tcl
29-04-2016, 02:42
Phạm Anh Dũng
Tôi, ngày xưa vẫn không bao giờ tin vào tôn giáo, Phật hay Chúa. Nhưng rồi có một chuyện xảy ra trong đời làm thay đổi cả ư đó. Chuyện xảy ra vào đêm 29 Tháng Tư năm 1975. Từ đó đến nay, năm nào đến những ngày Tháng Tư, tôi và Minh Hà vẫn nhắc lại cho nhau.
Năm 1974, tôi ra trường Y Khoa và khóa 21 Quân Y Hiện Dịch, sau khi học khóa huấn luyện cuối cùng ở Tổng Y Viện Cộng Ḥa, đến lúc chọn đơn vị.
Tháng Ba năm 1975, tôi được phái đi miền Trung làm y sĩ cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh, đơn vị đầu tiên và cũng là cuối cùng trong đời quân đội. Chỉ khoảng 2 tuần sau, ngày 29 Tháng Ba, 1975 Đà Nẵng mất. Tôi may mắn thoát được bằng đường biển.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/165148-triet_1-400.jpg
(H́nh minh họa: Uyên Việt/Người Việt)
Về đến Sài G̣n, t́nh h́nh căng thẳng, thành phố rối loạn, dân chúng t́m đường đi. Tôi bàn với Minh Hà và xin phép bố mẹ hai bên làm một đám cưới, để khi cần, có thể cùng chạy với nhau.
Sau đám cưới, thật nhỏ và thật đơn giản, tôi trở ra Bà Rịa theo lệnh "tái phối trí" Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nhưng tôi đành quay về Sài G̣n do không gặp một quân y dược hay nha sĩ nào trong Tiểu Đoàn Quân Y. Trên đường về, tôi gặp một số quân lính của Sư Đoàn 18, từ Xuân Lộc cũng đang thoái lưu về hướng Sài G̣n.
Niềm hy vọng cuối cùng coi như sắp chấm dứt.
Chiều ngày 29 Tháng Tư năm 1975, không có phương tiện và cũng chẳng có quen ai, tôi dẫn Minh Hà ra bến Bạch Đằng ở Sài G̣n. Không ai trong gia đ́nh hai bên có can đảm đi theo. Căn cứ Hải Quân đóng kín bằng hàng rào kẽm gai. Chẳng mấy chốc đêm tối đổ xuống. Vài tiếng súng nổ đâu đó. Dân chúng hỗn loạn, không có đường thoát.
Trong đêm, lúc tôi và Minh Hà vẫn c̣n đi loay hoay quanh bến tàu, bỗng có người đàn bà không hiểu ở đâu ra, gọi với theo, cho tôi biết cổng vào của Hải Quân đă mở. Cả ba chúng tôi cố đi thật nhanh như chạy và len thoát qua được cổng, vào trong căn cứ Hải Quân.
HQ-1 là chiếc tàu đầu tiên chúng tôi gặp. Nhưng hàng ngàn người đă đứng xếp hàng nơi cầu thang đợi lên tàu. Chúng tôi là những người ở hàng cuối cùng, không có hy vọng đến lượt. Tự nhiên người đàn bà đă dẫn dắt chúng tôi nói với Minh Hà, rằng, đằng sau tàu có người đang leo dây lên tàu.
Thế là cả ba người đi ra phía sau của tầu. Nhưng khi đến chỗ có người leo dây lên tàu th́ tôi và Minh Hà không c̣n thấy người đàn bà đó nữa.
Tôi nắm dây, từ dưới đẩy Minh Hà, nhờ người ở trên kéo lên trước và chính ḿnh leo dây theo sau. Lên được tàu th́ chỉ độ hai phút đồng hồ sau lính Hải Quân chặt dây ở thang lên để tàu ra khơi.
Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi đang lênh đênh trên biển, chúng tôi được tin Sài G̣n đă mất.
Đến bây giờ, tôi vẫn không biết người đàn bà dẫn dắt chúng tôi là ai.
Minh Hà tin và tôi đồng ư, chắc chắn là Phật Bà Quan Âm hay Đức Mẹ, đă đến với chúng tôi trong lúc tuyệt vọng như thế.
Phạm Anh Dũng
(tháng Tư 2013)
Nguồn : nguoiviet
Tôi, ngày xưa vẫn không bao giờ tin vào tôn giáo, Phật hay Chúa. Nhưng rồi có một chuyện xảy ra trong đời làm thay đổi cả ư đó. Chuyện xảy ra vào đêm 29 Tháng Tư năm 1975. Từ đó đến nay, năm nào đến những ngày Tháng Tư, tôi và Minh Hà vẫn nhắc lại cho nhau.
Năm 1974, tôi ra trường Y Khoa và khóa 21 Quân Y Hiện Dịch, sau khi học khóa huấn luyện cuối cùng ở Tổng Y Viện Cộng Ḥa, đến lúc chọn đơn vị.
Tháng Ba năm 1975, tôi được phái đi miền Trung làm y sĩ cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh, đơn vị đầu tiên và cũng là cuối cùng trong đời quân đội. Chỉ khoảng 2 tuần sau, ngày 29 Tháng Ba, 1975 Đà Nẵng mất. Tôi may mắn thoát được bằng đường biển.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/165148-triet_1-400.jpg
(H́nh minh họa: Uyên Việt/Người Việt)
Về đến Sài G̣n, t́nh h́nh căng thẳng, thành phố rối loạn, dân chúng t́m đường đi. Tôi bàn với Minh Hà và xin phép bố mẹ hai bên làm một đám cưới, để khi cần, có thể cùng chạy với nhau.
Sau đám cưới, thật nhỏ và thật đơn giản, tôi trở ra Bà Rịa theo lệnh "tái phối trí" Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nhưng tôi đành quay về Sài G̣n do không gặp một quân y dược hay nha sĩ nào trong Tiểu Đoàn Quân Y. Trên đường về, tôi gặp một số quân lính của Sư Đoàn 18, từ Xuân Lộc cũng đang thoái lưu về hướng Sài G̣n.
Niềm hy vọng cuối cùng coi như sắp chấm dứt.
Chiều ngày 29 Tháng Tư năm 1975, không có phương tiện và cũng chẳng có quen ai, tôi dẫn Minh Hà ra bến Bạch Đằng ở Sài G̣n. Không ai trong gia đ́nh hai bên có can đảm đi theo. Căn cứ Hải Quân đóng kín bằng hàng rào kẽm gai. Chẳng mấy chốc đêm tối đổ xuống. Vài tiếng súng nổ đâu đó. Dân chúng hỗn loạn, không có đường thoát.
Trong đêm, lúc tôi và Minh Hà vẫn c̣n đi loay hoay quanh bến tàu, bỗng có người đàn bà không hiểu ở đâu ra, gọi với theo, cho tôi biết cổng vào của Hải Quân đă mở. Cả ba chúng tôi cố đi thật nhanh như chạy và len thoát qua được cổng, vào trong căn cứ Hải Quân.
HQ-1 là chiếc tàu đầu tiên chúng tôi gặp. Nhưng hàng ngàn người đă đứng xếp hàng nơi cầu thang đợi lên tàu. Chúng tôi là những người ở hàng cuối cùng, không có hy vọng đến lượt. Tự nhiên người đàn bà đă dẫn dắt chúng tôi nói với Minh Hà, rằng, đằng sau tàu có người đang leo dây lên tàu.
Thế là cả ba người đi ra phía sau của tầu. Nhưng khi đến chỗ có người leo dây lên tàu th́ tôi và Minh Hà không c̣n thấy người đàn bà đó nữa.
Tôi nắm dây, từ dưới đẩy Minh Hà, nhờ người ở trên kéo lên trước và chính ḿnh leo dây theo sau. Lên được tàu th́ chỉ độ hai phút đồng hồ sau lính Hải Quân chặt dây ở thang lên để tàu ra khơi.
Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi đang lênh đênh trên biển, chúng tôi được tin Sài G̣n đă mất.
Đến bây giờ, tôi vẫn không biết người đàn bà dẫn dắt chúng tôi là ai.
Minh Hà tin và tôi đồng ư, chắc chắn là Phật Bà Quan Âm hay Đức Mẹ, đă đến với chúng tôi trong lúc tuyệt vọng như thế.
Phạm Anh Dũng
(tháng Tư 2013)
Nguồn : nguoiviet