BigBoy
18-04-2023, 14:09
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2023/04/tai-xuong-4.jpeg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2023/04/tai-xuong-4.jpeg)
✱ ĐS Martin: Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lănh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi – tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lănh của ông ta cho thêm vài ngày nữa – và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông.
✱TT Thiệu: Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản – tôi nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp v́ lư do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận – Nếu tôi không có thiện chí đàm phán th́ làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được kư kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó.
✱ TT Thiệu: Người Mỹ…thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.
Gần 50 năm trước báo chí Sài g̣n nêu ra nhiều thắc mắc không biết Đại Sứ Martin nói ǵ (20.4.1975) mà một ngày sau (21.4.1975) TT Nguyễn Văn Thiệu lên truyền h́nh đưa những lời chỉ trích Mỹ và tuyên bố từ chức … Phần sau là tóm lược trích đoạn văn bản về cuộc họp ngày 20.4.1975 được phía Bộ Ngoại Giao công bố và phía cơ quan CIA (2017) loan tải nội dung tuyên bố từ chức của TT Thiệu vào ngày 21.4.1975 (dài 28 trang) – sau đó là câu chuyện TT Thiệu rời Sài g̣n vào tối ngày 25.4.1975.
✱ Điện văn của ĐS Martin gửi TS Kissinger về cuộc họp với TT Thiệu
Sài G̣n, 20 Tháng Tư 1975, 1645Z.
1. Sáng nay tôi ( Martin) gặp Thiệu đưa ra tất cả các điểm được nêu trong mệnh lệnh số 9 trong phúc tŕnh của tôi. Tôi mang theo bản tóm tắt mới nhất về t́nh h́nh quân sự thực tế tại các mặt trận và phân tích so sánh lực lượng mỗi bên. Như các ông đă biết, đó là một bức tranh rất ảm đạm, và không thể tránh khỏi để kết luận rằng, nếu Hà Nội quyết định nhanh chóng tấn công để tiêu diệt th́ Sài G̣n khó có thể cầm cự được hơn một tháng, kể cả với sự kháng cự khéo léo và kiên quyết nhất cũng chỉ có thể cầm cự được không quá ba tuần. Tôi nói rằng theo ư kiến của tôi là họ muốn Sài G̣n nguyên vẹn, không phải là một đống đổ nát.
2. Thiệu hỏi về triển vọng viện trợ quân sự bổ sung. Tôi nói rằng câu trả lời có vẻ mơ hồ đối với tôi. Chúng tôi rất có thể nhận được thêm 350 triệu đô la, từ quốc hội nhưng ngay cả điều đó cũng không chắc chắn. Tôi nói rằng mỗi ngày trôi qua đầy ắp những tuyên truyền bất lợi đă che khuất thực trạng ở Việt Nam. Tôi đă rất hy vọng rằng trong hiện tại một thực tế là nó sẽ bảo toàn cơ hội để có một vị thế đàm phán tốt hơn, nhưng nó không thể đến kịp để thay đổi bảng phân tích mà ông ta vừa đọc. Cho đến bây giờ cán cân lực lượng hiện nay chống lại ông ta là áp đảo.
3. Tôi đă nói rằng bất cứ ai ngồi trên ghế của ông, Dinh Độc Lập ở Sài G̣n, Ṭa Bạch Ốc, Điện Elysée, Điện Kremlin, hay ở Bắc Kinh, đều có một điểm chung. Họ không bao giờ có thể chắc chắn rằng họ đang nắm được toàn bộ sự thật. Một số báo cáo bị che đậy v́ lợi ích cá nhân hoặc v́ quan liêu, những người khác v́ sợ làm tổn thương ông ta, v́ họ sợ ông ta, một số người khác v́ họ không muốn trở thành người truyền tải tin xấu. Dù lư do là ǵ, đôi khi rất khó để nhận định chính xác mọi thứ như chúng vốn có. Tôi nói rằng tôi chỉ nói chuyện với ông ta với tư cách cá nhân, không phải đại diện cho Tổng thống hay Ngoại trưởng, hay thậm chí với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ, mà với tư cách là một người đă theo dơi các sự kiện ở Đông Nam Á trong một thời gian rất dài và là người trong hai năm qua, đă hiểu được sự đan xen trong kết cấu của các vấn đề Việt Nam. Một vài điều đă rất rơ ràng với tôi. T́nh h́nh quân sự rất tồi tệ, và mọi người buộc ông ta phải chịu trách nhiệm về điều đó. Các thành phần chính trị, cả những người ủng hộ và kẻ thù của ông ta, đều không tin rằng ông ta có thể dẫn dắt đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Và kết luận của tôi là hầu như tất cả các tướng lănh của ông ta, mặc dù họ sẽ tiếp tục chiến đấu, đều tin rằng việc pḥng thủ là vô vọng, trừ khi có thể đạt được thời gian nghỉ ngơi một khi tiến tŕnh đàm phán bắt đầu, và họ không tin rằng điều này có thể khởi sự trừ khi Thiệu ra đi, hoặc ngay lập tức thực hiện các bước để bắt đầu cho tiến tŕnh đàm phán. Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lănh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi.
4. Thiệu chăm chú lắng nghe, ông ta hỏi liệu việc ông ta ra đi có ảnh hưởng đến cuộc bỏ phiếu trong Quốc hội hay không. Tôi nói rằng tôi nghĩ nó có thể đă thay đổi vào vài tháng trước, nhưng bây giờ sẽ không đủ thời gian để đảm bảo các khoản chi quân sự cần thiết. Nói cách khác, đề nghị từ chức nếu Quốc hội đảm bảo một mức độ phân bổ để miền Nam Việt Nam tồn tại, là một thỏa hiệp đă thuộc về quá khứ. Điều quan trọng, có lẽ, liệu nó có thể có tác dụng ǵ đối với phía bên kia hay không. Tôi nói tôi không biết câu trả lời, nhưng rơ ràng là hầu hết người Việt Nam đều nghĩ như vậy. Tôi nghi ngờ nó sẽ tạo ra nhiều khác biệt cho họ. Bản thân họ không chống lại cá nhân ông ta, mà chống lại bất kỳ nhà lănh đạo mạnh mẽ nào. Họ sẽ khăng khăng đ̣i một người lănh đạo yếu kém hơn nhiều. Nhưng điều quan trọng là thời gian. Đối với Việt Nam, bây giờ thời gian là thứ thiết yếu nhất. Nếu có thể tránh được sự hủy diệt của Sài G̣n, nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại, người ta có thể hy vọng, rằng mọi thứ sẽ được cải thiện. Thiệu hỏi tôi nghĩ ǵ về tương lai của Lào. Tôi nói rằng, từ cuối Hội nghị năm 1962, tôi đă thấy rất rơ ràng rằng Hà Nội có thể tiếp quản nó bất cứ lúc nào phù hợp với mục đích của họ, nếu phe không cộng sản ở Lào vẫn không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cuộc diện hiện tại có thể đă đạt được từ nhiều năm trước, nếu chúng tôi sẵn sàng nhượng lại toàn quyền kiểm soát miền Đông Lào.
5. Cuộc tṛ chuyện diễn ra trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi sẽ gửi bản văn đầy đủ khi có thời gian. Ông ta hoàn toàn hiểu điểm cốt yếu trong đánh giá cá nhân của tôi rằng các sự kiện diễn ra quá nhanh, khó có thời gian dành cho việc suy ngẫm, và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông ta. Tôi đă nói rơ ràng rằng tôi đang nói hoàn toàn với tư cách cá nhân, và tôi cũng như Washington không đề nghị ông ta từ chức.
6. Thiệu nói rằng ông ta sẽ làm những ǵ ông ấy nghĩ là tốt nhất cho đất nước. Tôi nói tôi biết rằng ông ta sẽ hành động. Ông ta sẽ suy nghĩ về nó. Ông ta có thể làm được. Ông ta rất có thể t́m kiếm những phương án giúp ông ta dẫn trước đối thủ, nhưng thời gian th́ có hạn. Cân bằng lại, tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lănh của ông ta cho thêm vài ngày nữa, ông ta có thể nghĩ ra một sự từ chức kịch tính sẽ có hữu ích. Trân trọng. (Theo BNG/FRUS ngày 20.4.1975: « Message From the Ambassador to Vietnam (Martin) to Secretary of State Kissinger (https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1969-76v10/d244) »).
✱ Bài diễn văn từ chức của TT Thiệu được phổ biến trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017 – bản văn thiết lập ngày 21.4.1975
“…” Trước hết, tôi xin lỗi hôm nay tôi nói chuyện trực tiếp mà không có đọc thông điệp trước qúy vị và trước quốc dân hay anh em chiến sĩ, cán bộ. Cũng v́ vấn đề cấp bách đ̣i hỏi một quyết định cấp bách và phải được bảo vệ sự kín đáo tối đa v́ lư do an ninh quốc gia. Cho nên tôi mạn phép mời Quốc hội lưỡng viện, Tối cao pháp viện, các cơ quan hiến định và tất cả quư vị với một thời hạn rất là ngắn ngủi ở trong một khung cảnh đáng lẽ phải là khác hơn ở Dinh Độc Lập.
Đây là một cuộc nói chuyện rất quan trọng, nhưng nó đă không được thông báo trước. V́ lư do an ninh quốc gia và v́ tầm quan trọng của cuộc nói chuyện đối với an ninh quốc gia, tôi xin đồng bào và các anh chị cán bộ, chiến sĩ toàn quốc hăy hiểu cho. Nếu thời gian cho phép, tôi đă triệu tập một phiên họp toàn thể của cả hai viện của quốc hội với sự hiện diện của ṭa án tối cao và các tổ chức quần chúng và tôn giáo khác nhau, để tôi có thể giải quyết t́nh huống mà tôi sẽ tŕnh bày chi tiết ngày hôm nay. Tôi có thể yêu cầu qúi vị rộng lượng thứ lỗi cho tôi v́ đă giải quyết vấn đề cấp bách này theo cách không hoàn toàn phù hợp với nghi thức. “…”
Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản. Và tôi đă có đủ can đảm nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp định này, nghĩa là ông chấp nhận bán cái miền Nam này cho cộng sản. C̣n tôi mà chấp nhận cái bản văn hiệp định này th́ tôi cũng chấp nhận phản quốc, bán cái dân tộc và đất nước miền Nam cho cộng sản. Nếu như ông chấp nhận bản hiệp định v́ lư do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận.
Bản văn hiệp định đó là một bản văn mà tôi đă từ chối, tôi đă phản đối trong 3 tháng trời (tháng 10.1972 đến tháng 1.1973 ). Và trong 3 tháng trời ấy chỉ có 3 điểm chánh mà tôi tranh đấu sống chết. Và sự tranh đấu của tôi được chứng minh một cách rơ ràng bởi mỗi một lần tôi mời họp có ông chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền , ông chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn, ông Tổng trưởng ngoại giao, ông chủ tịch Tối cao pháp viện, có Phó tổng thống, đại tướng Tổng tham mưu trưởng và Thủ tướng, thỉnh thoảng có một vài nhân vật chính trị khác. Ba cái điểm mà tôi cho là mất nước:
Đầu tiên là một chính phủ ba thành phần ở trên thượng tầng chỉ huy hai chính phủ là chính phủ VNCH và chính phủ của Mặt trận giải phóng, và cái chính phủ liên hiệp ba thành phần đó được đặt để cho tới tỉnh, quận, xă, ấp. Tôi cho đó là một cái chính phủ liên hiệp, dù dưới h́nh thức nào, dù ở cấp bậc nào, tôi cũng không chấp nhận và tôi không chấp nhận cái chuyện đó từ 5, 7 năm trước. Cho nên, đừng có nói ǵ tới ấp cho tới xă, mà ngay cả trung ương tôi đă không chấp nhận 3 thành phần, 4 thành phần và 2 thành phần tôi cũng không chấp nhận, cho nên tôi đă nói không chấp nhận !.
Thứ hai, họ nói rằng ở Đông Dương chỉ có ba nước là Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Tôi hỏi ngoại trưởng Kissinger, Việt Nam nào? Việt Nam của Sài G̣n hay Việt Nam của Hà Nội? Nếu mà ông chấp nhận bản văn này là ông chấp nhận cái Việt Nam của Hà Nội. Theo cộng sản, Việt Nam này bao gồm cả miền Bắc và miền Nam. Tôi không chấp nhận. Tôi muốn trở về nguyên thủy hiệp định Genève là có hai quốc gia Việt Nam, hai chính quyền Hà Nội và Sài G̣n, tôi gọi họ là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, họ phải kêu tôi là Việt Nam Cộng ḥa không xâm phạm lẫn nhau, lấy vĩ tuyến 17 và lấy hiệp định Genève làm căn bản, chờ đợi ngày thống nhất bằng phương tiện ḥa b́nh và dân chủ, dù cho ngày đó không biết là ngày nào. Tôi bác bỏ cái chuyện đó. Tôi nói trở về hai miền Nam Bắc, hai quốc gia riêng biệt có thể vô Liên Hiệp Quốc, giữ cái vĩ tuyến 17, giữ vùng phi quân sự chờ ngày thống nhất.
Điểm thứ ba là đối với quân đội miền Bắc Việt Nam, th́ ông Ngoại trưởng Kissinger chấp nhận là quân đội Bắc được quyền ở trong miền Nam một cách hợp pháp, đương nhiên. Tôi nói điểm này là điểm quan trọng nhất. Không có ǵ kỳ lạ hơn việc những kẻ xâm lược, sau khi chiến tranh kết thúc và ḥa b́nh lập lại, có quyền để lại quân đội của chúng măi măi trên lănh thổ của người khác. Tôi nói điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất là quân đội Bắc Việt phải rút lui về Bắc. Ông Kissinger trả lời với tôi rằng: “Cái chuyện này thương thuyết với Nga Sô, Trung Cộng đă 3 năm nay không được, Mỹ chịu thua”. “…”
Con số 722 triệu đô la mà Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford yêu cầu quốc hội không đủ cho miền Nam Việt Nam và các lực lượng vũ trang chống lại quân cộng sản miền Bắc Việt Nam và ổn định t́nh h́nh quân sự để bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc. Những người cộng sản biết điều này, và họ chỉ cần tận dụng để thúc đẩy dành chiến thắng quân sự mà không cần đàm phán. Để đạt được mục tiêu mà Hoa Kỳ mong đợi – đó là ổn định t́nh h́nh quân sự để tiến hành các cuộc đàm phán trên cơ sở hiệp định Paris và do đó đạt được một giải pháp chính trị – phải có hơn 722 triệu đô la. Hơn nữa, phải có B-52 để trừng phạt cộng sản miền Nam và nếu có thể là cả cộng sản miền Bắc. Cũng cần phải có xe tăng, trọng pháo, thiết bị, súng lớn nhỏ, và đạn dược. những thứ này phải được gửi vào liên tục, liên tục, liên tục và ngay lập tức. Điều đó không phải là vấn đề của vài tháng hay vài tuần, mà là vấn đề của vài ngày. Các khí tài này phải dồi dào hầu trang bị cho các sư đoàn để đánh với 20 sư đoàn Bắc Việt. Tôi thách thức – giả sử quân đội của miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa rút đi – quân đội Hoa Kỳ tiến vào với quân số ngang bằng với quân đội VNCH và với cùng số lượng vũ khí và đạn dược và không có B-52 th́ quân đội Hoa Kỳ có thể đối phó với cộng sản trong bao nhiêu ngày? Vậy làm thế nào chúng ta có thể được bảo để làm điều đó? Do đó, thật phi lư, bất công và mâu thuẫn khi nói rằng tôi là một người không muốn đàm phán. Nếu tôi không có thiện chí đàm phán th́ làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được kư kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. Tôi đă thể hiện thiện chí tối đa khi nhận nó. Chúng tôi đă thể hiện thiện chí tối đa khi chấp nhận văn bản của một thỏa thuận không đáp ứng các lư tưởng và tiêu chuẩn của chúng tôi. chúng tôi chỉ mong đợi ba điều: Thiện chí của những người cộng sản và chủ nhân của họ – Liên Xô và Trung Cộng. Điều thứ hai chúng tôi mong đợi là hành động cấp cao mạnh mẽ giữa các quốc gia thống nhất, Liên Xô và Trung cộng. Điều thứ ba chúng tôi mong đợi là đủ viện trợ quân sự và kinh tế để cho phép chúng tôi đương đầu với quân Bắc Việt Nam. Không có điều nào trong số này đă thành hiện thực. “…”
Người Mỹ đánh giặc ở đây, không đánh được, đi về. Đặt ra cái chương tŕnh Việt Nam hóa, chúng ta chấp nhận dù không muốn Việt Nam hóa. Có Việt Nam hóa rồi, hứa cộng sản hành động th́ sẽ phản ứng mà không phản ứng. Th́ chỉ c̣n có một thứ tối thiểu là đưa đồ cho người ta đánh mà không đưa. Th́ thử hỏi cái đó là cái ǵ? Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.
Sở dĩ tôi từ chức hôm nay là bởi v́ hôm nay ở bên Hoa Kỳ, Quốc hội đưa vấn đề viện trợ ra mổ xẻ. Tôi nghĩ rằng cái hành động tôi từ chức hôm nay, biết đâu ngày mai từ cái chỗ 322 nó lên 722 hay nó lên 1 tỉ mấy. Rồi th́ tới tấp cầu hàng không chở xe tăng, đạn, pháo qua đây viện trợ, viện trợ, viện trợ. Tôi hy vọng như vậy, để coi Quốc hội Hoa ḱ có đọc …
Tôi cũng hy vọng rằng trong cái lúc mà t́nh thế quân sự căng thẳng tại Quân Khu III Quân Khu IV, ông Thiệu đi rồi, c̣n ông TT Hương th́ biết đâu c̣n 3, 4 ngày, c̣n 1 tuần th́ chuyện nó có thể lật được. Nếu như tôi để ngày mai ngày mốt mà tôi mới từ chức, mà cộng sản thực sự nó tấn công th́ e nó quá trễ. Lúc đó nó quá dở, trễ quá rồi làm không được. Quốc hội Hoa kỳ viện trợ 3 trăm rưỡi, để trễ quá 3 trăm rưỡi cũng không lên 722 được. Không sớm hơn mà không trễ hơn, bởi v́ tôi nghĩ rằng: Cái thời gian tính mà ngày hôm nay c̣n thay đổi cục diện quân sự của cả chiến trường miền Nam. (Ghi chú: đoạn văn viết chữ nghiêng trích từ video clip người viết upload lên Youtube vào ngày 23.2.2014 – Phần audio lấy trên net, phần h́nh ảnh của TV Histoire, Pháp:« Diễn văn từ chức của TT Ng V Thiệu 21.4.1975 (https://www.youtube.com/watch?v=p4-TJjGaDCU)»).
Lư do thứ hai của việc từ chức, đây là một trong những điều tôi đă nói trước đó. Tôi nghĩ rằng việc từ chức của tôi là một sự hy sinh rất nhỏ với tất cả người dân và các lực lượng vũ trang của chúng ta sẽ nhận được nguồn viện trợ dồi dào để chiến đấu và bảo vệ lănh thổ c̣n lại, và nếu không có sự hiện diện của tôi, các cuộc đàm phán trong tương lai với những người cộng sản, để có thể giúp bảo vệ một nền tự do và dân chủ cho miền Nam và giành quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam theo tinh thần của Hiệp định Ba-Lê. Tôi kêu gọi tất cả những người, tổ chức, tôn giáo và chính trị gia, những người cho rằng tôi là kẻ cản trở ḥa b́nh và cho rằng tôi bất lực trong việc mang lại ḥa b́nh và bảo vệ miền nam đă không thể đánh bại cộng sản và lập lại ḥa b́nh, hăy tiếp tay giúp Tổng thống Trần Văn Hương đem lại ḥa b́nh, danh dự, tự do, ấm no, dân chủ, bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris mà CSVN bắt buộc phải tôn trọng, và thực hiện quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam như trong Hiệp định Ba-Lê. Tóm lại, tôi không muốn bất cứ ai sử dụng cá nhân tôi – tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – như một cái cớ để ngược đăi đất nước này. Kể từ giờ phút này trở đi, không thể viện cớ đó nữa và bây giờ phải thể hiện sự chân thành và trung thực của ḿnh. “…”
Thưa quư vị, đồng bào và anh chị em
Tôi đă phục vụ đồng bào, anh chị em trong 10 năm qua. như tôi đă nói, tôi không thiếu can đảm. Không phải là bất kỳ cuộc biểu t́nh hay vu khống nào có thể làm tôi nản ḷng và mất tinh thần và buộc tôi phải từ chức một cách vô nghĩa và vô trách nhiệm, cũng không phải v́ chịu trước áp lực của đồng minh, cũng không phải v́ những khó khăn. Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Kể từ giờ phút này, tôi đặt ḿnh vào sự sử đụng của tổng thống, đồng bào và quân đội. Khi tôi từ chức, ông Trần Văn Hương sẽ trở thành tổng thống, và đất nước chúng ta sẽ không mất ǵ cả. Biết đâu đất nước ta lại có thêm một chiến sĩ ra mặt trận. Kề vai sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ bảo vệ đát nước. Giờ đây, tôi xin cám ơn đồng bào, quư vị, anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, và tôi xin từ biệt.
Tôi xin nhắc lại yêu cầu của tôi, yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội, và Tối Cao Pháp Viện chấp nhận với sự hiện diện của quư vị, theo đúng điều 55 của Hiến Pháp để cho Phó tổng thống Trần Văn Hương tuyên thệ nhậm chức Tổng thống. Cảm ơn.
(Theo tài liệu của CIA, thiết lập ngày 21.4.1975, chấp thuận cho phổ biến ngày 15.6.2010, loan tải trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017: « TEXT OF THIEU’S RESIGNATION SPEECH (https://www.cia.gov/readingroom/document/loc-hak-244-10-4-5) ».)
✱ Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài G̣n
( Trích đoạn theo tường thuật của Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận, tháp tùng phái đoàn TT Thiệu rời Sài G̣n đi Đài Loan tối ngày 25.4.1975).
“ … Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố Sài-G̣n ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế th́ tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay…” Đó là theo lời kể của ông Frank Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434. “…”
Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc ông Polgar đang viết, tôi đă bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!
Liền sau đó Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại tá Đức, Trung tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau vào hai xe c̣n lại. “…”
Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-g̣n.- Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đao, đem theo hai vị lănh tụ quốc gia, một tướng lănh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một ṿng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài-G̣n, rồi hướng về biển Đông…
Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tŕnh lên Tổng thống Trần Văn Hương có nội dung như sau: (Tổng thống Thiệu viết tay)
Kính tŕnh: Tổng thống Trần Văn Hương.
Thưa cụ, Để thực hiện công cụ giao phó, tôi kính xin cụ đồng ư cho những bác sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du: 1. Đại tá Vơ Văn Cầm 2. Đại tá Nguyễn Văn Đức 3. Đại tá Nhan Văn Thiệt 4. Đại tá Trần Thanh Điền 5.Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu 6. Thiếu tá Hồ Vương Minh 7. Đại úy Nguyễn Phú Hải (giờ không có mặt) 8. Phục hồi chức năng viên (chờ không có mặt). Ngoài ra, Cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần theo các sĩ quan và dân sự sau đây: 1. Trung tá Đặng Văn Châu – 2. Thiếu tá Đinh Sơn Thông -3. Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận -4. Ông Đặng Vũ (giờ không có mặt). Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi tŕnh cụ chấp thuận ./. Kính chào Tổng thống (kư tên Thiệu) . Tổng thống Trần Văn Hương phê duyệt, Đề ngày 25/4/75, và kư tên Trần Văn Hương. ( Theo Bất Khuất Net: « Những ngày cuối của TT Ng. V.Thiệu ở Sài G̣n (http://batkhuat.net/tl-nhungngaycuoi-tt-nvt-saigon.htm) » –Thiếu tá NgT Phận: Tháng 4.1975 phụ trách an ninh cho Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm. – Tháp tùng phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 25-4-1975).
Điều mà TT Nguyễn Văn Thiệu lên án Mỹ nêu trên ” … Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính ngĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc” là có nguyên do….V́ vào ngày 21.1.1973, TT Thiệu đă phúc đáp tối hậu thư của TT Nixon (20.1.1973), buộc TT Thiệu phải kư tắt vào bản Hiệp định Paris . Trong thư phúc đáp gửi TT Nixon, có đoạn văn với nội dung : “ Trước những tuyên bố của Ngài rằng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH sẽ bị cắt đứt nếu tôi không tham gia cùng Ngài, dựa trên cơ sở đảm bảo mạnh mẽ của Ngài về việc tiếp tục viện trợ cho Chính phủ Việt Nam sau khi ngừng bắn, tôi chấp nhận lịch tŕnh của Ngài đă đề ra liên quan đến việc kư tắt thỏa hiệp vào ngày 23 tháng 1 năm 1973″ . (Theo Thư viện BNG/FRUS ngày 21.1.1973: « Letter From South Vietnamese President Thieu to President Nixon (https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1969-76v09/d320) »).
Xem ra qua chiến tranh Việt Nam, Mỹ đă dùng cuộc chiến này để “… đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán”. Trước đó, có thể v́ lo lắng cho tương lai khi quan hệ với Mỹ, vào năm 1957: Trong cuộc gặp gỡ với TT Eisenhower, TT Diệm yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam – « During the meeting with Eisenhower, Diệm asked about the American commitment towards the defense of South Vietnam. (https://en.wikipedia.org/wiki/State_visit_by_Ngo_Dinh_Diem_to_the_United_States) ». Bốn năm sau, năm 1961: Vào ngày 18 (tháng 10), TT Diệm nói rằng ông ta không muốn quân đội Hoa Kỳ tham gia với bất kỳ nhiệm vụ nào. Ông lặp lại yêu cầu về một hiệp ước pḥng thủ song phương «On the 18th, Diem said he wanted no U. S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty (https://nara-media-001.s3.amazonaws.com/arcmedia/research/pentagon-papers/Pentagon-Papers-Part-IV-B-1.pdf) » (Pentagon Papers, page 26/197) . V́ thế việc “yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam” và yêu cầu kư kết ”hiệp ước pḥng thủ song phương” đă không c̣n lư do tồn tại sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.
Sang đến thời Đệ II VNCH, một thời gian sau cuộc đảo chánh, vào năm 1965 chính phủ Phan Huy Quát đă « “INVITE “ the United States to send the Marines (https://www.history.com/this-day-in-history/u-s-marines-land-at-da-nang) » đến Việt Nam, trái ngược với chủ trương thời Đê I VNCH là “wanted no U. S. combat troops… “ Sau 8 năm Mỹ đem quân vào Việt Nam, dẫn đến kết quả là TT Thiệu bị buộc phải thi hành tối hậu thư (1.1973), để rồi hai năm sau dẫn đến việc khai tử nền Đệ II Việt Nam Cộng Ḥa vào ngày 30.4.1975.
Đào Văn
✱ ĐS Martin: Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lănh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi – tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lănh của ông ta cho thêm vài ngày nữa – và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông.
✱TT Thiệu: Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản – tôi nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp v́ lư do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận – Nếu tôi không có thiện chí đàm phán th́ làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được kư kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó.
✱ TT Thiệu: Người Mỹ…thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.
Gần 50 năm trước báo chí Sài g̣n nêu ra nhiều thắc mắc không biết Đại Sứ Martin nói ǵ (20.4.1975) mà một ngày sau (21.4.1975) TT Nguyễn Văn Thiệu lên truyền h́nh đưa những lời chỉ trích Mỹ và tuyên bố từ chức … Phần sau là tóm lược trích đoạn văn bản về cuộc họp ngày 20.4.1975 được phía Bộ Ngoại Giao công bố và phía cơ quan CIA (2017) loan tải nội dung tuyên bố từ chức của TT Thiệu vào ngày 21.4.1975 (dài 28 trang) – sau đó là câu chuyện TT Thiệu rời Sài g̣n vào tối ngày 25.4.1975.
✱ Điện văn của ĐS Martin gửi TS Kissinger về cuộc họp với TT Thiệu
Sài G̣n, 20 Tháng Tư 1975, 1645Z.
1. Sáng nay tôi ( Martin) gặp Thiệu đưa ra tất cả các điểm được nêu trong mệnh lệnh số 9 trong phúc tŕnh của tôi. Tôi mang theo bản tóm tắt mới nhất về t́nh h́nh quân sự thực tế tại các mặt trận và phân tích so sánh lực lượng mỗi bên. Như các ông đă biết, đó là một bức tranh rất ảm đạm, và không thể tránh khỏi để kết luận rằng, nếu Hà Nội quyết định nhanh chóng tấn công để tiêu diệt th́ Sài G̣n khó có thể cầm cự được hơn một tháng, kể cả với sự kháng cự khéo léo và kiên quyết nhất cũng chỉ có thể cầm cự được không quá ba tuần. Tôi nói rằng theo ư kiến của tôi là họ muốn Sài G̣n nguyên vẹn, không phải là một đống đổ nát.
2. Thiệu hỏi về triển vọng viện trợ quân sự bổ sung. Tôi nói rằng câu trả lời có vẻ mơ hồ đối với tôi. Chúng tôi rất có thể nhận được thêm 350 triệu đô la, từ quốc hội nhưng ngay cả điều đó cũng không chắc chắn. Tôi nói rằng mỗi ngày trôi qua đầy ắp những tuyên truyền bất lợi đă che khuất thực trạng ở Việt Nam. Tôi đă rất hy vọng rằng trong hiện tại một thực tế là nó sẽ bảo toàn cơ hội để có một vị thế đàm phán tốt hơn, nhưng nó không thể đến kịp để thay đổi bảng phân tích mà ông ta vừa đọc. Cho đến bây giờ cán cân lực lượng hiện nay chống lại ông ta là áp đảo.
3. Tôi đă nói rằng bất cứ ai ngồi trên ghế của ông, Dinh Độc Lập ở Sài G̣n, Ṭa Bạch Ốc, Điện Elysée, Điện Kremlin, hay ở Bắc Kinh, đều có một điểm chung. Họ không bao giờ có thể chắc chắn rằng họ đang nắm được toàn bộ sự thật. Một số báo cáo bị che đậy v́ lợi ích cá nhân hoặc v́ quan liêu, những người khác v́ sợ làm tổn thương ông ta, v́ họ sợ ông ta, một số người khác v́ họ không muốn trở thành người truyền tải tin xấu. Dù lư do là ǵ, đôi khi rất khó để nhận định chính xác mọi thứ như chúng vốn có. Tôi nói rằng tôi chỉ nói chuyện với ông ta với tư cách cá nhân, không phải đại diện cho Tổng thống hay Ngoại trưởng, hay thậm chí với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ, mà với tư cách là một người đă theo dơi các sự kiện ở Đông Nam Á trong một thời gian rất dài và là người trong hai năm qua, đă hiểu được sự đan xen trong kết cấu của các vấn đề Việt Nam. Một vài điều đă rất rơ ràng với tôi. T́nh h́nh quân sự rất tồi tệ, và mọi người buộc ông ta phải chịu trách nhiệm về điều đó. Các thành phần chính trị, cả những người ủng hộ và kẻ thù của ông ta, đều không tin rằng ông ta có thể dẫn dắt đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Và kết luận của tôi là hầu như tất cả các tướng lănh của ông ta, mặc dù họ sẽ tiếp tục chiến đấu, đều tin rằng việc pḥng thủ là vô vọng, trừ khi có thể đạt được thời gian nghỉ ngơi một khi tiến tŕnh đàm phán bắt đầu, và họ không tin rằng điều này có thể khởi sự trừ khi Thiệu ra đi, hoặc ngay lập tức thực hiện các bước để bắt đầu cho tiến tŕnh đàm phán. Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lănh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi.
4. Thiệu chăm chú lắng nghe, ông ta hỏi liệu việc ông ta ra đi có ảnh hưởng đến cuộc bỏ phiếu trong Quốc hội hay không. Tôi nói rằng tôi nghĩ nó có thể đă thay đổi vào vài tháng trước, nhưng bây giờ sẽ không đủ thời gian để đảm bảo các khoản chi quân sự cần thiết. Nói cách khác, đề nghị từ chức nếu Quốc hội đảm bảo một mức độ phân bổ để miền Nam Việt Nam tồn tại, là một thỏa hiệp đă thuộc về quá khứ. Điều quan trọng, có lẽ, liệu nó có thể có tác dụng ǵ đối với phía bên kia hay không. Tôi nói tôi không biết câu trả lời, nhưng rơ ràng là hầu hết người Việt Nam đều nghĩ như vậy. Tôi nghi ngờ nó sẽ tạo ra nhiều khác biệt cho họ. Bản thân họ không chống lại cá nhân ông ta, mà chống lại bất kỳ nhà lănh đạo mạnh mẽ nào. Họ sẽ khăng khăng đ̣i một người lănh đạo yếu kém hơn nhiều. Nhưng điều quan trọng là thời gian. Đối với Việt Nam, bây giờ thời gian là thứ thiết yếu nhất. Nếu có thể tránh được sự hủy diệt của Sài G̣n, nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại, người ta có thể hy vọng, rằng mọi thứ sẽ được cải thiện. Thiệu hỏi tôi nghĩ ǵ về tương lai của Lào. Tôi nói rằng, từ cuối Hội nghị năm 1962, tôi đă thấy rất rơ ràng rằng Hà Nội có thể tiếp quản nó bất cứ lúc nào phù hợp với mục đích của họ, nếu phe không cộng sản ở Lào vẫn không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cuộc diện hiện tại có thể đă đạt được từ nhiều năm trước, nếu chúng tôi sẵn sàng nhượng lại toàn quyền kiểm soát miền Đông Lào.
5. Cuộc tṛ chuyện diễn ra trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi sẽ gửi bản văn đầy đủ khi có thời gian. Ông ta hoàn toàn hiểu điểm cốt yếu trong đánh giá cá nhân của tôi rằng các sự kiện diễn ra quá nhanh, khó có thời gian dành cho việc suy ngẫm, và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông ta. Tôi đă nói rơ ràng rằng tôi đang nói hoàn toàn với tư cách cá nhân, và tôi cũng như Washington không đề nghị ông ta từ chức.
6. Thiệu nói rằng ông ta sẽ làm những ǵ ông ấy nghĩ là tốt nhất cho đất nước. Tôi nói tôi biết rằng ông ta sẽ hành động. Ông ta sẽ suy nghĩ về nó. Ông ta có thể làm được. Ông ta rất có thể t́m kiếm những phương án giúp ông ta dẫn trước đối thủ, nhưng thời gian th́ có hạn. Cân bằng lại, tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lănh của ông ta cho thêm vài ngày nữa, ông ta có thể nghĩ ra một sự từ chức kịch tính sẽ có hữu ích. Trân trọng. (Theo BNG/FRUS ngày 20.4.1975: « Message From the Ambassador to Vietnam (Martin) to Secretary of State Kissinger (https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1969-76v10/d244) »).
✱ Bài diễn văn từ chức của TT Thiệu được phổ biến trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017 – bản văn thiết lập ngày 21.4.1975
“…” Trước hết, tôi xin lỗi hôm nay tôi nói chuyện trực tiếp mà không có đọc thông điệp trước qúy vị và trước quốc dân hay anh em chiến sĩ, cán bộ. Cũng v́ vấn đề cấp bách đ̣i hỏi một quyết định cấp bách và phải được bảo vệ sự kín đáo tối đa v́ lư do an ninh quốc gia. Cho nên tôi mạn phép mời Quốc hội lưỡng viện, Tối cao pháp viện, các cơ quan hiến định và tất cả quư vị với một thời hạn rất là ngắn ngủi ở trong một khung cảnh đáng lẽ phải là khác hơn ở Dinh Độc Lập.
Đây là một cuộc nói chuyện rất quan trọng, nhưng nó đă không được thông báo trước. V́ lư do an ninh quốc gia và v́ tầm quan trọng của cuộc nói chuyện đối với an ninh quốc gia, tôi xin đồng bào và các anh chị cán bộ, chiến sĩ toàn quốc hăy hiểu cho. Nếu thời gian cho phép, tôi đă triệu tập một phiên họp toàn thể của cả hai viện của quốc hội với sự hiện diện của ṭa án tối cao và các tổ chức quần chúng và tôn giáo khác nhau, để tôi có thể giải quyết t́nh huống mà tôi sẽ tŕnh bày chi tiết ngày hôm nay. Tôi có thể yêu cầu qúi vị rộng lượng thứ lỗi cho tôi v́ đă giải quyết vấn đề cấp bách này theo cách không hoàn toàn phù hợp với nghi thức. “…”
Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản. Và tôi đă có đủ can đảm nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp định này, nghĩa là ông chấp nhận bán cái miền Nam này cho cộng sản. C̣n tôi mà chấp nhận cái bản văn hiệp định này th́ tôi cũng chấp nhận phản quốc, bán cái dân tộc và đất nước miền Nam cho cộng sản. Nếu như ông chấp nhận bản hiệp định v́ lư do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận.
Bản văn hiệp định đó là một bản văn mà tôi đă từ chối, tôi đă phản đối trong 3 tháng trời (tháng 10.1972 đến tháng 1.1973 ). Và trong 3 tháng trời ấy chỉ có 3 điểm chánh mà tôi tranh đấu sống chết. Và sự tranh đấu của tôi được chứng minh một cách rơ ràng bởi mỗi một lần tôi mời họp có ông chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền , ông chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn, ông Tổng trưởng ngoại giao, ông chủ tịch Tối cao pháp viện, có Phó tổng thống, đại tướng Tổng tham mưu trưởng và Thủ tướng, thỉnh thoảng có một vài nhân vật chính trị khác. Ba cái điểm mà tôi cho là mất nước:
Đầu tiên là một chính phủ ba thành phần ở trên thượng tầng chỉ huy hai chính phủ là chính phủ VNCH và chính phủ của Mặt trận giải phóng, và cái chính phủ liên hiệp ba thành phần đó được đặt để cho tới tỉnh, quận, xă, ấp. Tôi cho đó là một cái chính phủ liên hiệp, dù dưới h́nh thức nào, dù ở cấp bậc nào, tôi cũng không chấp nhận và tôi không chấp nhận cái chuyện đó từ 5, 7 năm trước. Cho nên, đừng có nói ǵ tới ấp cho tới xă, mà ngay cả trung ương tôi đă không chấp nhận 3 thành phần, 4 thành phần và 2 thành phần tôi cũng không chấp nhận, cho nên tôi đă nói không chấp nhận !.
Thứ hai, họ nói rằng ở Đông Dương chỉ có ba nước là Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Tôi hỏi ngoại trưởng Kissinger, Việt Nam nào? Việt Nam của Sài G̣n hay Việt Nam của Hà Nội? Nếu mà ông chấp nhận bản văn này là ông chấp nhận cái Việt Nam của Hà Nội. Theo cộng sản, Việt Nam này bao gồm cả miền Bắc và miền Nam. Tôi không chấp nhận. Tôi muốn trở về nguyên thủy hiệp định Genève là có hai quốc gia Việt Nam, hai chính quyền Hà Nội và Sài G̣n, tôi gọi họ là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, họ phải kêu tôi là Việt Nam Cộng ḥa không xâm phạm lẫn nhau, lấy vĩ tuyến 17 và lấy hiệp định Genève làm căn bản, chờ đợi ngày thống nhất bằng phương tiện ḥa b́nh và dân chủ, dù cho ngày đó không biết là ngày nào. Tôi bác bỏ cái chuyện đó. Tôi nói trở về hai miền Nam Bắc, hai quốc gia riêng biệt có thể vô Liên Hiệp Quốc, giữ cái vĩ tuyến 17, giữ vùng phi quân sự chờ ngày thống nhất.
Điểm thứ ba là đối với quân đội miền Bắc Việt Nam, th́ ông Ngoại trưởng Kissinger chấp nhận là quân đội Bắc được quyền ở trong miền Nam một cách hợp pháp, đương nhiên. Tôi nói điểm này là điểm quan trọng nhất. Không có ǵ kỳ lạ hơn việc những kẻ xâm lược, sau khi chiến tranh kết thúc và ḥa b́nh lập lại, có quyền để lại quân đội của chúng măi măi trên lănh thổ của người khác. Tôi nói điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất là quân đội Bắc Việt phải rút lui về Bắc. Ông Kissinger trả lời với tôi rằng: “Cái chuyện này thương thuyết với Nga Sô, Trung Cộng đă 3 năm nay không được, Mỹ chịu thua”. “…”
Con số 722 triệu đô la mà Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford yêu cầu quốc hội không đủ cho miền Nam Việt Nam và các lực lượng vũ trang chống lại quân cộng sản miền Bắc Việt Nam và ổn định t́nh h́nh quân sự để bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc. Những người cộng sản biết điều này, và họ chỉ cần tận dụng để thúc đẩy dành chiến thắng quân sự mà không cần đàm phán. Để đạt được mục tiêu mà Hoa Kỳ mong đợi – đó là ổn định t́nh h́nh quân sự để tiến hành các cuộc đàm phán trên cơ sở hiệp định Paris và do đó đạt được một giải pháp chính trị – phải có hơn 722 triệu đô la. Hơn nữa, phải có B-52 để trừng phạt cộng sản miền Nam và nếu có thể là cả cộng sản miền Bắc. Cũng cần phải có xe tăng, trọng pháo, thiết bị, súng lớn nhỏ, và đạn dược. những thứ này phải được gửi vào liên tục, liên tục, liên tục và ngay lập tức. Điều đó không phải là vấn đề của vài tháng hay vài tuần, mà là vấn đề của vài ngày. Các khí tài này phải dồi dào hầu trang bị cho các sư đoàn để đánh với 20 sư đoàn Bắc Việt. Tôi thách thức – giả sử quân đội của miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa rút đi – quân đội Hoa Kỳ tiến vào với quân số ngang bằng với quân đội VNCH và với cùng số lượng vũ khí và đạn dược và không có B-52 th́ quân đội Hoa Kỳ có thể đối phó với cộng sản trong bao nhiêu ngày? Vậy làm thế nào chúng ta có thể được bảo để làm điều đó? Do đó, thật phi lư, bất công và mâu thuẫn khi nói rằng tôi là một người không muốn đàm phán. Nếu tôi không có thiện chí đàm phán th́ làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được kư kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. Tôi đă thể hiện thiện chí tối đa khi nhận nó. Chúng tôi đă thể hiện thiện chí tối đa khi chấp nhận văn bản của một thỏa thuận không đáp ứng các lư tưởng và tiêu chuẩn của chúng tôi. chúng tôi chỉ mong đợi ba điều: Thiện chí của những người cộng sản và chủ nhân của họ – Liên Xô và Trung Cộng. Điều thứ hai chúng tôi mong đợi là hành động cấp cao mạnh mẽ giữa các quốc gia thống nhất, Liên Xô và Trung cộng. Điều thứ ba chúng tôi mong đợi là đủ viện trợ quân sự và kinh tế để cho phép chúng tôi đương đầu với quân Bắc Việt Nam. Không có điều nào trong số này đă thành hiện thực. “…”
Người Mỹ đánh giặc ở đây, không đánh được, đi về. Đặt ra cái chương tŕnh Việt Nam hóa, chúng ta chấp nhận dù không muốn Việt Nam hóa. Có Việt Nam hóa rồi, hứa cộng sản hành động th́ sẽ phản ứng mà không phản ứng. Th́ chỉ c̣n có một thứ tối thiểu là đưa đồ cho người ta đánh mà không đưa. Th́ thử hỏi cái đó là cái ǵ? Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.
Sở dĩ tôi từ chức hôm nay là bởi v́ hôm nay ở bên Hoa Kỳ, Quốc hội đưa vấn đề viện trợ ra mổ xẻ. Tôi nghĩ rằng cái hành động tôi từ chức hôm nay, biết đâu ngày mai từ cái chỗ 322 nó lên 722 hay nó lên 1 tỉ mấy. Rồi th́ tới tấp cầu hàng không chở xe tăng, đạn, pháo qua đây viện trợ, viện trợ, viện trợ. Tôi hy vọng như vậy, để coi Quốc hội Hoa ḱ có đọc …
Tôi cũng hy vọng rằng trong cái lúc mà t́nh thế quân sự căng thẳng tại Quân Khu III Quân Khu IV, ông Thiệu đi rồi, c̣n ông TT Hương th́ biết đâu c̣n 3, 4 ngày, c̣n 1 tuần th́ chuyện nó có thể lật được. Nếu như tôi để ngày mai ngày mốt mà tôi mới từ chức, mà cộng sản thực sự nó tấn công th́ e nó quá trễ. Lúc đó nó quá dở, trễ quá rồi làm không được. Quốc hội Hoa kỳ viện trợ 3 trăm rưỡi, để trễ quá 3 trăm rưỡi cũng không lên 722 được. Không sớm hơn mà không trễ hơn, bởi v́ tôi nghĩ rằng: Cái thời gian tính mà ngày hôm nay c̣n thay đổi cục diện quân sự của cả chiến trường miền Nam. (Ghi chú: đoạn văn viết chữ nghiêng trích từ video clip người viết upload lên Youtube vào ngày 23.2.2014 – Phần audio lấy trên net, phần h́nh ảnh của TV Histoire, Pháp:« Diễn văn từ chức của TT Ng V Thiệu 21.4.1975 (https://www.youtube.com/watch?v=p4-TJjGaDCU)»).
Lư do thứ hai của việc từ chức, đây là một trong những điều tôi đă nói trước đó. Tôi nghĩ rằng việc từ chức của tôi là một sự hy sinh rất nhỏ với tất cả người dân và các lực lượng vũ trang của chúng ta sẽ nhận được nguồn viện trợ dồi dào để chiến đấu và bảo vệ lănh thổ c̣n lại, và nếu không có sự hiện diện của tôi, các cuộc đàm phán trong tương lai với những người cộng sản, để có thể giúp bảo vệ một nền tự do và dân chủ cho miền Nam và giành quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam theo tinh thần của Hiệp định Ba-Lê. Tôi kêu gọi tất cả những người, tổ chức, tôn giáo và chính trị gia, những người cho rằng tôi là kẻ cản trở ḥa b́nh và cho rằng tôi bất lực trong việc mang lại ḥa b́nh và bảo vệ miền nam đă không thể đánh bại cộng sản và lập lại ḥa b́nh, hăy tiếp tay giúp Tổng thống Trần Văn Hương đem lại ḥa b́nh, danh dự, tự do, ấm no, dân chủ, bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris mà CSVN bắt buộc phải tôn trọng, và thực hiện quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam như trong Hiệp định Ba-Lê. Tóm lại, tôi không muốn bất cứ ai sử dụng cá nhân tôi – tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – như một cái cớ để ngược đăi đất nước này. Kể từ giờ phút này trở đi, không thể viện cớ đó nữa và bây giờ phải thể hiện sự chân thành và trung thực của ḿnh. “…”
Thưa quư vị, đồng bào và anh chị em
Tôi đă phục vụ đồng bào, anh chị em trong 10 năm qua. như tôi đă nói, tôi không thiếu can đảm. Không phải là bất kỳ cuộc biểu t́nh hay vu khống nào có thể làm tôi nản ḷng và mất tinh thần và buộc tôi phải từ chức một cách vô nghĩa và vô trách nhiệm, cũng không phải v́ chịu trước áp lực của đồng minh, cũng không phải v́ những khó khăn. Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Kể từ giờ phút này, tôi đặt ḿnh vào sự sử đụng của tổng thống, đồng bào và quân đội. Khi tôi từ chức, ông Trần Văn Hương sẽ trở thành tổng thống, và đất nước chúng ta sẽ không mất ǵ cả. Biết đâu đất nước ta lại có thêm một chiến sĩ ra mặt trận. Kề vai sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ bảo vệ đát nước. Giờ đây, tôi xin cám ơn đồng bào, quư vị, anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, và tôi xin từ biệt.
Tôi xin nhắc lại yêu cầu của tôi, yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội, và Tối Cao Pháp Viện chấp nhận với sự hiện diện của quư vị, theo đúng điều 55 của Hiến Pháp để cho Phó tổng thống Trần Văn Hương tuyên thệ nhậm chức Tổng thống. Cảm ơn.
(Theo tài liệu của CIA, thiết lập ngày 21.4.1975, chấp thuận cho phổ biến ngày 15.6.2010, loan tải trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017: « TEXT OF THIEU’S RESIGNATION SPEECH (https://www.cia.gov/readingroom/document/loc-hak-244-10-4-5) ».)
✱ Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài G̣n
( Trích đoạn theo tường thuật của Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận, tháp tùng phái đoàn TT Thiệu rời Sài G̣n đi Đài Loan tối ngày 25.4.1975).
“ … Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố Sài-G̣n ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế th́ tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay…” Đó là theo lời kể của ông Frank Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434. “…”
Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc ông Polgar đang viết, tôi đă bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!
Liền sau đó Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại tá Đức, Trung tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau vào hai xe c̣n lại. “…”
Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-g̣n.- Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đao, đem theo hai vị lănh tụ quốc gia, một tướng lănh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một ṿng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài-G̣n, rồi hướng về biển Đông…
Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tŕnh lên Tổng thống Trần Văn Hương có nội dung như sau: (Tổng thống Thiệu viết tay)
Kính tŕnh: Tổng thống Trần Văn Hương.
Thưa cụ, Để thực hiện công cụ giao phó, tôi kính xin cụ đồng ư cho những bác sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du: 1. Đại tá Vơ Văn Cầm 2. Đại tá Nguyễn Văn Đức 3. Đại tá Nhan Văn Thiệt 4. Đại tá Trần Thanh Điền 5.Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu 6. Thiếu tá Hồ Vương Minh 7. Đại úy Nguyễn Phú Hải (giờ không có mặt) 8. Phục hồi chức năng viên (chờ không có mặt). Ngoài ra, Cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần theo các sĩ quan và dân sự sau đây: 1. Trung tá Đặng Văn Châu – 2. Thiếu tá Đinh Sơn Thông -3. Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận -4. Ông Đặng Vũ (giờ không có mặt). Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi tŕnh cụ chấp thuận ./. Kính chào Tổng thống (kư tên Thiệu) . Tổng thống Trần Văn Hương phê duyệt, Đề ngày 25/4/75, và kư tên Trần Văn Hương. ( Theo Bất Khuất Net: « Những ngày cuối của TT Ng. V.Thiệu ở Sài G̣n (http://batkhuat.net/tl-nhungngaycuoi-tt-nvt-saigon.htm) » –Thiếu tá NgT Phận: Tháng 4.1975 phụ trách an ninh cho Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm. – Tháp tùng phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 25-4-1975).
Điều mà TT Nguyễn Văn Thiệu lên án Mỹ nêu trên ” … Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính ngĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc” là có nguyên do….V́ vào ngày 21.1.1973, TT Thiệu đă phúc đáp tối hậu thư của TT Nixon (20.1.1973), buộc TT Thiệu phải kư tắt vào bản Hiệp định Paris . Trong thư phúc đáp gửi TT Nixon, có đoạn văn với nội dung : “ Trước những tuyên bố của Ngài rằng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH sẽ bị cắt đứt nếu tôi không tham gia cùng Ngài, dựa trên cơ sở đảm bảo mạnh mẽ của Ngài về việc tiếp tục viện trợ cho Chính phủ Việt Nam sau khi ngừng bắn, tôi chấp nhận lịch tŕnh của Ngài đă đề ra liên quan đến việc kư tắt thỏa hiệp vào ngày 23 tháng 1 năm 1973″ . (Theo Thư viện BNG/FRUS ngày 21.1.1973: « Letter From South Vietnamese President Thieu to President Nixon (https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1969-76v09/d320) »).
Xem ra qua chiến tranh Việt Nam, Mỹ đă dùng cuộc chiến này để “… đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán”. Trước đó, có thể v́ lo lắng cho tương lai khi quan hệ với Mỹ, vào năm 1957: Trong cuộc gặp gỡ với TT Eisenhower, TT Diệm yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam – « During the meeting with Eisenhower, Diệm asked about the American commitment towards the defense of South Vietnam. (https://en.wikipedia.org/wiki/State_visit_by_Ngo_Dinh_Diem_to_the_United_States) ». Bốn năm sau, năm 1961: Vào ngày 18 (tháng 10), TT Diệm nói rằng ông ta không muốn quân đội Hoa Kỳ tham gia với bất kỳ nhiệm vụ nào. Ông lặp lại yêu cầu về một hiệp ước pḥng thủ song phương «On the 18th, Diem said he wanted no U. S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty (https://nara-media-001.s3.amazonaws.com/arcmedia/research/pentagon-papers/Pentagon-Papers-Part-IV-B-1.pdf) » (Pentagon Papers, page 26/197) . V́ thế việc “yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam” và yêu cầu kư kết ”hiệp ước pḥng thủ song phương” đă không c̣n lư do tồn tại sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.
Sang đến thời Đệ II VNCH, một thời gian sau cuộc đảo chánh, vào năm 1965 chính phủ Phan Huy Quát đă « “INVITE “ the United States to send the Marines (https://www.history.com/this-day-in-history/u-s-marines-land-at-da-nang) » đến Việt Nam, trái ngược với chủ trương thời Đê I VNCH là “wanted no U. S. combat troops… “ Sau 8 năm Mỹ đem quân vào Việt Nam, dẫn đến kết quả là TT Thiệu bị buộc phải thi hành tối hậu thư (1.1973), để rồi hai năm sau dẫn đến việc khai tử nền Đệ II Việt Nam Cộng Ḥa vào ngày 30.4.1975.
Đào Văn