PDA

View Full Version : Những gián điệp làm sụp đổ miền Nam



BigBoy
11-08-2023, 14:31
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2023/08/portfolio-696x426.jpg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2023/08/portfolio.jpg)


Khi viết về cuộc chiến Việt Nam, hầu như tất cả những Sử Gia chính trực đều cho rằng nguyên nhân thất bại của miền Nam là do Mỹ phản bội, Mỹ bán đứng miền Nam cho Trung Cộng, Mỹ bật đèn xanh cho Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Mỹ buộc Tổng Thống Thiệu kư bản hiệp định Paris là bản hiệp ước có lợi hoàn toàn cho Bắc Việt, Mỹ cho rút hết quân Đồng Minh trong khi lại để cho quân Bắc Việt trụ lại miền Nam, Mỹ không thi hành lời hứa “một đổi một” thay thế vũ khí và đạn dược đă bị hư hỏng và đă sử dụng hết…Trong khi đó, th́ các trang lịch sử của Mỹ v́ bị ảnh hưởng bởi dư luận phản chiến lại ghi nhận rất tệ về miền Nam như “các tướng lănh đều tham nhũng, không muốn đánh giặc, binh sĩ th́ bỏ chạy trước khi quân địch tới…” (1)


Thật sự, c̣n một nguyên nhân khác rất quan trọng nhưng được ít người nhắc tới: Một trong những nguyên nhân đưa đến sự thất bại của miền Nam Việt Nam là bị nạn “gián điệp nằm vùng”. Những gián điệp nằm vùng này “leo sâu, trèo cao”, “giả mù sa mưa”, lặn trong các cơ quan quân sự, hành chánh để lấy các tin tức mật rồi chuyển cho Bắc Việt, để Hà Nội dựa theo các báo cáo đó mà chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm miền Nam.


Để có thể được một tầm nh́n tổng quát về sự kiện “gián điệp” này, tác giả đă tổng hợp vắn tắt nhiều bài nghiên cứu được phổ biến công khai trên mạng Internet, hy vọng tạo được một bài viết có tính chính xác cao, giải mă một số sự kiện liên quan đến việc Việt Nam Cộng Ḥa bại trận.


Có nhiều loại gián điệp: gián điệp quân sự, gián điệp chính trị, gián điệp tôn giáo, và gián điệp văn hóa. Thực sự, bất cứ gián điệp nào cũng là “những kẻ bán linh hồn cho quỷ”, “ăn cơm Quốc Gia, thờ Ma Việt Cộng”, “tội đồ của dân tộc” đáng xử chém ngang lưng, tuy nhiên, trong các loại gián điệp này th́ gián điệp văn hóa là nguy hiểm hơn cả, v́ đă gây được những ấn tượng rất sâu sắc trong tâm hồn người miền Nam, và ảnh hưởng của các tác phẩm đó lại tồn tại rất lâu cho đến ngày hôm nay, sau 48 năm, vẫn c̣n nhiều người tỏ ra thích thú đọc, nghe, xem các tác phẩm của các tay gián điệp văn nghệ ấy. Ngược lại, các gián điệp loại khác th́ lộ diện sau 1975 và trở thành những kẻ “hết thời”, bị chế độ mới nghi ngờ, vất bỏ; một số c̣n bị đi cải tạo.


1)Gián điệp quân sự:


-Dương Văn Minh, cấp bậc Đại Tướng, có thời gian làm Quốc Trưởng, Đại Sứ Lưu Động, rồi cuối cùng là Tổng Thống, có người em là Dương Văn Nhựt (Ba Nhật, Mười Ty), Đại Tá Quân đội Cộng Sản. Với bản tính phản phúc từ khi giết chủ tướng là Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm (2), Dương Văn Minh đă không ngần ngại liên lạc với người em ruột này nhiều lần, và chia sẻ thông tin với Dương Văn Nhựt không ít th́ nhiều những tin tức liên quan đến hệ thống quân đội và các phương án dự định. Theo nhiều nguồn tin, sau cuộc chính biến 1963, th́ Nhựt đă đến nhà Minh và đ̣i thả toàn bộ các trí thức, sinh viên thân cộng bị bắt. V́ thế mà đến gần ngày 30 tháng 4 năm ấy, Dương Văn Minh đă tỏ ra rất hoan hỉ khi tuyên bố với các nhân vật thân cận là ông ta đă liên lạc được với “bên kia” và tin chắc là sẽ có những biện pháp biến miền Nam thành một nước Trung Lập. Nếu không thường xuyên liên lạc với miền Bắc, làm sao mà “Big Minh” tin tưởng như thế. Tuy nhiên, một điều mà “Big Minh” không hiểu, đó là âm mưu chiếm miền Nam đă manh nha từ lâu, dưới sự chỉ đạo của Trung Cộng, th́ môt Đại Tá Quân Đội Nhân Dân không nghĩa lư ǵ với đại cuộc. Minh đă bị lừa cay đắng.


-Nguyễn Hữu Hạnh, cấp bậc Chuẩn Tướng, đă cung cấp tin tức về tất cả mọi cuộc chuyển quân quân trọng cho Bắc Việt, và là người thúc giục Dương Văn Minh đầu hàng sớm. Cũng như “Big Minh” đă bị lừa, những ngày cuối đời của Hạnh là một cái lều trong xó nghĩa địa. Sống ngu, chết khổ.


-Thượng Sĩ tài xế của Tổng Tham Mưu Trưởng, nguyên là cán bộ t́nh báo Việt Cộng.


-Trung Úy, Chánh Văn Pḥng của Tướng Tổng Cục Trưởng Quân Huấn, sau 1975, được chụp h́nh đăng báo Saigon Giải Phóng và được khen ngợi là đă “hoàn thành nhiệm vụ do quân Giải Phóng giao phó.”


2)Gián điệp chính trị:


Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Vơ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Vơ Thị Tố Nga, Phan Công Tŕnh, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn.


Số phận của những tay gián điệp này không khá. Theo nguyên tắc chính trị của Cộng Sản: “Thà bắn lầm hơn bỏ sót”, cho nên sau 1975, họ đă phải trải qua môt giai đoạn thanh lọc căng thẳng rồi cũng bị vất bỏ như rác rưởi. Phạm Xuân Ẩn mất nhiều năm mới được dùng tạm. Vợ Huỳnh Tấn Mẫm bị gài bẫy buôn thuốc phiện, bị bắt. C̣n tất cả những tên kia hầu như không thấy xuất hiện huyênh hoang như hồi nào.

Ngoài những tên gián điệp nổi bật trên, Cộng Sản Việt Nam đă cài cắm vào hệ thống chính quyền cao cấp:


-Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thuư và Phạm Ngọc Thảo (bị T́nh Báo VNCH bắt và chết trong tù)


-Đại úy Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha Cảnh Sát Quốc Gia Đô thành (người được Dương Văn Minh phong chức)


–Đặng Trần Đức, chuyên viên cao cấp trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo Việt Nam Cộng Ḥa


Về Lập Pháp có các dân biểu:


-Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Lư Quư Chung, Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Hàm (tổ chức “Phong Trào Cứu Đói” và “Kư giả đi ăn mày” chống đối chế độ, và Đinh Văn Đệ (Chủ tịch Ủy ban Quốc Pḥng Hạ Viện. Đă từng giữ chức Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt và Tỉnh trưởng B́nh Thuận.) Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận chủ trương tờ Tin Sáng, chỉ sau 1975 môt thời gian ngắn, bị đóng cửa.


-Phạm Thị Thanh Vân, tức bà Ngô Bá Thành, chuyên viên quậy đường phố Saigon, được ngồi chơi, xơi nước trong quốc hội bù nh́n.


3)Gián điệp Tôn giáo:


-Ni sư Huỳnh Liên, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng, chuyên viên biểu t́nh.


-Thượng Tọa Thích Trí Quang, người từng vào Cục R nhận nhiệm vụ phá hoại miền Nam, Thủ lănh vụ Biến Động Miền Trung, từng yêu sách lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu v́ cho rằng Thiệu là Công Giáo. Trí Quang lập ra Nhóm xung kích, chiếm giữ thành phố, bắt giam Thị Trưởng, rồi tấn công đốt phá hai làng Công Giáo là Thanh Bồ, Đức Lợi, giết nhiều dân Công Giáo. Trí Quang cũng là thủ lănh vụ mang bàn thờ Phật xuống đường chống đối chính quyền.


-Thích Nhất Hạnh, người bỏ ra hàng trăm ngàn đô la đăng báo Mỹ, tố cáo Mỹ bỏ bom giết 300,000 dân Mỹ Tho, khi đó chỉ có chưa tới 30,000 dân. “Hồi c̣n chiến tranh Việt Nam, để kích thích phong trào phản chiến, Thiền sư đă bịa chuyện nh́n thấy trực thăng Mỹ sà xuống đồng ruộng bắt gái quê đem đi hiếp.” (Theo Facebook Minh Anh Jessica (https://www.facebook.com/groups/481680882876269/user/100056674285907/?__cft__%5b0%5d=AZX6fbOVchgIrwAQyQvfAhdbhvkyReqOFQ rohdECO71Vzjx7gSiqYHJBE8YBN9U-V8uAyoXGB8g8hXTQYf7myoHzzjB4CYB0WLwyyDFLtUzDicvAPL DbWpnyZc0Cks5vOy1_xwm003gfRH58KO5H3K2g&__tn__=-UC%2CP-R)). Chính Thích Nhất Hạnh đă đội mũ vàng, ngồi xe vàng, dưới lọng vàng như một Hoàng Đế, dẫn gần 200 tăng ni từ Mỹ về, đi cầu siêu khắp Việt Nam, để lấy tiếng là Việt Nam có Tự Do Tôn Giáo, làm cho Mỹ có cớ rút tên CSVN ra khỏi CPC, cho vào WTO, và Hội đồng Bảo An LHQ, rồi vào Ủy Ban Nhân Quyền. Những ngày cuối đời, Thích Nhất Hạnh lại về VN để chết trong cô đơn, tủi nhục.


4) Gián điệp Văn Nghệ;


-Kim Cương, Nghệ sĩ, sau 1975, lộ diện là Thiếu tá Công An, bắt buộc các văn nghệ sĩ phải gia nhập hàng ngũ của y thị. Người nào mà y thị không ưa, mà tỏ ra chống đối, th́ y thị báo cáo cấp trên để bắt nhốt. Kim Cương từng du lịch sang Mỹ nhưng không dám lộ diện v́ sợ bị ném đá.


-Họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành. Theo Trúc Giang, Huỳnh Bá Thành là “hung thần của các văn nghệ sĩ miền Nam”. Trúc Giang viết: “Ngày 30-3-1984, vào buổi sáng, Hoà thượng Thích Trí Thủ, chùa Già Lam, Phú Nhuận, được mời lên văn pḥng Mặt Trận Tổ Quốc. Ḥa thượng được cho nghe cuộn băng, ghi tiếng nói của một tăng sinh bị bắt về “tội phản động”. Tăng sinh đó khai, Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ, Thượng toạ Thích Trí Siêu, và ni cô Thích Trí Hải là những người trong ban lănh đạo của một tổ chức phản động, mưu đồ lập chiến khu gây bạo động.. Trong khi Ḥa thượng Trí Thủ ở văn pḥng Mặt Trận Tổ Quốc, th́ tại chùa Già Lam, hai Thượng tọa Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị bắt. Đồng thời, ni cô Trí Hải cũng bị bắt từ Hố Nai, đưa về trung tâm thẩm vấn và tạm giam, ở số 4 đường Phan Đăng Lưu.

Vài ngày sau đó, Ḥa thượng Trí Thủ bị chết bất đắc kỳ tử. Thông tin nước ngoài cho rằng ông bị ám sát. Trong đợt hành quân lớn, 19 tăng, ni, cư sĩ khác cũng bị bắt, giam đến ngày 30-9-1988, (4 năm) mới đưa ra ṭa xét xử.Hai Thuợng tọa Thích Tuệ Sĩ và Thích Trí Siêu bị ṭa kết án tử h́nh. Hai án chung thân dành cho hai cư sĩ Phan Văn Ty và Tôn Thất Kỳ. Hoà thượng Thích Đức Nhuận lănh án 10 năm. Các vị khác bị từ 4 đến 15 năm”.


Cũng theo Trúc Giang:


“Ngày 2-4-1984, một vụ nổ lớn dữ dội tại tháp Hồ Con Rùa, ở ngă tư Duy Tân – Trần Quư Cáp, thuộc khu vực nhà thờ Đức Bà, quận1, Sài G̣n. Báo nhà nước quy kết tội phá hoại, một người trong số chủ mưu thiệt mạng, và những người khác bị bắt.

Sau vụ nổ, hơn 200 văn nghệ sĩ, nhà văn, giáo sư, bị bắt đi tù. Người chỉ huy, điều động bắt bớ cũng chính là họa sĩ Ớt, tên Huỳnh Bá Thành, bí danh Ba Trung. Những nhân vật nổi tiếng như Vũ Hoàng Chương, Doăn Quốc Sĩ, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Sĩ Tế… Đặc biệt, Nhă Ca là nhà văn nữ duy nhất có tên trong danh sách “Mười Biệt Kích Cầm Bút”(BKCB) bị cầm tù trong cuộc hành quân lớn của công an Sài G̣n. Mười “BKCB” gồm có: Doăn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhă Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, Khuất Duy Trác, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Trần Ngọc Tư và Lư Thụy Ư.”


Trúc Giang quên không đề cập đến Nhà Văn Dương Hùng Cường, tự Dê Húc Càn, từng bị tù cải tại Cà Tum (3). Sau khi được thả, lại bị bắt trong vụ Biệt Kích Cầm Bút, rồi bị giết trong tù.


-Nhà Văn Vũ Hạnh:


Theo “Bảo Tàng Văn Học”: https://baotangvanhoc.vn/giai-thuong-nha-nuoc/dot-2-giai-thuong-nha-nuoc/nha-van-vu-hanh-1926-2021/


Nhà văn Vũ Hạnh tên khai sinh là Nguyễn Đức Dũng. Ông sinh ngày 15 tháng 07 năm 1926 tại xă B́nh Nguyên, huyện Thăng B́nh, tỉnh Quảng Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Khi sáng tác, ông dùng nhiều bút danh khác nhau: Vũ Hạnh, Hoàng Thanh Kỳ, Minh Hữu, Nguyên Phủ… Ông mất ngày 15 tháng 08 năm 2021 tại Thanh phố Hồ Chí Minh…Nhà văn Vũ Hạnh sinh trưởng trong một gia đ́nh nho học. Học xong tú tài đôi ở Huế th́ Nhật đảo chính Pháp, nhà văn Vũ Hạnh về quê tham gia Việt Minh, hoạt động trong Đội vơ trang tuyên truyền, là thành viên Ủy ban Tổng khởi nghĩa huyện Thăng B́nh. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là trưởng đoàn kịch Thăng B́nh, giáo viên dạy văn, rồi tham gia đoàn văn nghệ Thanh niên xung phong Liên khu V.Năm 1955, ông tham gia đấu tranh đ̣i hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng B́nh rồi nhà lao Hội An. Trải qua 5 lần bị địch bắt, chịu sự tra tấn trong quá tŕnh hoạt động, ông vẫn bền bỉ đấu tranh.Vũ Hạnh là cán bộ văn hoá Khu uỷ Sài G̣n – Gia Định, hoạt động công khai ở nội thành Sài G̣n (hoạt động đơn tuyến). Trong hoàn cảnh viết trên sách báo công khai dưới chế độ ở miền Nam, ông đă có cách viết khéo léo để vẫn đưa được những thông điệp tiến bộ đến quần chúng mà không bị kẻ thù đàn áp.Sau năm 1975, ông làm Tổng thư kư Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh. Trưởng ban văn hoá Nhật báo Giải phóng, uỷ viên Chủ tịch đoàn Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Hồ Chí Minh.


–Nhà Văn Vũ Bằng:


Theo Tiền Phong: https://tienphong.vn/vi-sao-nha-van-vu-bang-sau-1975-khong-ra-bac-post1240674.tpo


Nhà văn Vũ Bằng di cư … Thời gian lang thang măi ở Sài G̣n có một thời khắc đáng kể đáng nhớ là lần gặp lại bà Quỳ người vợ từ thuở tao khang lặn lội tận ngoài Bắc vào Sài G̣n năm 1956. Đôi guốc ngày ấy bà Quỳ trở ra Bắc có tài liệu của Vũ Bằng giấu trong đó gửi ra cho tổ chức! Và thời điểm nữa là gặp được bà Phấn; khi ấy, Long, con riêng của bà đă 4 tuổi!


Trong thời gian bà Phấn chạy tàu th́ ông chủ, nhà văn kiêm cựu điệp viên Vũ Bằng cùng anh cháu Hồng Phấn nhà báo cách mạng đi bỏ mối thuốc Tây…Tôi cố h́nh dung trong câu chuyện của Long những năm đơ đỡ, thời gian mà các báo các nhà xuất bản thường đến com măng chữ nghĩa với Vũ Bằng, trên căn gác này cứ chiều thứ bảy bao giờ cũng có một cuộc nhậu nho nhỏ. Khi th́ những Tạ Tỵ, Thượng Sĩ, chú Chinh – tức Ba Hội (người chứng sau này cho Vũ Bằng có mối dây với t́nh báo cách mạng) những cây bút Sài G̣n một thời như L. H Dương như B.Đ Trung… chuối xanh khế chua mắm tép hay mắm sống với thịt ba chỉ hay gị heo luộc là những thứ ba em với bạn của ba ưa nhậu. ….


Một vật lấp lánh phía góc căn gác. Tấm Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba của Chủ tịch nước Trần Đức Lương kư tháng 12 năm 2000 tặng thưởng cho nhà văn Vũ Bằng về thành tích điệp báo nằm vùng.


Theo Chúng Ta: https://www.chungta.com/nd/nhan-vat-van-hoa/vu_bang.html


Sau năm 1954, Vũ Bằng vào Sài G̣n tiếp tục viết văn, làm báo. ông làm việc tại Việt Tấn Xă và cộng tác với nhiều tờ báo. Ông chuyên về dịch thuật nhiều hơn sáng tác. Đặc biệt với “cái ăn” ông viết rất tuyệt vời: Miếng ngon Hà Nội(bút kư, 1960),Miếng lạ miền Nam(bút kư, 1969) và trong Thương Nhớ Mười Hai(hồi kư, 1972). Cuối năm 1948, trở về Hà Nội, bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng lưới t́nh báo cách mạng. Năm 1954, được sự phân công của tổ chức, ông vào Sài G̣n, để lại vợ và con trai ở Hà Nội (năm 1967, bà Quỳ qua đời) và tiếp tục hoạt động cho đến 30/4/1975. V́ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây liên lạc, măi đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt động cách mạng và được truy tặng huân chương nhà nước.

Ông mất ngày 7/4/1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 70 tuổi. Ngày 13/2/2007, Vũ Bằng đă được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Tháng 3/2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 – Bộ Quốc pḥng Việt Nam đă có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.


Với danh sách kể trên (chắc chắn c̣n thiếu sót), chứng tỏ Miền Nam Việt Nam là một chế độ Nhân Bản, đầy t́nh Người, tuy biết là có Cộng Sản nằm vùng nhưng vẫn không tiêu diệt hẳn như trong chế độ Cộng Sản, mà chỉ giam tù, rồi lại thả ra. Đặc biệt là có sự can thiệp của các lănh đạo Công Giáo là những người tu hành mà xắn tay áo chống Cộng, nhưng không có “đa mưu, túc trí” về chính trị nên đă bảo lănh cho các tay gián điệp “gộc” ra và c̣n trọng dụng, khiến cho chúng có cơ hội báo cáo những điều tuyệt mật của Miền Nam cho Cộng sản Bắc Việt. Như trường hợp Phạm Ngọc Thảo được Giám Mục Ngô Đ́nh Thục đỡ đầu, dần leo lên đến Tỉnh Trưởng, rồi tổ chức đảo chánh nhiều vụ. Vũ Ngọc Nhạ được ḷng Linh Mục Hoàng Quỳnh và Giám Mục Lê Hữu Từ, nên đă leo lên đến đỉnh chóp bu của hệ thống chính quyền miền Nam. Lê Hữu Thúy, và Huỳnh Văn Trọng cũng tương tự như thế: được ḷng các tu sĩ Công Giáo là những người lúc nào cũng lấy ḷng Bác Ái mà che chở. Vũ Hạnh đă bị bắt nhiều lần và được bảo lănh ra về nhờ Linh Mục Thanh Lăng.


Về phía chính quyền miền Nam cũng luôn tỏ ra rộng lượng với đối phương. Ngô Bá Thành và Ni sư Huỳnh Liên là hai tay tổ chống đối chế độ, khi biểu t́nh, đả đảo chế độ, cũng không bị đàn áp. Cảnh Sát chỉ yên lặng bao quanh, có lần Ngô Bá Thành xông đến giật mũ một viên Cảnh sát ném xuống đất, đạp chân lên th́ viên Cảnh sát chỉ cười, cúi xuống nhặt mũ lên. Các cuộc biểu t́nh Phật Giáo cũng thế. Hàng trăm Cảnh sát chỉ đứng nh́n, không người nào sử dụng dùi cui để đánh đập những người chống chính phủ. Hoàng Phủ Ngọc Tường tổ chức biểu t́nh, giơ tay gào thét chống chế độ, th́ không thấy an ninh nào túm tóc, lôi về. Trịnh Công Sơn từng vào cục R, nhận lệnh viết nhạc phản chiến làm suy giảm tinh thần chiến đấu của binh sĩ, cũng không bị săn đuổi, nhốt giam. Nhiều tay phản chiến gộc cũng được nhà cầm quyền làm lơ, giả như những người này mà ở miền Bắc th́ chắc chắn là phải vào ngục Lư Bá Sơ để sống với gịi bọ, rồi chết dần. Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa thực sự là một chính phủ của Dân, do đó đă có nguyên một Bộ Chiêu Hồi, Dân Vận để giúp đỡ cán binh Việt Cộng cải tà, quy chính.


Đó là cái Lợi của miền Nam, đă chứng tỏ đầy Chính Nghĩa, nhưng cũng là cái Hại cho chế độ. Thông thường, có 4 phương pháp trị Dân: Nhân trị, Pháp Trị, Pháp-Nhân Trị và Độc Trị. Trong Ḥa B́nh th́ dùng Nhân Trị để giúp dân Hạnh Phúc. Khi bị Xâm Lăng, th́ dùng Pháp Trị để luật lệ nghiêm minh. Lúc có phản loạn nội bộ th́ áp dụng Pháp-Nhân trị, vừa dẹp tan phản loạn vừa tha thứ kẻ hối lỗi. C̣n Độc Trị là phương pháp khát máu đă được áp dụng từ các nước man di, mọi rợ, đến Tần Thủy Hoàng và các vua chúa thời Phong Kiến, rồi đến Lenin, Stalin, Hitler, Mao Trạch Đông, và Hồ Chí Minh cùng một số quốc gia Hồi Giáo quá khích.


Với Việt Nam, từ 1954, miền Bắc dùng Độc Trị để hành dân, ngược lại, tại Miền Nam, dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm dùng Nhân Trị để giúp dân Hạnh Phúc. Nhưng v́ Nhân Từ quá, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă chết chỉ v́ thương và nuôi một lũ rắn độc trong nhà. Rắn Chúa Dương Văn Minh, sau khi cắn chết Chủ rồi, th́ chưa hả cơn giận, nên phá đổ các công tŕnh của Chủ, trong đó có Chính Sách Ấp Chiến Lược là một chương tŕnh thành công lớn, tách biệt Cộng sản ra khỏi các xóm làng. Minh vừa cho dẹp chính sách này, th́ Việt Cộng ào vào các làng xóm như ong vỡ tổ, đặt cơ sở trên khắp mấy chục tỉnh thành, chuẩn bị chiếm hết miền Nam. Sau đó th́ các lănh tụ sau này, lúng túng, điều hành đất nước theo kiểu “cuốn theo chiều gió”, “mưa chỗ nào, chắn chỗ đó”, không hẳn là Nhân trị, cũng không hẳn Pháp Trị, cho nên không đối đầu được với chính thể Độc Trị của miền Bắc, cũng như không thể cứng rắn với Đồng Minh, v́ thế bại trận là điều không thể tránh khỏi, cho dù Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa anh hùng đến cỡ nào chăng nữa.


Theo lẽ, một khi biết được Đồng Minh nhất định bỏ rơi, th́ phải áp dụng Pháp Trị, co cụm lại để đánh giặc. Khi không thể tiếp tục Trận Địa Chiến được v́ thiếu đạn dược th́ phải đổi chiến thuật, Du Kích đánh Du Kích. Trên hết, phải tận diệt Gián Điệp, cắt mọi nguồn thông tin của miền Bắc. Rất tiếc, lănh tụ Việt Nam Cộng Ḥa không phải là Tướng Tài, thấy Đồng Minh dọa giết như đă từng làm với Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, vội nhắm mắt kư bản hiệp định 1973, dọn đường cho Cộng Sản tiến vào Saigon, sau lại bầy ra 2 chiến thuật lẩm cẩm: “Triệt thoái Tây Nguyên” và “Đầu to, đít teo” để cuối cùng cả nước đều “teo” vào Tháng Tư Đen.


Tiếc thay, số phận đă an bài.


Chu Tất Tiến,


Ngày 8 tháng 8 năm 2023.




(1) Trong lớp học về Sử Việt Nam tại Cal State University Fullerton, vị giáo sư nói thao thao về lư do miền Nam thất trận: “The reason was that most of Vietnam Generals were corrupted. They didn’t like to fight against the Communists regardless the USA supported them wholeheartedly… 58,000 US soldiers died at Vietnam… The Nam soldiers ran before their enemies..” Cá nhân người viết bài này, khi đó là Sinh viên, đă phẫn nộ đứng lên chống lại những lư luận sai lầm của vị giáo sư bằng những chứng minh cụ thể, khiến cho vị giáo sư bực bội, bỏ ra khỏi lớp. Sau đó, ông ta suy nghĩ lại và trở lại, xin lỗi người viết.
(2) Dương Văn Minh, Trung Úy lính Tây, cải sang Quân đội VNCH được thăng lên Đại Úy, rồi Thiếu Tá, Trung Tá. Tổng Thống Diệm đă thăng cấp cho Minh lên Đại Tá, rồi cũng Tổng Thống Diệm thăng Minh lên Thiếu Tướng. Cuối năm 1956, Tổng Thống lại thăng Minh lên Trung Tướng. Sau khi giết Tổng Thống Diệm, Minh được nhóm phản loạn thăng lên Đại Tướng, rồi tự phong ḿnh làm Quốc Trưởng. Tháng 4/1975, Minh lại nhận làm Tổng Thống để bàn giao miền Nam cho Cộng Sản Miền Bắc. (Nhận xét: Dương Văn Minh là kẻ tham vọng, bất kể đạo đức, nên Trời không cho giữ chức chưởng lâu. Làm Quốc Trưởng được 3 tháng, Tổng Thống được 2 ngày.)
(3) Dương Hùng Cường ở tù cải tạo cùng với người viết. Sau khi trại tù chiếu phim “Em bé Hà Nội” cho tù cải tạo xem, th́ buộc Cường phải đứng dậy cho ư kiến. Cường b́nh tĩnh phê b́nh phim này tàn tệ. Sau đó vài ngày, một buổi sáng, một tên gác thúc mũi súng vào Cường, bắt dọn đồ đi… không biết đi đâu, chắc để tra tấn.. Thời gian sau, với vụ Biệt Kích cầm bút, Cường bị bắt lần 2 và chết trong tù, bạn tù cho biết là bị cai tù giết chết?

Quada09
11-08-2023, 16:17
Để rộng đường dư luận, mời bà con xem bài dưới đây để biết thêm Chu tất Tiến, một "trí thức" Ki-tô giáo, hoài Ngô cực ḱ !



Chu Tất Tiến “nổ” như tạc đạn !

Tạc đạn không mất tiền mua…

Đọc đoạn văn “NỔ” dưới đây của Chu Tất Tiến tôi tưởng từ Hồ Chí Minh với chuyện từ chối làm Bộ Trưởng của Pháp cũng không nổ bằng, tác giả chuyện tṛ Lê Văn Tám tẫm xăng cùng ḿnh chạy cả trăm thước đến kho xăng của Pháp tại Thị Nghè rôi mới quẹt diêm đốt cháy thân ḿnh để đốt cả kho xăng, hay chuyện một con rắn h́nh thù bằng ngón tay cái, nhưng dài đến mấy cây số. Nó gặp con voi đang rượt một thợ săn, con rắn vội vàng dùng thân ḿnh quấn quanh 2 chân trước con voi, rồi quấn luôn 2 chân sau, mỗi chân hằng mấy trăm bận, v́ thân nó dài cả cây số. Thế rồi nó uốn ḿnh nghe cái “rắc”, con voi ngă xuống nằm vật trên đất. lúc đó con rằn mới chun đầu vào đít con voi, cắn lung tung nào gan, nào mật, nào thận…, mỗi lần con rắn cắn một miếng, con voi lại hộc lên đau đớn. Con voi la lên thảm thiết như muốn nói “tha cho tôi, tha cho tôi, tôi không dám vô lễ với chủ của ngài nữa”. Nhưng đă muộn, con voi chỉ chịu được mười mấy phút rồi chết ngay cẳng cuốc. Nạn nhân chứng kiến từ đầu chí cuối lúc đó mới cám ơn con rắn rối rít. Xây qua bên trái, thấy một thiếu phụ vừa trẻ, vừa đẹp đang cho con bú. hắn ta vội vàng một tay đè lên bầu vú đang phun sữa của thiếu phụ, một tay xô miệng thằng bé ra khỏi vú mẹ rồi hỏi nó: “mạng tao có lớn không, mậy?” Thằng bé không trả lời, nhưng xây mặt về mẹ mếu máo: “Cái ông này giành bú vú của con”! Người mẹ đang ngồi vội đứng dậy tống cho “nạn nhân” một đạp, trúng chỗ nhược hắn lăn quay ra đất, ôm 2 quả đạn rên la thảm thiết”.

Quư độc giả thấy chuyện này có nổ bằng chuyện Chu Tất Tiến khảo “oral” 3 vị tướng lănh của Hoa Kỳ hay không? Xin ghi lại khúc phim Chu Tất Tiến hạch oral để quư vị so sánh:

“Năm 1967-1968, tôi (Chu Tất Tiến-chú thích của Kiêm Ái) đang theo học lớp Sĩ Quan Bộ Binh Hoa Kỳ tại Trường Sinh Viên Sĩ Quan Lục Quân Hoa Kỳ, (Infantry Officer Candidate School) tại Fort Benning, Georgia. Sau khi vụ Mỹ Lai xẩy ra, bộ chỉ huy Trường cho tổ chức một buổi nói chuyện về chiến tranh du kích và những điều kinh dị của cuộc chiến này do Cộng Sản chủ trương, nhằm xoa dịu tinh thần sinh viên đang lo lắng về sự kiện Mỹ Lai cũng như để bảo vệ cho tên Trung úy William Calley đă giết hơn 500 thường dân vô tội. Tôi ngồi nghe mà ḷng phẫn nộ bừng bừng, v́ h́nh ảnh được các phóng viên báo Times, Life hay các tuần báo khác chụp c̣n tràn đầy trong óc tôi, với những thân xác nằm ngổn ngang, máu chẩy đầy hầm, hào, các tấm h́nh trẻ em đang chạy bỗng nằm vật ra bên đường và cảnh một tên lính Mỹ cầm cái xàng bằng tre đang cháy dở ném lên nóc nhà tranh…Vậy mà mấy ông Tướng này c̣n lảm nhảm bênh che! Đợi cho ông Tướng cuối cùng phát biểu xong, tôi đứng bật dậy, nói lớn theo đúng kỷ luật quân trường:

“Sir, Candidate Tien requests permission to speak!” (Thưa Ngài, sinh viên Tiến xin phép được nói!).

Ông Tướng hất hàm: “Speak!” (Nói đi!).

Tôi đặt câu hỏi: “Thưa Trung Tướng, ngài đeo đầy ngực huy chương Việt Nam, chứng tỏ Ngài có nhiều kinh nghiệm chiến đấu ở Việt Nam. Vậy tôi xin hỏi: Khi ông Tướng dẫn quân vào một làng lạ, làm cách nào để biết ai là dân thường, ai là Việt Cộng?’

Ông Tướng trả lời: “Theo tôi, th́ tôi cho người kiểm tra thẻ căn cước (ID), ai không có căn cước, người đó là Việt Cộng!”

Tôi đốp liền: “Thưa Ngài, sai! Có rất nhiều dân làng không có nhu cầu đi lại, nên không bao giờ làm căn cước cả! Trong khi đó, nếu là Việt Cộng, chúng có thể mua một cái căn cước giả rất dễ dàng! Nếu ngài lôi mấy người không có căn cước ra mà bắn, th́ Ngài đă phạm một đại tội là giết người vô tội.”

Thấy tôi nói hung quá, một ông Tướng ngồi bên cạnh giơ tay:

“Theo tôi, th́ tôi cho nổi trống làng lên, triệu tập mọi người trong làng lại, ai không ra, th́ là Việt cộng!”

Tôi phẫn nộ: “Thưa Ngài, cũng sai! Theo phong tuc Việt Nam, các già làng được tôn trọng và có giá trị cao. Họ không thích bị điệu ra tŕnh diện người ngoại quốc! Nhiều thiếu nữ, phụ nữ cũng thế, họ rất ngại phải ra gặp mấy ông râu ria xồm xoàm..Như vậy, nếu Ngài buộc họ là Việt Cộng th́ ngài sai lầm vô cùng!”

Ông Tướng thứ ba ú ớ: “Ờ! ờ…tôi cho gọi vài đứa trẻ hay thiếu niên nào trong làng có vẻ thân thiện, làm quen với chúng, cho chúng tiền và quà để hỏi chỗ Việt Cộng núp!”

Cơn giận của tôi càng tăng lên: “Thưa Ngài, sai quá là sai! Mấy đứa con nít cũng có tính xấu, nếu nó ghét sẵn ai, th́ chỉ cho người đó là Việt Cộng! C̣n việc núp dưới hầm th́ cả Việt Cộng lẫn dân thường đều làm hầm núp đạn. Thế là các ngài đă bắt hoặc bắn lầm người rồi! Tôi xin nói một lời cuối cùng: với tinh thần như thế, th́ trước khi các ngài đến một làng nào đó, chỉ có khoảng 50% là Việt Cộng, nhưng sau khi các ngài rời nơi đó mà đi, th́ cả làng trở thành Việt Cộng v́ họ thù ghét các ngài!”

Nói xong, tôi ngồi xuống, mặt c̣n đỏ bừng và run rẩy. Máu người Việt Nam ḿnh bị đổ ra oan uổng quá chỉ v́ người Mỹ không chịu học hay áp dụng Chiến Tranh Tâm Lư, không thèm để ư đến phong tục và tập quán của người Việt! Xe cam nhông của lính Mỹ cán chết người hoài. Lính Mỹ ôm ấp gái điếm làm tṛ bỉ ổi giữa chốn công cộng…Những điều đó làm cho Việt Cộng dễ dụ dỗ dân lành theo chúng…” (Ngưng trích).

Chu tất Tiến nói dốc không căn. Hắn không biết rằng không bao giờ trong một trận đánh mà tướng lănh lại “dẫn quân vào một làng lạ”. Chu Tất Tiến không biết vị trí của một tướng lănh ở đâu trong cuộc hành quân! Thế mà cũng bày đặt. Nếu Chu Tất Tiến hỏi một hạ sĩ quan, trung sĩ hay hạ sĩ th́ nghe được. Chính những cấp bậc này mới “dẫn quân vào một làng lạ”. Tướng lănh hoặc ngồi tại Bộ Chỉ Huy, có sĩ quan chỉ bản đồ, báo cáo t́nh h́nh từng phút, có máy truyền tin, có phụ tá, có sĩ quan liên lạc, có cận vệ, có… đủ thứ tiện nghi để chỉ huy, nếu cần thị sát mặt trận th́ tướng cũng lên trực thăng nh́n xuống trận địa, chứ tướng nào mà dẫn lính vô làng? Tướng đó là tên Chu Tất Tiến nói dốc không xong.

Chu Tất Tiến chê tướng lănh Hoa Kỳ không biết “tâm lư chiến”, không biết làm sao mà phân loại giữa du kích và thường dân, nhưng, qua 3 câu mà Chu Tất Tiến “dạy” các tướng lănh cũng trật lất, cũng chưa biết phải làm sao, dù là chuyện hoang tưởng do ḿnh đưa ra.

Sau Tết Mậu Thân, “chiến dịch B́nh Định” được khởi phát, kẻ viết bài này là một hạ sĩ quan đă tham gia một cuộc hành quân giải tỏa và b́nh định. Từ sáng tinh mơ, Quân đội đă bao vây 4 mặt một ngôi làng là đối tượng b́nh định. Cơ quan chiến tranh chính trị, cũng như ban thông tin xă ấp loan báo: “Xin đồng bào b́nh tỉnh, dây là Quân Đội Quốc Gia đến đem lại an ninh trật tự cho đồng bào. Xin tất cả đồng bào hăy ra khỏi nhà, đến tập trung tại đ́nh làng. Ai bệnh tật, đau yếu sẽ có bác sĩ, y tá chăm sóc v.v… Ai không ra khỏi nhà và chống cự, quân đội sẽ áp dụng biện pháp mạnh. “Không có ai dám ở lại trong nhà, v́ đây là thời chiến chứ không phải đi coi hát mà ai muốn đi th́ đi, ai muốn ở nhà th́ ở nhà. Đến nơi, đàn ông trai tráng tập trung riêng, đàn bà, ông già bà cả tập trung riêng, người bệnh được y tá, bác sĩ chăm sóc.

Các cơ quan t́nh báo Ban 2, Cảnh Sát, An ninh quân đội đem trận liệt, tin tức, tài liệu v.v… để nh́n mặt cán bộ VC, đồng thời kêu gọi những du kích cán bộ Việt Cộng nào muốn chiêu hồi chính quyền sẽ chấp nhận, nâng đỡ… Vấn đề lương thực cũng được yễm trợ đầy đủ. Điều quan trọng nhứt là các vị “làng xă”, đều biết ai lạ mặt, ai là người trong thôn xóm. Họ sẽ chứng thực những ai thuộc làng do họ kiểm soát, những ai “mới tạm trú”. Tất cả những ai trên 18 tuổi đều được cấp căn cước để tiện việc tra cứu, có văn nghệ giúp vui. Trong khi đó quân đội lục soát để tiêu diệt VC c̣n núp lại. Dĩ nhiên, những công việc này cấp tá, dù đang ở trong cuộc hành quân cũng không đụng một ngón tay, chỉ có cấp úy nhỏ, hạ sĩ quan, cảnh sát, dân vận, chiêu hồi v.v… thực hiện. Trừ phi bị địch phản công. Ngay cả những lúc này, binh sĩ cũng vừa kháng địch, vừa bảo vệ đồng bào. Hăy nh́n một số đồng bào trong đó có “cô bé napal” Kim Phúc đă ra khỏi nơi lửa đạn và được Quân đội ta săn sóc th́ ắt biết. Đó là cuộc đụng độ lớn với quân chính qui Bắc Việt.

Chuẩn úy lưỡng quốc Mỹ – Việt mà không biết thế nào là hành quân chỉ dùng ng̣i viết hay bàn phiếm mà nói dốc không phanh (thắng), thiệt là gan dạ. Điều rơ ràng nhất là quân đội Hoa Kỳ lúc chiến đấu ở Việt Nam chỉ dự những trận cấp sư đoàn, trung đoàn… chứ họ không ” đánh du kích”. Lần sau có nổ nói dốc, nổ sàng th́ cũng nên đọc lại bài, chuẩn úy Chu Tất Tiến nhé. Loại tạc đạn mà chuẩn tướng Chu Tất Tiến dùng không mất tiền mua đừng nổ bậy nghe như người ta “trung tiện”.

Kiêm Ái