de l’Union” (57 rue Lucien Mossard).


Bây giờ ta đứng ở tiệm “Café de la Terrasse” mà trên lầu là khách sạn. Đây là giao điểm của đường Catinat với quảng trường Francis Garnier (hay quảng trường nhà hát thành phố), “Café de la Terrasse” ngày nay là khách sạn Caravelle (đặt theo tên một loại máy bay của hăng hàng không Air France, hảng này có văn pḥng ở tầng trệt của khách sạn). Nh́n về phía tay phải của quảng trường, ta sẽ thấy nhà hát thành phố, được xây vào cuối thế kỷ 19 và hoàn thành vào năm 1900, năm đầu của thế kỷ 20.

(Nguyễn Đức Hiệp)



Chú thích:

(9) Nguyễn Liên Phong tác giả “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” xuất bản tại Sài G̣n năm 1909, sách mô tả cuộc sống ở Lục tỉnh và các nhân vật tiếng tăm (đa số thân Pháp) vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Sách có nhiều tư liệu có giá trị về sinh hoạt xă hội, phong tục tập quán vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 ở khắp lục tỉnh Nam kỳ.






(10) Theo Vương Hồng Sển th́ tầng dưới cửa tiệm là do em gái của Nguyễn An Khương (tức cô của Nguyễn An Ninh) trông coi cửa hàng may mặc trong khi trên lầu là khách sạn có các pḥng cho mướn. Cũng tương tự như nhà in “Imprimerie de l’Union” của Nguyễn Văn Của, dưới làm nhà sách, trên lầu là cho người mướn ở.


(11) Xem phụ lục 4 về quảng cáo tiệm “Viên An” bán xe đạp có đề cập đến tiệm Mottet, trên báo “L’Ère Nouvelle”.


(12) Ông Louis Ogliastro, người Pháp gốc Corse, là một trong những doanh nhân có thế lực ở Saigon trong những năm đầu người Pháp hiện diện ở Nam Kỳ Cũng như các doanh nhân người Hoa như Vạn-Ḥa (Ban-hap), Vương Thái (Wangtai), ông là hội viên của Pḥng Thương mại (Chambre de Commerce) Saigon như trong niên giám Nam Kỳ 1885, 1887 cho biết (18). Lúc đầu, ông có cơ sở thương mại trồng tiêu ở Hà Tiên (1876). Ông là đại diện lănh sự Ư ở Saigon từ năm 1887, giám đốc công ty “Société Générale de Tramways à vapeur” và chủ công ty cầm đồ (mont-de-piété) “Ogliastro et Cie.” ở số “50 Quai de l’Arroyo Chinois” (“quai de Belgique”, Bến Chương Dương ngày nay). Sau này trong thập niên 1930, công ty cầm đồ “Ogliastro et Cie.” hợp tác với công ty cầm đồ của ông Hui Bon-Hoa (chú Hỏa) thành công ty “Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie.” có trụ sở ở số 66 rue d’Alsace Lorraine (Phó Đức Chính ngày nay).


(13) Ormay là tên một bác sĩ quân y người Pháp sống ở Saigon vào cuối thế kỷ 19. Ông thường khuyên các bệnh nhân nên theo sự chỉ dẫn điều trị của ông, nếu không (như ông nói đùa) là sẽ bị chuyển xuống “Jardin d’Ormay” (tức là nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi, nay là công viên Lê Văn Tám) sớm.


(14) Địa chỉ các tờ báo ở Saigon thay đổi rất nhiều tùy qua sự thay đổi sở hữu chủ của tờ báo. Theo “Guide pratiques” (1934), địa chỉ các báo là: “L’Impartial” 64 rue Catinat, “La Dépêche” 25 rue Catinat, “L’Opinion” 146 rue Pellerin, “La Tribune indochinoise” 72 Lagrandière, “L’Alerte” 201 rue Fr. Louis, “La Presse indochinoise” 16 rue Colombert, “Le Populaire d’Indochine” 100 rue Lagrandière, “L’Annam” 73 rue Mac-Mahon.

Niên giám 1908 cho các thông tin và các địa chỉ báo chí ở Saigon: “Luc Tinh Tan Van, hebdomadiare 6 rue Krantz – Pierre Jeantet redacteur en chef”, “Nông Cổ Mín Đàm, hebdomadaire. G. Chieu redacteur en chef”, “Moniteur des provinces, hebdomadaire, langue Annamite, G. Garros directeur”, “L’Opinion, quotient independant 12e année (ancienne Semaine colonial), 13 et 15 rue Catinat”.

Sau này theo niên giám 1922, báo “l’Opinion” ở địa chỉ 146 rue Pellerin với “Lucien Héloury propietaire-directeur politique, Pierre Jeantet redacteur en chef, Albert Oudot administrateur, M. Agier, I. Isidore redacteurs”, “Courrier Saigonnais” 19e année (ancient “Courrier de Saigon”): “paraissant les lundi, mercredi, vendredi et samedi; J Ferriere Directeur, G. Moullet secretaire de redaction”.

Niên giám 1925: “L’Impartial” 25-27 Catinat (theo niên giám 1909, 1910, 1911, 1912 th́ số 17-25 Catinat là cơ sở buôn bán của ông Lacaze, và theo niên giám 1909, 1910, 1911 th́ số 29 Catinat là tiệm in và đóng sách (imprimerie-reliure ) của Hoa kiều Ki-Cheong, và niên giám 1912 th́ nơi này trở thành cơ sở in ấn và đóng sách “Nam-Tai imprimerie-reliure”). Báo “L’Impartial” hiện diện bắt đầu từ năm 1917 cho đến năm 1934 (19). Tờ báo “L’Opinion” và “Cong Luan Bao” ở số 146 rue Pellerin (nay là đường Pasteur) và số 71 Catinat (theo niên giám 1909, 1910 th́ số 65-77 Catinat là của ông Felix Delost, “maison Graf-Jacques et Cie”, một công ty nhập khẩu các đồ kim loại và có cơ xưởng cơ khí kim loại ở “quai de Khanh Hoi”, tức bến Vân Đồn ngày nay).
Nhà in người Việt đầu tiên là của ông Đinh Thái Sơn, tự Phát Toán hay Nguyễn Văn Toán, ở số 55-57 rue d’Ormay. Niên giám Đông Dương 1909 ghi “55-57. Nguyen-van-Toan, relieur” và niên giám năm 1910 ghi “55 et 57. Phat-Toan, imprimeur”. Ông Đinh Thái Sơn là người công giáo, trước đó đă làm phụ in các sách quốc ngữ tại nhà in giáo sứ Tân Định. Nhà in Phát Toán số 55-57 đường Ormay in, bán sách và bán xe máy (xe đạp). Nhà in Phát Toán đă in quyển “Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” của Nguyễn Liên Phong vào năm 1909.

(15) Amiral Dupré là đề đốc Pháp, làm Thống đốc Nam Kỳ từ 1871-1874, kế nhiệm thống đốc Nam kỳ Amiral de La Grandière, sau hai thống đốc tạm thời là Amiral Ohier và Amiral Cornulier-Lucinière. Thống đốc Dupré là người bắt đầu sự can thiệp của Pháp vào Bắc Kỳ, mà cao điểm là gởi Francis Garnier, một sĩ quan trẻ, phiêu lưu mạo hiểm đánh thành Hà Nội. Đề đốc hải quân cuối cùng làm thống đốc Nam kỳ là Amiral Lafont (1877-1879). Sau đề đốc Lafont là thống đốc dân sự đầu tiên, ông Le Myre de Villers, chính thức chấm dứt thời đại ”amiraux gouverneurs” (đề đốc làm thống đốc) của Hải quân Pháp, chủ lực trong quân đoàn viễn chinh Pháp ở Việt Nam vào thế kỷ 19.

(16) Ngoài “Pharmacie Normale” c̣n có các tiệm thuốc tây “Pharmacie Solirène” 169 rue Catinat, “Pharmacie Centrale” 197 rue Catinat, “Pharmacie de l’Indochine” 134 rue d’Espagne. Theo niên giám Đông Dương 1908, 1909, 1910, “Pharmacie Holbé” (của ông Holbé mà sau này cũng là chủ “Pharmacie Solirène”) ở số 20-22 rue Catinat, tức là ở gần công ty “Mottet et Cie.” số 24-30 rue Catinat (bên kia đường Turc) và “Grande Pharmacie Indochinoise” của ông Trombetta ở số 143-147 rue Catinat.

Tham khảo

(1) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925

(2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933

(3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.

(4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu & H́nh Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.

(5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.

(6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928

(7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.

(8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.

(9) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (Saïgon), 1917

(10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.

(11) Các h́nh ảnh từ belleindochine.free.fr, www.delcampe.net và http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/ (http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/)

(12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa (http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa) và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2 (http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2)

(13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.

(14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L' Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du Gouvernement général de l'Indo-Chine, 1906.

(15) Annuaire de l'Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.

(16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de l'industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.

(17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l'Extrême-Orient, impressions de voyage d'une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres (http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres)

(18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).

(19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.

(20) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935.

(21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.

(22) Horace Fabiani, Souvenirs d'Algérie et d'Orient, E. Dentu (Paris), 1878.

(23) Christina Firpo, personal communication.

BigBoy
04-11-2023, 02:18
Saigon – Đường Catinat đầu thế kỷ 20 – Phần 3


(Nguyễn Đức Hiệp)






Quảng trường Francis Garnier (Quảng trường Nhà hát thành phố).

http://danviet.com.au/upload/images/14(5).png

H́nh 14: Nhà hát thành phố, chụp từ gần tượng Francis Garnier. Ảnh của nhà nhiếp ảnh George Victor Planté (1847-1921). Ảnh chụp khoảng thập niên 1910. Nhà hát thành phố được bắt đầu xây vào năm 1896 qua kiến trúc được thắng giải của ông Ferret (có 3 kiến trúc sư dự thi: Ferret, Genêt và Berger). Nhà hát được khánh thành bởi thị trưởng thành phố Saigon, ông Paul Blanchy, với sự hiện diện của hoàng tử Đan Mạch Waldemar ngày 1/1/1900 (thật sự lúc đó chưa hoàn tất phải đến 1901 mới xong với tổn phí 914.940 piastres hay 2.500.275 francs) (14). Nhà hát trong ảnh chỉ hơn 10 năm từ lúc được khánh thành, v́ thế h́nh dạng và kiến trúc được coi như đúng như khi được xây xong. Cho đến ngày nay, qua hơn 110 năm, nhà hát đă được sửa nhiều lần (nhất là kiến trúc ở chính diện), vườn hai bên nhà hát hiện nay không c̣̣n.



Sự xây dựng nhà hát thành phố không được sự đồng t́nh của mọi người trong Hội đồng quản hạt và người dân ở Saigon. Họ cho rằng nhà hát nhỏ và tổn phí quá đắt khoảng 3 triệu francs chỉ chứa tám trăm chỗ ngồi (16). Ngay cả đa số trong 2500 người Âu lúc bấy giờ sinh sống ở Saigon cũng không xem nhà hát là điểm họ chú ư. Hội đồng thành phố và ông thị trưởng, Paul Blanchy, th́ lại cho rằng một thành phố lớn như Saigon th́ phải có nhà hát dùng cho hoạt động văn hóa. Đây là cảm tưởng của ông bà Jottrand đến xem vở opéra “Carmen”, đăng trong báo “La Vie Coloniale” năm 1909:


“Trong rạp đầy những người đàn ông với y phục trắng nổi bật, cho thấy một khía cạnh bất ngờ trong nhà hát. Những người đàn bà làm tăng lên quang cảnh quá sức của sự đồng phục này bằng các y phục hở cổ ngực màu đậm, thường là màu đen. Thật là một thời trang đảo lộn giữa hai phái nam và nữ. Điều này thật ra cũng có ǵ không xấu.


Một người, chỉ duy nhất một mà thôi, hút thuốc dễ nhận thấy: đầu ông ta sáng đẹp lạ, thật đáng ngưỡng mộ mà chúng tôi chưa bao giờ thấy, đúng là một tác phẩm nghệ thuật. Tôi tin là sự kiện toàn này chỉ có thể là do người làm tóc đă miệt mài phô trương.
….


Trong lúc hồi đầu (của vở opéra “Carmen”) được tŕnh diễn th́ một cơn mưa rào xảy ra, lớn đến nỗi hầu như người ta không nghe được hợp ca. Nhưng may thay những trận mưa này tuy lớn nhưng thường th́ cũng ngắn; dầu vậy th́ mùa xem hát rất là khá ḥa giải với mùa mưa”


http://danviet.com.au/upload/images/15(3).png

H́nh 15: H́nh chụp từ trước nhà hát thành phố trên đường Catinat hướng về đại lộ Bonnard khoảng đầu thế kỷ 20 (thập niên 1900). Bên trái là tượng Francis Garnier, bên phải là “Hôtel des Nations” của ông bà Pancrazi ở góc đại lộ Charner và Bonnard (104-106 Charner). Ông bà Pancrazi cũng là chủ “Café de la musique” (trong thập niên 1900) ở số 171 Catinat, góc Catinat và đại lộ Bonnard, mà sau này là “Pharmacie Solirène” và “Café Givral” (địa chỉ ngày nay là 169 Đồng Khởi, ṭa nhà này nay đă bị phá). Tại khách sạn “Hôtel des Nations”, trong thập niên 1930 theo Vương Hồng Sển (21) th́ cô Yvette Trà (tức cô Ba Trà hay Trần Ngọc Trà), một người đẹp có tiếng một thời ở Nam Kỳ Lục Tỉnh đă có trú ngụ tại đây một thời gian khi thời vận của cô gặp khó khăn về tài chánh, qua bài bạc và tăm tiếng.





http://danviet.com.au/upload/images/16(2).png

H́nh 16: Góc trái h́nh là quán “Café de la terrasse”, trên lầu quán này là khách sạn. Một “carte postale” y hệt như h́nh này, cũng của nhà kinh doanh Decoly có ghi “Saigon 1909 – rue Catinat”. Người chụp h́nh này đứng gần tượng Francis Garnier chụp đường Catinat về phía bến sông. Bên phải h́nh, đằng sau hai người Pháp và gần xe kéo là khách sạn “Hôtel de France” và công ty “Compagnie Générale d'Exportation” ở ngay góc đường Catinat và đại lộ Bonnard




http://danviet.com.au/upload/images/17(2).png

H́nh 17: Arc de Triomphe en l'honneur du Maréchal Joffre (Voir l'inscription en haut de l'Hôtel Continental). Cạnh Khách sạn Continental là “Khải hoàn môn” chào đón thống chế Joffre. Biểu ngữ trên lầu cao khách sạn là lời gởi chiến sĩ của thống chế Joffre trong trận đánh mở màn thế chiến thứ 1 : "Une troupe qui ne pourra plus avancer devra, coûte que coûte, garder le terrain conquis, et se faire tuer sur place, plutôt que de reculer" nhân dịp thống soái Joffre đến viếng Saigon vào tháng 12 năm 1921. Tạm dịch biểu ngữ là "đoàn quân khi không c̣n có thể tiến lên nữa, th́ bằng bất cứ giá nào phải giữ trận địa chiếm được, thà chết ngay ở chỗ đó chứ không lùi".)






Khách sạn Continental


http://danviet.com.au/upload/images/18(2).png

H́nh 18: Khách sạn Continental bên phải, bên trái là tiệm thuốc tây Solirène. H́nh chụp từ nhà hát thành phố khoảng thập niên 1920. Tầng dưới của khách sạn Continental là nơi tụ tập của các nhân vật có tên tuổi ở Saigon như ông Paul Blanchy, bàn của các “senateurs” vào cuối thế kỷ 19.



Khách sạn Continental được ông Pierre Cazeau xây và hoàn thành năm 1880. Khách sạn xưa có lịch sử lâu dài và nổi tiếng nhất Saigon cho đến ngày nay(17). Năm 1911, công tước (Duc) Ferdinand de Monpensier đă mua lại khách sạn này khi ông trú ngụ tại đây trong chuyến đi vượt rừng đường xa từ Saigon đến Angkor. Monpensier đă mang xe hơi vào Saigon, có thể nói là một trong những chiếc đầu tiên ở Việt Nam, để chạy chuyến đi này. Xe hơi của Monpensier khởi hành từ khách sạn Continental năm 1908 lên đường đi Angkor, một chuyến đi cam go, đầy gian nan v́ đường xá lúc đó chưa được làm cho xe hơi chạy. Ông ở lại Việt Nam một thời gian, và lúc trên đường du ngoạn khi qua Phan Thiết, ông hoàng Monpensier đă mua và xây một biệt thự trên ngọn đồi nh́n ra biển và thành phố Phan Thiết. “Lầu ông hoàng” này có máy diesel sản xuất điện riêng nên ban đêm rất sáng v́ thời đó chưa có điện nhiều ở vùng xa.


Năm 1930, Duc de Monpensier (18) bán khách sạn lại cho ông Mathieu Francini. Ông Francini, một người Pháp gốc Corse là một thương gia giao thiệp rộng. Sau khi đến Saigon, ông lập gia đ́nh với một phụ nữ Việt Nam, con một điền chủ giàu ở Nam Kỳ. V́ ông là người Corse và có nhiều bạn bè đồng hương (“Amical Corse”) ở Saigon nên nhiều người đồn rằng ông có liên hệ đến các giới giang hồ xă hội đen ở Marseille, Corse và Saigon. Tuy vậy điều này không được kiểm chứng. Ông Francini quản lư khách sạn cho đến 1964 rồi trao lại cho người con Phillip Francini tiếp tục cho đến năm 1975. Trong các thập niên 1930-1950, nhà hàng và quán café ở khách sạn Continental là nơi tụ tập của các người gốc Corse gợi nhớ lại quê hương của họ.


Tầng dưới của khách sạn, theo Niên giám Đông Dương từ năm 1907 đến 1910 là nhà sách của ông F.H. Schneider. Chính ông Schneider là người đă sáng lập ra tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” năm 1907 mà chủ bút là ông Trần Chánh Chiếu. Ông Schneider cũng đứng tên là chủ của khách sạn và cơ sở Minh Tân ở số 4-6 đường Krantz(2). Năm 1911, ông dọn khỏi khách sạn Continental đến số 22 đường Kerlan, năm 1912 đến 15 đường Chasseloup-Laubat (1912) và cuối cùng năm 1914, 1915 ở số 2 đường Kerlan và số 7 Boulevard Norodom (trụ sở báo “Lục Tỉnh Tân Văn”, ra thứ 5 mỗi tuần). Sau khi Trần Chánh Chiếu bị bắt quản lư vào năm 1908, và giam năm 1917, “Lục Tỉnh Tân Văn” bị rút giấy phép và có lẽ ông Schneider cũng bị chút rắc rối với chính quyền(19).




http://danviet.com.au/upload/images/19(2).png

H́nh 19: H́nh này có lẽ chụp vào cuối thế kỷ 19. Góc đường bên trái là “Café de la Musique”, kế bên là tiệm “La civette”. Theo niên giám Nam kỳ 1887 (5) th́ tiệm “La Civette” ở đường Catinat, do ông Ch. Montagne làm giám đốc, bán những hàng cho những người hút thuốc lá. Theo Antoine Brébion (20), th́ người lập ra tiệm “La Civette” là ông A.-William Fabre, thương gia sinh ở Bordeaux năm 1856 đến Saigon năm 1884. Ở Saigon, lúc đầu ông lập ra kho bán thuốc lá. Sau đó ông mở ra khách sạn “Hôtel de l’ Europe” ở “quai de Commerce” (bến Bạch Đằng). Fabre cũng là người lập ra tờ báo “L’Independant” ngày 14 tháng 2 năm 1893, đối lập với chính quyền thuộc địa. Fabre mất ở Saigon năm 1896. Bên phải là khách sạn Continental và nhà in (tầng dưới) “Librairie-Imprimeur F.-H. Schneider”. Đây là một h́nh quí hiếm của cảnh trung tâm Saigon khi chưa có xe cộ, với các kiến trúc nhà cửa và thiết kế đường xá đẹp.




Ngoài khách sạn “Hôtel de l’Univers” ở đường Turc, một khách sạn lớn, tiện nghi trên đường Catinat vào những năm của thập niên 1870 và 1880, trước khi có khách sạn Continental là khách sạn “Hôtel Fave”. Khách sạn Fave là nơi đầu tiên mà những viên chức quân, dân sự từ Pháp mới đến Saigon làm việc hay lập nghiệp đến tạm trú ngụ trước khi kiếm được nhà riêng. Theo ông Arthur Delteil (20), nhà dược học người Pháp, ghi lại (7) khi ông đến Saigon năm 1882 th́ khách sạn Fave gồm 3 tầng: tầng trệt là nhà ăn có các quạt “panca” trên trần nhà, hai tầng trên là các pḥng, mỗi pḥng đều có nước “robinet” và ṿi xen (một tiện nghi lúc bấy giờ). Khách sạn được ông Fave xây, và với sự thành công của khách sạn, ông đă trở nên giàu có khi trở về Pháp(21).


Cũng theo ông Delteil th́ khách sạn Fave ở trên đường Catinat, chiếm hầu hết không gian giữa đại lộ Bonnard và đường Espagne. Đối diện với khách sạn Fave là pḥng bán đấu giá các bàn ghế, giường tủ... rất tiện lợi cho những ai muốn có hay mướn được nhà riêng đến để mua trang bị cho nhà mới. Hiện nay vẫn chưa xác định chính xác được “Hôtel Fave” ở đâu (ở vị trí cũ của khách sạn Continental, góc đường Catinat và đường Espagne hay cạnh đó ?). Cũng theo ông Delteil, trước khi có nhà hát thành phố th́ nơi diễn kịch, ḥa nhạc “concert” là ṭa nhà ở trên đường Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) đối diện với quảng trường mà ông gọi là “Rond-Point”. Trong thời gian ông viếng Nam Kỳ năm 1882, ông chứng kiến và đă phụ giúp điều trị bệnh nhân trong trận dịch tả (cholera) lớn làm chết 20 000 người ở các tỉnh thành Nam Kỳ trong ṿng 3 tháng vào năm 1882.


Cạnh khách sạn Continental, số 134 rue Catinat theo niên giám Đông Dương 1900 là tiệm của nhà nhiếp ảnh J.P. Trong (Jean-Pierre Trong). Theo Niên giám Nam Kỳ (Annuaire de la Cochinchine, 1891 et 1892) th́ ông J.P. Trong trước đó là người được nhà nhiếp ảnh Louis Talbot mướn làm trong pḥng nhiếp ảnh của ông Talbot. Sau này khi ông Talbot rời Saigon đi Noumea (Nouvelle Caledonie, Tân Đảo) làm ăn, th́ tiệm nhiếp ảnh này được giao lại cho ông Trọng.


Niên giám Đông Dương (1905 đến 1909) không thấy đề địa chỉ 134 rue Catinat mà chỉ đề địa chỉ 136 rue Catinat là của nhà nhiếp ảnh nghệ thuật, Mme (bà) Terray. Như vậy có thể là vài năm sau, th́ bà Terray đă thay thế ông Trọng tại cơ sở này và địa chỉ đă được đổi từ số 134 đến số 136. Và đến năm 1910 th́́ cơ sở nhiếp ảnh này là của nhà nhiếp ảnh Ludovic Crespin, người đă chụp và để lại nhiều bức ảnh đẹp và quí giá về Saigon. Cạnh tiệm ảnh, số 138 đến 142 Catinat là tiệm thuốc tây của ông Joseph Cormod (theo niên giám 1908, 1909, và năm 1910 là của ông Dourdon). Và số 144 đến 148 là tiệm tạp hóa “bazar Hôtel de Ville” của ông Charles Garçon (1908, 1909).



Cuối đường Catinat

Bên kia đường Catinat gần khách sạn Continental, giữa đại lộ Bonnard và đường Espagne (Lê Thánh Tông ngày nay), ta sẽ thấy quang cảnh như sau (h́nh 20).

http://danviet.com.au/upload/images/20(1).png

H́nh 20: Ảnh sưu tập của Roger, do Voiry chụp (khoảng 1908-1916) (1) – Tiệm coiffeur (làm tóc, cắt tóc) phía trái h́nh có thể là tiệm của ông Mondin ở số 173 Catinat (theo niên giám Đông Dương 1908, 1909, của ông Ernest theo niên giám 1910). Theo niên giám 1910, kế tiệm tóc ở số 173bis là cửa hàng của ông Poujade de Ladevèze, một nhà buôn sản xuất các ảnh cartes postales. Đi ngược lại chút, số 171 là “Café de la Musique” của ông bà Pancrazi (đến 1910 th́ theo niên giám là của ông bà Hollinger). Như vậy là h́nh chụp về hướng nhà thờ Đức Bà và người chụp đứng ở khách sạn Continental. Đi lên chút nữa về hướng nhà thờ Đức Bà, kế tiệm hớt tóc, nơi mấy người Pháp trong h́nh tụ tập là tiệm của ông Poujade de Ladevèze, tiệm đổi tiền người Ấn Aboubaker (số 175) và quày (comptoir) điện lực và bán súng đạn đi săn và tiệm nữ trang của Luc-Bai (số 175bis) mà sau này là tiệm sách của ông A. Portail (nhà sách Xuân Thu ngày nay).




Cạnh quày điện lực, ở số 177 và 177bis là tiệm nữ trang Ky-Yun-Hing Ky và tiệm đổi tiền người Ấn. Số 179 Catinat là tiệm bách hóa tổng hợp “Omnium français” của ông bà Emile Gadault (do ông Armand Diebold đứng tên, “fondé de pouvoir”, niên giám 1908). Nơi đây sau này được xây lại trong đó có rạp Eden cinema (179 rue Catinat, địa chỉ trong “Guide pratique” năm 1934 của rạp Eden là 183 Catinat) của ông Frasseto và Sicé. Tại rạp Eden này, vở cải lương đầu tiên dựa theo hài kịch phương Tây “V́ nghĩa quên nhà” (do Lê Quang Liêm và Hồ Biểu Chánh soạn) được tŕnh diễn ngày 11/9/1917. Theo niên giám Đông Dương 1922 th́ hai ông Frasseto và Sicé c̣n là chủ rạp Petit-Eden (đường Tổng Đốc Phương, Cholon), rạp Eden ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques), Hôtel Frasseto et Sicé, Hôtel Victoria (c̣n gọi là “Hôtel de l’Univers”, 1 rue Turc, Saigon), khách sạn “Continental Palace” và khách sạn “Grand Hôtel du Cap” (Cap Saint Jacques).


Kế cửa hàng “Omnium-français”, số 181 là cửa hàng bán và sửa nhạc cụ của bà quả phụ Barret. Và cạnh đó, số 183-185 là tiệm làm tóc và cắt tóc của ông bà Langlois.


Tại ngă tư đường Catinat và đường Espagne (Lê Thánh Tôn ngày nay), từ đường Catinat phía bên trái đi về hướng nhà thờ Đức Bà, băng qua đường Espagne là ṭa nhà nơi cư ngụ của viên chỉ huy trung đoàn 3 (Hôtel du général commandant de la 3ème brigade). Đi lên chút nữa về hướng nhà thờ là trụ sở của tờ báo “L’Opinion” ở số 187-189 (niên giám 1910) và kế đó là tiệm quần áo, may mặc của ông bà C. J Tournier (số 191-197 Catinat).



http://danviet.com.au/upload/images/21(2).png

H́nh 21: Đường Catinat nh́n từ cuối đường về hướng bến Bạch Đằng. Bên phải là số 225 nơi ở của quản lư ngân khố, ông Gros (1910), Bên trái số 164 Catinat, theo niên giám 1905-1906 là nơi thu ngân địa phương (recette locale) và từ năm 1907-1911 là nơi ông bà Descourtis, thâu ngân đặc biệt (receveur spécial) tọa lạc (niên giám 1907-1911). Và từ năm 1912 trở đi là “Trésor public” (Kho bạc, nha ngân khố). Sau này ṭa nhà ngân khố trở thành bót cảnh sát của an ninh (la Sûreté) sau khi kho bạc mới được xây ở đại lộ Charner, ngay vị trí chợ Cũ trước kia.



Gần cuối đường Catinat, ở số 199-203 (1906), 201-205 (1907, 1908) là “Hôtel des ventes” hay “Salle des ventes”, nơi đây bán đấu giá các hàng không c̣n dùng của chính phủ cho công chúng. Bà Louise Bourbonnaud tả nơi này như sau (17):


“…Trước pḥng đấu giá (Hôtel des ventes), một người bản xứ đang dùng hai tay đánh trống. Đây có một ít màu sắc bản địa rồi. Tôi đi đến gần và biết được rằng “người đánh trống” viễn đông báo cho mọi người biết là sẽ có đấu giá trong giờ. Thế là tôi đi vào trong. Những đồ bán đấu giá cho công chúng có đủ các loại: ly chén, bàn tủ, giường, đồ dùng trong nhà, dụng cụ đủ loại. Ở đây không có ǵ đáng thật sự để tôi tranh dành mua đấu giá…


À, kia ḱa, một lô dụng cụ nhạc sẽ làm thích thú giúp vui trong chuyến đi của tôi. Chỉ nghĩ tới, sở hữu dụng cụ âm nhạc mua được ở Saigon th́ thật là hào hứng ! Nhưng lô đấu giá này chắc phải được bán sau cùng, người cảnh sát nói cho tôi biết khi tôi hỏi ông ta; nếu vậy th́ tôi c̣n th́ giờ, tôi sẽ trở lại trong chốc lát…
Khi ra khỏi nhà thờ, tôi nghĩ đến trở lại pḥng đấu giá; nhưng khi tôi đến th́ lô dụng cụ âm nhạc đă được bán rồi. Thật là tiếc. Lúc này ở pḥng đấu giá là lúc mà người ta bán các con ngựa và các xe ngựa và tôi thấy một cỗ xe ngựa rất đẹp mà một viên đại úy mua được với một số tiền đấu giá là một trăm mười đồng piastres”.


Số 154 Catinat, theo niên giám 1905, 1906 là “Bureau de la 3ème brigade et du point d’appui de la flotte Saigon Cap St-Jacques”, số 156 Catinat là nơi ông Finet, “capitaine de l’infanterie coloniale” (đại úy bộ binh thuộc địa) cư ngụ, và số 158 là “Contrôle des contributions directes, verification des poids et mesures” (kiểm tra đo lường). Đến năm 1910 th́ 154 Catinat trở thành “Service administratif”, 156 là trụ sở công ty “de Pommerey et Cie, Carbuse et Calcium”.


Số 160 Catinat theo niên giám 1905, 1906 là ṭa nhà “Direction de l’Enseignement” (nha giáo dục) nơi ông giám đốc M. de Cappe ở. Số 162 Catinat theo niên giám 1905, 1906 là “Cadastre et topographie” (nha địa dư), đến năm 1912 là “Commissariat central de police” (trụ sở trung ương cảnh sát) do ông M. Lecoeur lănh đạo. Và ṭa nhà cuối cùng ở đường Catinat là “Trésor public” (Nha ngân khố) ở số 164 Catinat.


Đến đây chúng ta sẽ thấy Nhà thờ Đức mẹ (Notre-Dame) ngay giữa công trường nhà thờ (tức công trường công xă Paris ngày nay) và Bưu điện thành phố. Trước nhà thờ Đức mẹ là tượng của giám mục d’Adran (Bá Đa Lộc) và hoàng tử Cảnh. Vị trí của nhà thờ Đức bà xưa kia chính là trung tâm của thành Phiên An (thành Quy).


Đằng sau nhà thờ là tượng của nhà chính trị gia Pháp, ông Gambetta (8). Từ tượng Gambetta, nếu đi thẳng lên sẽ gặp bồn nước (chateau d’eau) cung cấp nước cho thành phố. Nước được bơm lên từ giếng lấy nước ngầm dưới ḷng đất bằng một máy chạy bằng hơi nước lên bồn chứa cao (7). Đây là điểm cao của thành phố, một vị trí thuận tiện để phân phối nước.



Tổng Luận


Sau khoảng 40 năm từ khi người Pháp đến chiếm Saigon, thành phố này đă có một sự thay đổi hầu như toàn diện về kiến trúc và thiết kế. Chỉ có thành phố Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20 là vẫn c̣n hầu như nguyên vẹn như đầu thế kỷ 19. Saigon trở thành thành phố qui hoạch và có kiến trúc như các thành phố ở Pháp.


Cuối thế kỷ 19 đến cuối thập niên đầu của thế kỷ 20 là thời b́nh an và thịnh vượng của nước Pháp và ở các thuộc địa, thời kỳ mà từ lúc Hội chợ thế giới 1900 ở Paris mở màn cho thấy có nhiều phát minh kỹ thuật thay đổi cuộc sống xă hội ở nhiều nơi trên thế giới như xe hơi, phim ảnh, diesel, đèn điện, điện thoại, điện tín, máy bay... Đây là thời kỳ gọi là “Belle Epoque” ở Âu châu hay “Gilded Age” ở Mỹ, với sự đua nở phát triển các phong trào, trào lưu mới trong nghệ thuật, âm nhạc, ballet, hội họa như hậu ấn tượng, biểu tượng, hiện đại... “art nouveau” trong kiến trúc. Ở Đông Dương, nói chung kinh tế phát đạt và chính trị ổn định cho đến đầu thế chiến thứ nhất và các kiến trúc đặc trưng thời đệ tam cộng ḥa được xây dựng như nhà hát thành phố Saigon, nhà hát Hà Nội, ṭa nhà Đấu xảo cho Hội chợ quốc tế (Đấu xảo) ở Hà Nội năm 1902 nơi có nhiều nước tham dự, các ṭa nhà trên đường Catinat...


Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ 20, cảnh quan của đường phố Catinat nói riêng và của thành phố Saigon nói chung thay đổi nhiều làm diện mạo của nó khác đi rất nhiều so với cảnh quan tŕnh bày trong bài này, chỉ c̣n nhà hát thành phố và khách sạn Continental là c̣n sót lại từ đầu thế kỷ 20 trên con đường Catinat, tức Đồng Khởi ngày nay. Con đường lớn hơn và cũng thay đổi nhiều hơn là đường Nguyễn Huệ (Charner), hầu như chỉ c̣n ṭa nhà Hải quan (nhà ông Vương Đại thế kỷ 19) và ṭa Ngân khố ở đầu đường là c̣n, ṭa Ḥa giải (Justice de paix) bị phá gần đây để xây cao ốc Sun Wah.


Trong cơn lốc xây dựng cao ốc ở Trung tâm Saigon trong các năm gần đây, thay v́ ở các khu ngoại biên và qui hoạch thiết kế đô thị với mục tiêu thương mại lợi nhuận là chính yếu, với yếu tố văn hóa và cảnh quan không được coi trọng để ư đến th́ hậu quả về lâu trong tương lai sẽ có nhiều mất mát. Kinh nghiệm ở nhiều xă hội ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy kư ức và dấu ấn văn hóa lịch sử có giá trị nhiều hơn đồng tiền và vật chất hiện đại.

(Nguyễn Đức Hiệp)




Chú thích:


(17) Đường Catinat từ bờ sông bắt đầu với khách sạn “Hôtel de la Rotonde” là số 2 rue Catinat, cho đến “hôtel Continental” ở số 132 rue Catinat. Địa chỉ hai địa điểm này vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay, chỉ khác tên đường. Ngoài hai khách sạn này, vào đầu thế kỷ 20 c̣n có các khách sạn khác trên và chung quanh đường Catinat như: “Hôtel de France” 157 Catinat, “Hôtel de l’Univers” 1 rue Turc, “Hôtel des Nations” 104 b. Charner, “Hôtel de marine” 1-7 Paul Blanchy, “Hôtel de Bretagne” 35-37 b. Charner.

(18) Ngoài ông hoàng de Monpensier (1908) và hoàng tử Đan Mạch Waldemar (1900) đến viếng thăm Saigon, trước đó c̣n có hoàng tử Henri d’ Orleans, vừa là nhà nhiếp ảnh và thám hiểm, đă đến Hà Nội và Saigon trong thập niên 1890 (mất ở Saigon năm 1901 v́ bệnh sốt rét) và các hoàng gia khác được biết nhiều sau này trong lịch sử thế giới đă đến Saigon như hoàng tử Nga, Nicolas II (sau này là sa hoàng cuối cùng của Nga mất sau cách mạng tháng 10) đến thăm năm 1891 và hoàng tử Miến Điện Mingoon (hay Myinkun, 1866-1921), lưu vong sau chính biến ở kinh đô Mandalay năm 1866, đến và sống ở Saigon cho đến khi mất (20/09/1921).

(19) Ông F.H. Schneider là người Pháp cởi mở tiến bộ, nhưng anh rể ông, Henry Chavigny de Lachevrotière, lại là một thực dân bảo thủ. Ông F.H. Schneider về sau c̣n thiết lập cơ sở in ở Hà Nội, in các tập san nghiên cứu của trường Viễn Đông Bác Cổ, và nhiều sách nghiên cứu về Đông Dương (Cam Bốt, Lào và Việt Nam). Ông giúp Nguyễn Văn Vĩnh học nghề in, xuất bản và quảng cáo và cùng với Nguyễn Văn Vĩnh lập ra nhà in “Phổ Thông Giáo khoa Thư xă” (13). Quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên trong văn học chữ quốc ngữ Việt Nam “Phan Yên ngoại sử, tiết phụ gian truân” của Trương Duy Toản (người trong phong trào Minh Tân) cũng do nhà in Schneider in năm 1910.

(20) Ông Delteil là một nhà dược học của hải quân Pháp (pharmacien principal de la Marine), ông có tác phẩm nghiên cứu khoa học mà cho đến nay vẫn c̣n được tham khảo và vừa được tái bản, đó là: quyển “La canne à sucre” (cây mía). Ông làm việc ở Trung Mỹ, nghiên cứu về cách trồng mía, các thành phần hóa học của các loại mía, các bệnh sâu mọt của cây mía, khí hậu và đất thích hợp... và đă thử nghiệm trồng mía ở các nơi trong đó có Saigon. Tại đây người Pháp đă thành lập một trại trồng thí nghiệm gọi là “Nouvelle Espérance” trong cách đồng mả (plaine des tombeaux), tức trong khu vực đường cách mạng tháng 8 và đường 3/2 ngày nay. Ngoài ra c̣n có trại thử nghiệm ở Biên Ḥa và “Lacan” ở Đồng Nai (nơi có nhà máy làm đường của ông Michelot). Theo ông Delteil đất ở Saigon và vùng Nam bộ không thích hợp cho loại mía có năng xuất cao và cho nhiều đường như các nơi khác và về phương diện kinh tế th́ trồng mía rất cực và khó khăn ít có lợi so với lúa gạo và các cây khác nên người Việt không để tâm đến và v́ thế không thành công được ở Nam Kỳ như người Pháp mong muốn.

(21) Ông Delteil ghi trong sách ông là “Hôtel Favre” nhưng theo Niên giám Nam Kỳ thuộc Pháp (“Annuaire de la Cochinchine française”) các năm 1879, 1880, 1881 th́ có ghi là “Hôtel Fave” (khách sạn Fave) trên đường Catinat chứ không phải Favre. Và người điều hành khách sạn là ông A. E. Fave (hôtelier, restaurateur). Đến năm 1881 th́ khách sạn Fave là do ông Laval quản lư và niên giám năm này có ghi ông A. E. Fave làm bánh ḿ (boulanger) ở đường Catinat và đường Bonnard. Như vậy th́ ông Delteil đă ghi lầm Fave thành Favre. Theo ông Fabiani (22) trong hồi kư xuất bản năm 1878 th́ khách sạn “Hôtel Fave” (ghi đúng là Fave) là khách sạn tiện nghi, đẹp, có vườn và thiết kế qui củ. Các pḥng đều rộng răi, có nước, pḥng tắm. Khách sạn do ông Élisée Fave thiết kế và được xây bởi các ông Bazin, Cazaux và Salvaire dưới thời của chuẩn đề đốc (contre-amiral) Duperré trên một nền đất đầm lầy mà mọi người cho là khó xây dựng được. Niên giám Nam Kỳ 1876 ghi các ông François Bazin là thầu (entrepreneur), ông Cazeaux là thợ thiếc (ferblantier) và ông Salvaire làm đèn (lampiste) trên đường Catinat.



Phụ lục

(1) Các địa chỉ thương mại của Hoa kiều trên đường Catinat (theo niên giám Đông Dương 1908, 1909)

Tailleurs (tiệm may):


A-Hong 61 rue Catinat, A-Hôi 43 rue Catinat, Luong Da 3 rue Catinat, Luong-Tich 8 rue Catinat, Luong-Cau 18 Catinat, Ly-Can 48 Catinat, Ly-Quoi 50 Catinat, Luong-Thao 54 Catinat, Luong-Boi 59 Catinat, Ngo-Thoai 6 Catinat, Quang-Can 51 Catinat, Tran-Phuoc 63 Catinat, Tran-Hoa 57 Catinat, Tran Thuan dit A-Hoai 85 Catinat, Tran Phu 3 Catinat, Truong Anh 60 Catinat, Thoi-Thiem 12 Catinat, Dang-Chuong 61 Catinat, Duong Kim 12 Catinat, Duong-Hua 42 Catinat, Hua-Ung 63 Catinat, Huynh-Thoai 51 Catinat, Huynh-Trong 52 Catinat, Huynh-Xuong 56 Catinat, Huynh-Tuong 64 Catinat, Hua-Nu 5 Catinat, Ly-Nhu 14 Catinat, Tran-An 16 Catinat, Truong-Binh 37 Catinat, Tran-An 42 Catinat, A-Houai 55 Catinat.

Horlogers (đồng hồ):


A-Cuu 120 Catinat, Au-Thien 45 Catinat, Lu-Nhien 58 Catinat, Luong-Ngu 111 Catinat, Luc-Vien 87 Catinat, Luc-Phu 85 Catinat, Ly-Yen 45 Catinat, Ngô-Kim 101 Catinat.

Bazars (tạp hóa), epicerie, mercerie:


A-Hi 99 Catinat, A-Sui 113-117 Catinat, A-koune 90-92 Catinat, Soa-a-Pan, Sina et Cie 157bis Catinat.

Bijoutiers (nữ trang):


Ho-Thanh 44 Catinat, Luc-Kinh 58 Catinat, Tran-Thai 83 Catinat, Ngo-Kim 101 Catinat, Kong-cheong-Seng (có lẽ là người Hoa từ Singapore hay Mă Lai) 35 Catinat.

Các nghề khác:


Ki-Cheong, imprimerie-reliure (in và dán sách) 29 Catinat, Lam-hiong-Long, chinoiseries 31 Catinat, Nam-Tai imprimerie-reliure 49 Catinat.



http://danviet.com.au/upload/images/22(8).png

H́nh 22: Một tiệm tạp hóa của người Hoa. Ảnh của nhà nhiếp ảnh George Victor Planté (1847-1921). Planté bắt đầu sự nghiệp nhiếp ảnh vào năm 1893. Qua kỹ thuật ảnh và chất lượng ảnh so với các ảnh khác của Planté, ta có thể đoán bức ảnh này chụp rất sớm khoảng đầu thập niên 1900.


(2) Các cơ sở thương mại người Ấn trên đường Catinat (1908)


Changeur de monnaies:


Mougamadancany 1 Catinat, Mougamadanaly 1bis, Checmedine 1bis, S. P. Tambiravanttar 89 Catinat, K. Adabakar 95 Catinat, K. Oudoumanesah 119bis, Sababady 157 Catinat, Condassamy 159 Catinat, Aboubaker 175 Catinat, Mougamadoucamy 177bis Catinat, Bavena-Oumersah, Vevena-Assengamy 179 Catinat, Mougamadoumeidine 199 Catinat.

Marchand de Bombay:


Chortimal 38-42 Catinat, Wassiamul 44-46, Netharan 60-62 Catinat


http://danviet.com.au/upload/images/23(2).png

H́nh 23: Tiệm đổi tiền của người Ấn, mà người Pháp gọi là Chettys (Chệt theo tiếng Việt). Ảnh của nhà nhiếp ảnh Planté, chụp khoảng đầu thập niên 1910.



(3) Địa chỉ các cơ sở và các nhà nhiếp ảnh ở Saigon (theo “Guide pratiques”, 1934)


“Khong Minh” 118 b. Albert 1er, “My Dung” 113 b. Albert 1er, “Phuoc Tuong” 21 rue Am. Courbet, “Antoine Giau” 45 b. Bonnard, “Khanh Ky” 54 b. Bonnard, “Morise” 70 b. Bonnard, “Artista Photo” 76 b. Bonnard, “Photo Nadal” 118 rue Catinat, “Nguyen Duyen” 138 rue Catinat, “Innovat Photo” 155 rue Catinat, “Studio Catinat” 158c Catinat, “Catinat photo” 217 Catinat, “In-Ich” 78 b. Charner, “Yiem Yung” 81 b. Charner, “I. Dong” 93 b. Charner, “Nguyen v. Thuan” 120 rue d'Espagne, “Ha Van” pl. Francis Garnier, “Modern Photo” pl. Francis Garnier, “Dakao Photo” 10 rue Martin Palliere, “Marina Photo” 5 rue Paul Blanchy, “Le Van Hau” 11 rue Vannier, “Nam Tan Loi” 74 rue Vannier, “Photographie (fournitures generales pour): Nadal” 118 rue Catinat, “Depot Kodak” pl. Francis Garnier, “Agence Commerciale de Saigon” 68 rue Pellerin).


Trong giai đoạn đầu, ông Nadal trú ngụ ở cơ sở thương mại ảnh số 150 rue Catinat. Trong niên giám 1922, Nadal ở số 120 rue Catinat (sau này mới dọn đến địa chỉ số 118 như trên), và ông Paullussen ở số 10 đại lộ Charner (Saigon photo). Cũng vậy, nhà nhiếp ảnh Ludovic Crespin trong giai đoạn đầu trụ tại số 19 và 134 đường Catinat (niên giám Đông Dương 1909). Trong thập niên 1910-1920, Ludovic Crespin có văn pḥng ở 136-138 rue Catinat và 10 đại lộ Charner (cùng chỗ với Paullussen). Sau này trong thập niên 1930, số 138 là của nhà nhiếp ảnh Nguyễn Duyên thay thế ông Crespin và vào cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, số 136-138 “photo studio” trở thành cửa hàng của nhà nhiếp ảnh Paul Gastaldy.


Một nhà buôn bán, nhưng cũng sản xuất các “cartes postales” xưa và quí thuở ban đầu ở Saigon là bà quả phụ Wirth. Theo niên giám Đông Dương 1897 (phần Nam Kỳ) (15) th́ bà “Mme Veuve Wirth, marchand en détail” ở số 59 Catinat. Niên giám 1905, 1906 bà Wirth “epicerie art. de luxe Au Gagne Petit” (bán hàng cao cấp của cửa hàng Au Gagne Petit, lúc bấy giờ là nơi bán hàng nổi tiếng ở Paris) ở số 120 Catinat ; và niên giám 1907, 1908, bà “Mme Vve Winth, commerçante” ở số 128 Catinat. Ngoài ra trong giai đoạn này c̣n có nhà nhiếp ảnh Joseph Brignon ở 319 đại lộ Bonnard và nhà nhiếp ảnh Lê Văn Ba, có cửa tiệm ở số 95 Charner (theo niên giám 1908), nơi đây ông Ba cũng bán xe đạp và làm bánh ḿ (boulanger).



http://danviet.com.au/upload/images/24(1).png

H́nh 24: Photo-Studio 136 rue Catinat của nhà nhiếp ảnh Crespin, kế bên khách sạn Continental (chính giữa h́nh). H́nh chụp hướng về quai Francis Garnier (bến Bạch Đằng). H́nh chụp khoảng đầu thập niên 1920.

BigBoy
04-11-2023, 02:23
Saigon – Đường Catinat đầu thế kỷ 20 – Phần 3 (Tiếp theo)


(Nguyễn Đức Hiệp)




(Tiếp phần 3)

(4) Một vài quảng cáo...


...trên báo “L’Ère Nouvelle” (28/8/1926) của luật sư Phan Văn Trường, tiệm “Viên An”, “Phong cảnh khách lầu” của ông Nguyễn Phong Cảnh (nơi này hiện nay là di tích về buổi họp đầu tiên, tháng 8 1929, của Đảng Cộng sản Annam do Châu Văn Liêm sáng lập), và các quảng cáo của người Hoa, Pháp và Ấn. Cách hành văn và ngữ pháp đầu thế kỷ 20 có nhiều khác biệt với ngày nay. “Lục châu” là tên người Hoa dùng để chỉ Lục tỉnh (6 tỉnh) Nam Kỳ, và người Hoa cũng tự gọi họ là “Tàu” như người Việt thời đó và cho đến trước 1975 từ này vẫn được dùng để chỉ Hoa kiều. Boulevard Bonhoure sau này là đường Khổng Tử và ngày nay là đường Hải Thượng Lăn Ông. Đường Mac-Mahon nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, đường Fipippini là Nguyễn Trung Trực và Ohier là Tôn Thất Thiệp. Chúng tôi giữ nguyên văn, kể cả chính tả, của các quảng cáo dưới đây :




*“Về việc kiện tụng


Các đồng bào hể khi nào có việc kiện thưa chi, trước hết nên tới Saigon đường Mac-Mahon, số 116
Hỏi ông trạng sư
Phan Văn Trường
Nguyên trạng sư ṭa thượng thẩm thành Paris
Ông sẽ nói trước cho biết việc ấy hay dở thế nào, và chỉ cách cho mà theo, khỏi lầm đường và khỏi tốn công tốn của.”




*“Viên An


Boulevard Bonhoure No. 14
Bán sỉ và bán lẻ
Bán xe máy hiệu BRILLANT tốt nhứt và nhiều thứ hiệu khác
Đồ phụ tùng theo xe máy đủ thứ và giá rẻ


Bổn hiệu mới lại thứ xe “BRILLANT” thiệt tốt mà chắc lắm. Có hơn 20 năm danh tiếng trong Nam kỳ. Khi trước nhà Mottet trử bán. Thứ xe nầy thiệt nhẹ nên mới ra đua kỳ nào cũng có ăn hết. Hôm ngày 14 Mars 1926 đua trên Plate 5000 th́ Thiên (Maurice) ăn hạng nhứt, Xuân hạng nh́. Hôm 21 Mars chạy 2000 thước Xuân ăn hạng nhứt, c̣n chạy 5000 thước th́ Thiên (Maurice) hạng nh́. C̣n kỳ vô địch 2000 thước hôm ngày 28 Mars th́ Thạch ăn hạng nhứt, hết thảy cũng đều cởi xe “BRILLANT” có đủ thứ màu.


Xin quí vị đến bổn tiệm xem chơi cho biết.


Ở Lục-tỉnh có muốn mua sỉ hay là mua lẻ viết thơ thương nghị. Và có trữ đồ phụ tùng nhiều lắm.”




*“Phong Canh Khach Lau


Angle des boulevard Bonnard et rue Filippini


Chambres confortablement meublées, propres, aérées, 2e et 8e étages. Ascenseur. Douche et W.C. dans tous les chambers. Personnel discipliné.


Nguyen-Phong-CANH, Propriétaire”


(Ère Nouvelle, 28/2/1928)






*“Thiệt rất tiện và lại có lợi


Là thứ đèn cầy hiệu “SAM-KONG” đốt không khói, mà ít hao, không có mùi như các thứ khác, c̣n sự sang ít thứ sánh cho bằng; nhưng vậy mà giá lại rẻ.


Xin quí vị ai có dùng xin nài cho được thứ đèn cầy hiệu “SAMKONG” đỏ hay trắng th́ thấy sự lợi nhiều.
Bán sĩ và bán lẻ tại hảng Lucien Berthet & Cie ở đường Mac-Mahon môn bài 66 và tại các nhà hàng cùng tiệm chạp-phô toàn trong cỏi Đông-Pháp.


Ba hiệu: h́nh thánh giá. Hai trái đất. Hai sư tữ cầm trái đất.


SAMKONG CANDLES FACTORY”




*“Thợ làm đồ nữ trang


A.– Chanh


Đường Ohier, số 7, Saigon


Bổn hiệu có thợ thiện-nghệ, lảnh làm đũ kiểu đồ nữ-trang bằng vàng và hột xoàn theo kiểu kim thời. Công việc làm đă kỷ lại tinh-xảo hơn các nơi. Quí khách đến viếng bổn-hiệu và xem công cuộc của bổn-hiệu sắp đặt đặng toại ḷng. Tính giá thiệt nhẹ.




“Đồ sứ và đồ sành


Kính tŕnh lục-châu quí-khách đặng rỏ: bổn tiệm thân tự chuyên bán các thứ đồ sành và đồ sứ ở tỉnh Giang-tây (1) bên Tàu đem qua. Đồ cổ-ngoạn có kim-thời có, cũng có huê thảo nhân vật thứ th́ bông ch́m, thứ th́ bông nổi v.v. Những đồ nầy càng dùng lâu ngày càng tốt không hề xuống màu.


Tiệm chúng tôi bán giá hạ hơn các nơi là bởi bổn-tiệm chúng tôi mua cất tại chổ làm. Vậy xin lục châu quí khách các ngài mô muốn chưng dọn trong nhà cho sang trọng, vườn cảnh cho ngoạn nhỉ mục, đồ ăn thức đựng cho lịch-sự xin hẩy dời gót lại hiệu Phúc-Xương-Hằng số nhà 22 đường hẻm Gialong Chợlớn, chúng tôi hết ḷng hoan nghinh


Phúc-Sương-Hằng Tư Trang
Kính Cáo”




*“Wishwanath Bazar
Naraindas Thadharam & Cie
Commercant du Bombay
Quai de Vinh-Phuoc. — SADEC
CÁO BẠCH


Kính cùng lục-châu quí bà đặng rỏ. Bổn hiệu có mở một ngôi hàng rất lớn, bán rông các thứ hàng lụa trong toàn cầu: như hàng Tây, hàng Nhựt-bổn, hàng Huê-kỳ, hàng Bombay và hàng Bắc đũ kiểu và đũ màu.
Hàng của bổn hiệu thiệt, rộng tin những đồ thương hạng rất chắc và rất đẹp của mấy hảng có danh tiếng bấy lâu nay bên Âu-mỹ.


Bổn hiệu buôn bán rất thật thà và người của bổn hiệu dùng bán rất nên khuôn phép, tuy là người Bombay chớ ở xứ Nam đă lâu rồi nên lời ăn nói rất nên lể nghĩa và chẳng hề xăo trá. C̣n giá cả th́ tính rất phải chăng, chớ không phải như mấy tiệm khác đâu.


Bổn hiệu cũng chuyên gởi hàng đi Lục-tỉnh, như quí ông quí bà không thể đến tiệm đặng, xin cứ viết thơ th́ bổn hiệu cũng vui ḷng mà hồi âm lại cùng muốn mua chi bổn hiệu cũng gởi lập tức.
Bổn hiệu gởi đồ không tính tiềng chở chuyên, đều về phần bổn hiệu chịu că.
Như quí ông quí bà có diệp chi đi Sadec xin ghé tiệm tôi một khi th́ mới rỏ.
Vài lời thành thật xin quí ông quí bà chiến cố.
NAY KÍNH”
(Ère Nouvelle, 11/01/1927)



Tham khảo


(1) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925

(2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933

(3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.

(4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu & H́nh Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.

(5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.

(6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928

(7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.

(8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.

(9) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (Saïgon), 1917

(10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.

(11) Các h́nh ảnh từ belleindochine.free.fr, www.delcampe.net và http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/

(12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa (http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa) và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2

(13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.

(14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L' Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du Gouvernement général de l'Indo-Chine, 1906.

(15) Annuaire de l'Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.

(16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de l'industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.

(17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l'Extrême-Orient, impressions de voyage d'une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres

(18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).

(19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.

(20) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935.

(21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.

(22) Horace Fabiani, Souvenirs d'Algérie et d'Orient, E. Dentu (Paris), 1878.

(23) Christina Firpo, personal communication.

vi sao le loi
05-11-2023, 11:59
Lạc mất Sài G̣n

Sài G̣n ơi cư xá Lữ Gia

Buỗi trưa hè nắng qua kẽ lá

Đường đất đỏ mịt mờ bụi khói

Buỗi chiều đi qua ngỏ vắng xa



Bờ dậu leo kín cỗng cao tường

Ngôi biệt thự ẫn ḿnh trong gió

Đêm về b́nh an trong tiếc nhớ

Tôi t́m lại Sài G̣n xưa xa



Tuỗi thơ đánh mất nơi sân ga

Con thuyền định mệnh theo sóng biễn

Giửa đêm lạnh sóng gào thét dử

Tôi xa măi những nhọc nhằn qua



Sài G̣n ơi bốn mươi năm qua

Nơi xứ người tôi nhớ thiết tha

Sài G̣n dịu dàng thướt tha quá

Tôi hẹn Sài G̣n ngày không xa .



Perth Đông Chí

Freezing winter

XV

Nguồn https://vuonthotaongo.org/index.php?/forums/topic/5265-l%E1%BB%9Di-ru-t%C3%ACnh/page/3/#comments