PDA

View Full Version : Bàn về làm giàu từ ngữ Tiếng Việt



BigBoy
12-09-2022, 02:40
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/1.png (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/1.png)

Từ ngữ tiếng Việt hiện tại ngày càng phong phú đáp ứng được nhu cầu diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống văn minh hiện đại. Có những yếu tố quan trọng quyết định cho các thành tựu ấy.
Bài viết “Bàn về làm giàu từ ngữ tiếng Việt” gồm 2 phần :
1) Các đặc điểm của từ ngữ tiếng Việt.
2) Các phương thức làm giàu từ ngữ tiếng Việt.
I) CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT.
Trong mọi ngôn ngữ, mỗi ‘từ’ (chữ, tiếng, word) được h́nh thành từ các âm tiết.
Âm tiết (syllable) là đơn vị phát âm ngắn nhất, thể hiện bởi một nguyên âm và các phụ âm đi kèm. Vd: ‘ong’ và ‘trong’ ở tiếng Việt, ‘on’ (trên) và ‘strong’ (khỏe) tiếng Anh.
Để làm tăng thêm số lượng ‘từ’, sự sắp xếp các âm tiết với nhau là giải pháp.
Có 2 cách tập hợp âm tiết, đều dễ dàng và thuận lợi ngang nhau.
1) Tập hợp các âm tiết đứng chung, sát nhau để tạo những từ đơn mang nhiều âm tiết. Vd: ‘teacher’ (thầy giáo), ‘education’ (giáo dục) ở tiếng Anh. Tiếng Anh được gọi là ‘đa âm tiết’.
2) Tập hợp các âm tiết đứng riêng, cạnh nhau để tạo những từ ‘phức’ (đa số là từ đôi). Vd: ‘thầy giáo’, ‘giáo dục’ ở tiếng Việt. Thầy giáo’ là một từ ‘phức’ do 2 từ đơn âm tiết ‘thầy’ và ‘giáo’ ghép chung. Tiếng Việt do đó được gọi là ‘đơn âm tiết’.
Cũng có khi từ Việt ngắn gọn hơn từ Anh, vd. ‘education’ với 4 âm tiết, ‘giáo dục’ chỉ hai.
Nhận xét :
1) Ghép các từ đơn đứng cạnh nhau để tạo từ phức là đặc điểm của tiếng Việt đơn âm tiết.
Một số các nhà học giả gợi ư viết các âm tiết trong từ phức tiếng Việt dính liền nhau, ví dụ : “thầygiáo” và “độclập”. Điều này khiến ‘từ’ Việt có dạng đa âm tiết tương tự chữ viết Pinyin của Trung Quốc Latin hóa để chú âm các chữ Hán. Thí dụ : 老师Lǎoshī = lăo sư = thầy giáo. Nóngsh́ = nông sự = đồng áng. Chēliàng = xa lượng = xe cộ. Yuènán = Việt Nam.
2) Số lượng âm tiết của một ngôn ngữ là hữu hạn, song sự kết hợp giữa chúng để tạo ‘từ’ mới là bất tận. Thực tế, như ở Trung Quốc sở hữu số lượng 3.000 từ đơn cùng khoảng 15.000 từ phức liên quan đi kèm đă là tương đương tŕnh độ một học sinh tốt nghiệp trung học bao gồm đủ các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xă hội mà hàng ngày thường tiếp xúc.
Ở nước ta, sách Tam Thiên Tự dạy 3.000 chữ Hán do Ngô Thời Nhậm (1746-1803) soạn được xem là có rất nhiều chữ song đọc dễ nhớ v́ soạn theo thể vè 4 chữ.
Theo từ điển mở Wikipedia th́ có khoảng một ngh́n từ tiếng Anh được gọi cơ bản để cho người ta có thể sử dụng trong các hoạt động thông thường.
II) CÁC THUẬN LỢI LÀM GIÀU TIẾNG VIỆT.
Có hai thuận lợi : 1) Sự linh động của văn phạm Việt. 2) Yếu Tố ‘từ’ Hán Việt.
1) Sự Linh Động Của Văn Phạm Tiếng Việt.
Văn phạm tiếng Việt đơn giản, mềm dẻo, uyển chuyển dung nạp được những sai phạm theo tiêu chuẩn thông thường.
1.1) Nhiều câu có thể đọc xuôi hoặc ngược. “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” có thể đọc ngược : “Hoa chen lá, đá chen cây cỏ”.
Nhiều bài thơ thuộc loại ”Thuận nghịch độc”, đọc xuôi ngược đều được.
1.2) Từ đôi được tạo dễ dàng, là đặc điểm và là nền tảng làm giàu từ ngữ mới.
Có hai loại từ đôi : từ ghép và từ láy.
1.2a) Từ ghép gồm : + ghép ‘chính chính’ (đẳng lập) và + ghép ‘chính phụ’.
+) Từ ghép ‘chính chính’ đồng loại, cùng là danh từ, tính từ hoặc động từ. Khá nhiều từ ghép ‘chính chính’ có thể đọc đảo ngược. Thí dụ: danh lợi (danh và lợi), thù hận, tranh đấu, núi rừng, củi lửa, chọn lựa, kết nối, vui buồn, kiêng cử… Không đảo từ được, vd: đất nước, can đảm, thành bại, hiền từ, bạn hữu, sự việc…
Theo ngữ nghĩa có 3 trường hợp ghép chính chính:
–Ghép 2 từ đơn gần đồng nghĩa th́ nhằm bổ sung nghĩa, vd: ngu ngốc, tập dượt, mồ mả.–Ghép 2 từ đối nghĩa để tổng hợp mọi khả năng, t́nh huống, vd: ngày đêm, tốt xấu, ít nhiều.–Chứa 2 từ có liên quan ngữ nghĩa là để khái quát hóa, vd: ăn ở, đồng ruộng, nhớ thương. Loại từ này đa dạng, ẩn dụ, vd: đất nước, non sông, búa ŕu, sấm sét, trâu ngựa…+) Từ ghép ‘chính phụ’, gồm một từ chính và một từ phụ, định tính. Thường không thể đọc đảo từ, vd: ăn mày, nhà chứa, máy bay, xe đ̣, cá lóc… lắm khi đảo từ làm khác nghĩa hẳn, vd: chịu khó/khó chịu, hạ thủ/thủ hạ, vi phạm/phạm vi….
Nhiệm Vụ Của Từ Ghép :
+) Từ ghép chính chính làm giàu tiếng Việt do cải tiến, là bước đi ngang mở rộng cách dùng, vd: đă có quy mô, quy tắc, quy củ, quy nạp v.v… nay thêm quy hoạch, quy kết, quy tŕnh, quy chụp…
Tiếng Việt thêm chuẩn xác và hiệu quả trong mọi hoàn cảnh, mọi t́nh huống.
+) Từ ghép chính phụ nhằm sáng tạo, vd: xe ôm, phượt thủ, triều cường…, nhằm dịch thuật, vd: vệ tinh (satellite), xa lộ (highway), siêu âm (ultrasound), nhất là dịch thuật ngữ các ngành khoa học, kỹ thuật, hoặc nhằm giới thiệu các sản phẩm mới như tủ lạnh, iPhone, ḷ vi ba, thang cuốn…
Về mặt thực tiễn từ ghép chính phụ là bước đi tới, khai phá, tích cực và thiết yếu.
Từ láy tả t́nh, tả cảnh có tính biểu cảm cao, đáng tiếc số lượng hầu như không tăng thêm.1.2b) Từ láy.
Từ đôi láy (gọi tắt là từ láy) đáp ứng 2 điều kiện sau :
+ Chứa ít nhất một từ vô nghĩa, vd : khỏe khoắn, luộm thuộm, bẽn lẽn.+ Có yếu tố láy âm (điệp âm). Một từ, thông thường là từ đứng sau, lặp lại:

a) hoặc phụ âm đầu của từ đứng trước, vd: phụ âm ‘b’ trong bạc bẽo, buồn bă, bẽ bàng.
b) hoặc lặp lại vần âm sau, vd: vần ‘àu’ trong làu bàu, càu nhàu, bàu nhàu.

Trường hợp có nguyên âm đứng đầu từ : mọi nguyên âm được xem có thể láy với nhau.
+ cả 2 từ đều bắt đầu bằng nguyên âm = là từ láy, vd: ỡm ờ, ấp úng, èo uột, ỉ ôi, ́ ạch.+ chỉ từ đầu bắt đầu bằng nguyên âm + láy đúng vần âm sau = là từ láy, vd: a ha, áy náy, ăn năn, ô rô (cây), ôi thôi, ung dung, úc núc…+ chỉ từ đầu bắt đầu bằng nguyên âm + láy sai vấn âm sau = từ láy vớt, láy biến âm, không hoàn chỉnh? vd: âm thầm, eo sèo, ê chề, ê hề, êm đềm, ủ rũ, um tùm…
Ngoài ra nếu từ láy có chứa các dấu ‘hỏi’ và ‘ngă’ th́ có thể sử dụng luật “sắc không hỏi” – “huyền ngă nặng” giúp xác định dấu hỏi ngă của từ. Thí dụ: nghỉ ngơi và nghĩ ngợi.
Có trường hợp gây nhiều tranh căi : chỉ có từ vô nghĩa, không có yếu tố láy, vd: đồng áng, phân bua, góa bụa, già nua, búa xua, bếp núc, giàu sụ – từ chưa rơ gốc, là từ cổ? là chính chính?
Chú ư: Các từ đôi ‘cuồn cuộn, thăm thẳm, đo đỏ, bươm bướm’… chỉ láy phụ âm đầu. Các từ đôi ‘rưng rưng, làu làu, kè kè’… là những điệp từ = láy từ (phân biệt với từ láy là điệp âm).
Có từ điển từ láy. Tổng số từ láy là trên 2500, rất phong phú, có các đặc điểm sau :


a) Từ láy phụ âm đầu chiếm đại đa số và đa số các từ thành phần khác vần bằng trắc, vd: bền bĩ, giữ ǵn, ngọt ngào, vui vẻ… (*).
b) Từ láy vần âm sau có số lượng khoảng 60 và các từ thành phần luôn cùng vần bằng trắc, vd: bơ vơ, chờn vờn, lác đác, tỉ mỉ (chủ yếu các chữ b, l, t, ch).
c) Từ láy có nguyên âm đứng đầu từ có số lượng khoảng 60, vd: inh ỏi, im ĺm…

Tất cả đêu không thể đọc đảo ngược ngoại trừ chỉ một hai chục từ năng dùng thuộc loại láy phụ âm đầu : bề bộn, dở dang, đau đớn, giữ ǵn, hững hờ, lai láng, lửng lơ, lững lờ, mịt mờ, mù mịt, ngạt ngào, tả tơi, tha thiết, thẫn thờ, thơ thẩn, thướt tha, vấn vương, xác xơ, xạc xờ…
Các từ Hán Việt cũng có khả năng tạo từ đôi láy: bạc bẽo, biền biệt, dư dả, đăi đằng, hăi hùng, hậu hĩnh/hĩ, hiểm hóc, khách khứa, kỳ quặc, lạc lơng, mê mẩn, mỹ miều, năo nề/nùng/nuột, ngại ngùng, ngạo nghễ, nghiệt ngă/ngơng, nhă nhặn, nhục nhă, quá quắt, tập tành, tằn tiện, thực thà, tiện tặn, tục tằn/tĩu, túy lúy,…
Sự đọc đảo ngược rất hữu ích trong thi văn, để gieo đúng vần.
Thí dụ : “Trăng ngập ḍng sông chảy láng lai”- Hàn Mặc Tử.
1.3) Sử dụng danh từ thành động từ hoặc tính từ.
Thí dụ : Cô rất thần tượng cha cô. Rất ấn tượng cô giáo.
Gia đ́nh cô rất hoàn cảnh, nét mặt tâm trạng, h́nh sự, một biệt thự rất đẳng cấp…
Tương tự ‘danh giá’ là danh từ trong ‘danh giá gia đ́nh’, tính từ trong ‘gia đ́nh danh giá’.
Có khi như `yêu cầu`, ngược lại, động từ thành danh từ.
Văn phạm Việt thích hợp với ngữ pháp `lặp từ’, viết thêm từ đồng nghĩa cho có đôi, vd: chửi rủa, hủy bỏ, bạn hữu, đều đều, lâng lâng, xanh xanh. Hoặc giả ‘ngày sinh nhật’, ‘người công nhân’. Thông thường người ta nói: ‘vụ này’ hoặc ‘việc này’, bây giờ th́ luôn nghe ‘vụ việc’ này.
Chữ Hán ’vụ’务 = việc, vd : công vụ. Chữ ‘sự việc’ cũng năng được dùng. ‘Sự’ 事 = việc.
Tuy vậy ngữ pháp điệp từ (điệp=trùng lặp) này tiếng Anh gọi là ‘redundancy’ hoặc ‘pleonasm’ rườm rà theo họ nên tránh v́ thêm yểu tố thừa không cần thiết (needless repetition). Tiếng Anh nói: ‘return back, repeat again, new innovation…’ th́ các chữ: ‘back=lui, again=lại, new=mới’ là thừa v́ ‘return’ đă có nghĩa trả lui, ‘repeat’ đă có nghĩa nói lại, ‘innovation’ đă có nghĩa đổi mới.
Tiếng Việt có thể nói ’dư thừa’ dù dư=thừa và cũng có thể sử dụng từ láy: dư dả, thừa thăi.
1.4) Văn phạm uyển chuyển lắm lúc gây t́nh trạng lẫn lộn.
Áo ấm = áo lạnh/rét (giữ ấm chống rét), đánh thắng = đánh bại (ta thắng địch bại), giảm bớt = giảm thêm (bớt lại, giảm thêm), thấp bớt = thấp thêm, gầy bớt = gầy thêm, mở điện = đóng điện, nên dùng mở và tắt, tiếng Việt bỏ dấu = thêm dấu, nín thinh = làm thinh (làm sự nín thinh). ‘Cặp đôi’ vợ chồng = cặp vợ chông (cặp=đôi là từ đồng nghĩa lặp lại).
Hoặc nói tắt: “quyết” thay thế ‘quyết định’ , “quản” thay thế ‘quản lư’, “phí” là “lệ phí”, tiền “tuất” là tiền ‘tử tuất’, người “lịch” = ‘lịch lăm’, “căng” = căng thẳng, “tuyển” VN = đội tuyển VN, “trao đổi” = trao đổi ư kiến, bà “chăm” ông = chăm nuôi…
2) Yếu Tố Từ Hán Việt Trong Tiếng Việt.
Chúng ta xét 1) các đặc điểm, 2) vai tṛ các từ Hán Việt.
2.1) Các Đặc Điểm Của Từ Hán Việt.
2.1a) Theo Hán ngữ đại tự điển th́ số lượng chữ Hán đơn là trên 56.000.
Tiếng Việt cho nhập tịch khoảng 5.000 ‘từ’ Hán (gần 1/10 tổng số) và hoán cải theo âm Việt. Đó là những từ Hán Việt, trong số đó chỉ khoảng 1.000 từ là thực sự thông thường được dùng.
Trong tiếng Việt hiện nay, từ vựng Hán Việt chiếm khoảng 70%, c̣n lại 30% là từ thuần Việt, tuy ít hơn nhưng luôn dùng.
Từ thuần Việt chiếm tỷ lệ trên 90% trong giao tiếp chuyện tṛ hàng ngày, kịch nói, trên 85% trong các tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn, hồi kư… Từ đơn thường được dùng.
Trong bốn câu đầu của truyện Kiều: “Trăm năm trong cơi…” chỉ có 2 từ Hán Việt (tài mệnh).
Bài thơ ‘Bánh Trôi Nước’ 28 chữ của Hồ Xuân Hương chỉ có một từ Hán Việt (Thân em).
Từ Hán Việt ngược lại chiếm khoảng trên dưới 70% ở các công tŕnh biên khảo khoa học, kỹ thuật, kinh tế, nghệ thuật, triết, văn, tôn, chính trị, quân sự… cần sử dụng các danh từ trừu tượng thường thiếu sót trong tiếng Thuần Việt. Từ đôi là thông dụng.
2.1b) Nhiều từ đơn Hán Việt trùng với từ Thuần Việt (từ Nôm) nên có thể đứng riêng lẻ, vd: thần, thánh, đông, tây, học, hoăn, ác, hung, tạo, tại… Song đa số đứng thành cặp, đôi ba (từ phức) vd: bảo đảm, can đảm, phong trần, kết liễu, câu lạc bộ… Chữ Hán ít âm tiết, đa nghĩa, đoán được nghĩa là khó. Nếu chúng đứng cụm đôi, ba với nhau th́ dễ nhận diện.
2.1c) Các bất đồng giữa từ ngữ Việt, Trung :
+Khác lời – Tiếng Việt nói: “ca sĩ, thi sĩ, họa sĩ, văn sĩ (nhà văn), phi công, tài xế…” th́ tiếng Trung nói: ca thủ, thi nhân, họa gia, tác gia, phi hành viên, tư cơ (tư=điều khiển).
+Khác nghĩa — Tiếng Trung “khôi ngô” là nở nang, to tát, th́ tiếng Việt có nghĩa nam nhi mặt mày sáng suả đẹp đẽ. “Đinh ninh” là dặn ḍ th́ tiếng Việt hiểu là tin chắc. “Bần tiện” là nghèo hèn th́ tiếng Việt hiểu trệch ra là keo kiệt, thù vặt, kém nhân phẩm. “Tử tế” là tỉ mỉ, cẩn thận, tằn tiện th́ tiếng Việt có nghĩa xử sự tốt. “Khốn nạn” là rắc rối, khó khăn th́ tiếng Việt có nghĩa hèn mạt, đáng khinh. “Vấn nạn” là hỏi vặn th́ tiếng Việt dùng với nghĩa vấn đề khó khăn, nan đề…
Các thí dụ rất nhiều nên chẳng để tâm làm ǵ, chữ nghĩa của ai nấy dùng.
2.2) Vai Tṛ Các Từ Hán Việt.
Tiếng Việt hưởng lợi sở hữu 2 tài sản ngôn ngữ. Đó là tiếng Thuần Việt (Nôm) và tiếng Hán Việt khiến nhiều sự việc được diễn tả theo hai cách, b́nh thường mộc mạc hoặc văn vẻ kiểu cách. Có thể nói, viết : người đẹp hoặc ‘mỹ nhân’, giúp đỡ hoặc ‘hỗ trợ’, giàu sang hoặc ‘phú quư’, yêu nước hoặc ‘ái quốc’, chia buồn hoặc ‘phân ưu’, qua đời hoặc ‘tạ thế’, dùng hoặc ‘sử dụng’, có hoặc ‘sở hữu’, phần lớn hoặc ‘đa số’, vùng biển hoặc ‘hải phận’.…
Tuy nhiên có trường hợp tiếng Nôm bất túc, để diễn tả phải dùng ‘từ’ Hán Việt, văn vẻ.
Thí dụ: anh hùng, bổn phận, danh dự, thông minh, công lao, khuyến khích…
Ngược lại có nhiều tiếng Trung b́nh dị trong sinh hoạt hàng ngày th́ xa lạ với tiếng Việt.
Thí dụ : bồ đào=nho, b́nh quả=táo, thái=rau, năi=sữa, bính=bánh, trác tử=cái bàn, ma tước=chim sẻ, mă nghị=con kiến, chiếu tướng=chụp ảnh, lư phát=hớt tóc…
Cũng như các từ ngữ chưa hề được nghe : khảo lự, phủ tuất, thủ giản, dao khống, để cảo…
Theo loại h́nh, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song trong thực tế cấu trúc từ phức lại là chủ đạo. Tiếng Việt đă thành h́nh hiếm khi bổ sung từ đơn mới song vẫn đều đặn tạo từ phức.
–Từ phức, có thể thuần Việt, vd: thóc lúa, cày cấy, chia sẻ, đùm bọc, ghen ghét, cay đắng…
–Có thể Hán Việt, vd: b́nh đẳng, đoàn kết, tổ quốc, lạc quan, khả năng, tục huyền…
–Có thể hỗn từ (hỗn=trộn lẫn), vd: binh lính, bụi trần, da liễu, đơn chiếc, hiểm nghèo, học tṛ, bói toán, bồi đắp, chi trả, nuôi dưỡng, quê hương, thoái lui, sức lực, mùi vị, sự việc, tài giỏi, tiễn đưa, tụ họp, tuyển chọn, vi tính, vi sóng, xét xử, xương cốt, yến tiệc… Và linh tinh gần đây, in ấn, đạo nhái, siêu bền, chỉnh sửa, quốc giỗ, quy chụp, khai màn (khai mạc), di dời, vụ việc, hấp hôn, trải nghiệm, (từ gốc Hán được gạch dưới).
Các hỗn từ thể hiện sự phối hợp hữu ích, thông dụng và tinh xảo giữa từ Nôm và từ Hán.
Các từ Hán Việt giúp làm tăng từ một lên 3 lần khả năng tạo từ đôi mới trong tiếng Việt.
Có những từ Hán Việt thuộc loại rất khó, ít sử dụng, vd: ‘lân tuất’, ‘trừ tịch’, ‘bỉ sắc tư phong’, phải được chú thích nghĩa. Nhiều từ khác, năng gặp hơn, vd: ‘kỳ phùng địch thủ’, bạn ‘cố tri’, người ‘tâm phúc’, người ‘thục nữ’, ‘thiên kiều bá mị’.
Tất nhiên mọi người đều dễ dàng hiểu nghĩa các từ phức ấy, lắm khi ngỡ là tiếng thuần Việt. Đại khái kỳ phùng địch thủ = kẻ ngang tài, bạn cố tri = bạn quen cũ, người tâm phúc = người tin cẩn, thục nữ = người đàn bà đức hạnh, thiên kiều bá mị = xinh đẹp tuyệt vời.
Song chỉ những ai nắm được nghĩa của mỗi từ đơn Hán Việt, vd : ‘kỳ’= đánh cờ, phùng= gặp, cố= xưa, tri = biết, tâm = tim, ‘phúc’= bụng, thục = hiền lành v.v… th́ từ đó mới có thể thao tác chúng để tạo thêm từ phức khác. Thí dụ đă có ‘tọa cụ’ của các thiền sư, lại đặt thêm từ ‘ngọa cụ’.
Chữ cụ具jù = đồ dùng vốn đă cung cấp cho tiếng Việt hàng loạt từ đôi thông dụng: cụ thể, dụng cụ, công cụ, khí cụ, nhạc cụ, họa cụ, cụ bị, nông cụ, học cụ, h́nh cụ, gia cụ, quân cụ, y cụ, đạo cụ… Có nhiều biện pháp tu từ để làm giàu từ ngữ tiếng Việt. (xem tiếp, Phần 2). Lê Bá Vận. Chú Thích. (*) Các từ láy ‘khù khờ, rắc rối, ngao ngán, nhút nhát, (láy phụ âm đầu), bàu nhàu, lom khom, tờ mờ (láy vần âm sau)’… do từ đứng trước là vô nghĩa nên láy âm theo từ đứng sau có nghĩa.

BigBoy
12-09-2022, 02:47
Bàn về làm giàu từ ngữ Tiếng Việt – Phần 2
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/12.jpg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/12.jpg)

Phần 1 : Các Đặc Điểm Của Từ Ngữ Tiếng Việt.Phần 2 : Các Phương Thức Làm Giàu Từ Ngữ Tiếng Việt.———-
I) Các Phương Thức Làm Giàu Từ Ngữ Tiếng Việt.
Với hành trang từ vựng rồi rào bao gồm từ Nôm và từ Hán Việt cùng với tính đơn giản, mềm dẻo của văn phạm, các biện pháp tu từ nhằm tạo từ ngữ mới dùng những phương thức sau:
1) Nhập Từ. Là sáp nhập từ của một cặp từ đôi để tạo một từ đôi mới, súc tích.
Vd: ‘Kích cầu’ = kích thích nhu cầu. Các thí dụ khác: ‘Danh giá’ là danh tiếng và giá trị. ‘Truy tra’= truy xét + tra hỏi. ‘Kính ngưỡng’ = kính trọng và ngưỡng mộ, ‘Tham tàn’ = tham lam + tàn bạo. ‘Pḥng chống’ = pḥng ngừa + chống trả. Quan ngại = quan tâm và lo ngại.
Gần đây nhất là một số từ phức mới : ‘Chuyên cơ’ = phi cơ chuyên biệt, là biệt cơ. ‘Thu dung’ = tiếp thu và dung nạp. ‘Tinh chỉnh’ là tinh vi + chỉnh tu. ’Di biến động’ = di dịch (xê dịch) về biến động. ‘Thận mật’ = thận trọng và cẩn mật. ‘Trang dung’ = trang điểm dung nhan (makeup). ‘Điều nghiên’ = điều tra + nghiên cứu, ‘Điều chuyển’ = điều động + chuyển công tác, ‘Trải nghiệm’ = những kinh nghiệm đă trải qua, ‘Bản ngữ’ = ngôn ngữ của dân bản địa, tiếng mẹ đẻ…
Phải có tŕnh độ thâm nho để kết hợp các từ phức Hán Việt đă có nhằm tạo ra những từ mới.
2) Giản Từ. Là làm đơn giản một cặp từ đôi có cùng chung một từ đơn để tạo một từ phức mới, ví dụ: ‘thầy giáo’ và ‘cô giáo’ = ‘thầy cô giáo’, tương tự trong toán học: ax + bx = abx. Các thí dụ khác: ‘y bác sĩ’, ‘anh chị sui’, ‘thư họa sĩ’, ‘công nông lâm nghiệp’…
3) Giảm Từ. Là giảm bớt từ trong một từ phức mà vẫn giữ ư. Thí dụ: ‘Du sinh’ là du học sinh, ‘tiếp viên’=tiếp đăi viên, ‘tuyển VN’=đội tuyển VN, ‘vào viện’=vào bệnh viện, ‘bệnh viện nhi’ = bệnh viện nhi đồng, ‘tiền tuất’=tiền tử tuất, ‘thu phí’=thu lệ phí, ‘kính cận’ = kính cận thị, ‘vấn lớn’= vấn đề, vấn nạn lớn, ‘xe tải’ = xe vận tải, ‘theo chuẩn mới’ = theo tiêu chuẩn mới…
4) Hợp Từ là khâu quan trọng nhất. Là kết hợp 2 từ đơn làm thành một từ ghép hoặc một từ láy. Điều này đă được đề cập ở mục 1.2a và 1.2b phần 1.
+ Từ ghép ‘chính chính’. Điều nói thêm là có rất nhiều trường hợp ghép trong đó 2 từ miền Bắc và miền Nam đồng nghĩa đứng chung. Thí dụ : thóc lúa, lanh lẹ, điên khùng, khỏe mạnh, dẫm đạp, đón rước, lừa gạt, ngất xỉu, thuê mướn, dơ bẩn, cưng chiều, hù dọa, hư hỏng, khờ dại, kêu gọi, nón mũ, ô dù, tập dượt, sợ hăi, chà xát… Các từ miền Nam được gạch dưới.
+ Từ ghép ‘chính phụ’ luôn giữ vai tṛ tiên phong, chính yếu. Tiếng Việt dự trử nhiều từ đơn vô nghĩa như : ‘nàm, nảm, luôi, luối, luổi, cḥn, chón, chơn’… song lại sử dụng các từ đơn đă có sẵn để đặt tên các sự việc, sản phẩm mới, Thí dụ : ‘Tủ lạnh’ (refrigerator), ‘xe cứu thương’ (ambulance), ‘lưỡi lê’ (bayonet), ‘tên lửa’ (rocket, missile), ‘nhà xác‘ (mortuary), xe ôm’, ‘cơm bụi’, ‘chém gió’, ‘tự sướng’, ‘ném đá’, ‘đấu đá’, ‘cháy chợ’…
Cách ghép từ này rất logic khiến từ điển Việt vẫn phong phú bất tận mà không cần tạo từ đơn mới. Điều này rất thuận lợi cho người nước ngoài học tiếng Việt.
Các từ đơn mới chính hiệu rất hiếm, vd: phượt, chảnh… song có nhiều nếu đến từ tiếng nước ngoài, vd: ba, băng, bi, bia, bo, bom, bót, bồi, bơ, ca, cáp, cú, ga, jíp, jin, kem, két, kit, líp, lốp, lô, lơ, meo, phanh, phim, pin, sạc, séc, sên, sếp, sốc, sút, tem, típ, tua, tuưt, van, vít, viu, web, xăng, xeo, xích… Các từ đơn đa âm nhiều gấp bội: bít tết, ca vát, ôm lét, pơ luya, pích cóp, osin, ra gu, rumba…
Các từ đơn nôm như: ‘ăn, nói, nhà, cửa…’ đă tạo được rất nhiều từ ghép đa số là chính phụ. Thí dụ : ăn ảnh, ăn khách, ăn sương… nói bóng, nói leo, nói suông, nói trạng… nhà cái, nhà chứa, nhà đ̣n, nhà pha… cửa tử, cửa ải… diễn tả thâm thúy mọi góc nét đời sống tinh thần và vật chất.
+Từ láy giữ số lượng hầu như không tạo thêm từ láy mới, hoặc không đáng kể.


II) Các Thành Tựu..

Trong các thập niên vừa qua tiếng Việt đă có thêm hàng loạt từ ngữ mới phản ánh các nhu cầu trong cuộc sống có nhiều thay đổi.
1) Một số các từ ngữ là dễ gặp, vd : Nhất trí, quán triệt, kiên định, quá tŕnh, cảnh báo, tham quan, đối tác, nghị quyết, quyết sách, đề xuất, đả thông, thi đua, tất yếu, hộ khẩu (hộ=nhà, cửa), hộ chiếu (passport, hộ=hộ vệ, chiếu=chiếu cố), hạch toán, khẩn trương, quy tŕnh, kiều hối, khắc phục, chỉ đạo, chỉ tiêu, tiêu chí, định hướng, dự kiến, ấn tượng, cơ bản, bài bản, đột phá, đánh giá, đẩy mạnh, học tập, nâng cao, tiếp thu, phát huy, trăn trở, rà soát, săm soi, nhạy cảm, nhanh nhạy, đong đếm, đơm đặt, đấu đá, đánh động, gán ghép, tháo gỡ, vướng mắc, bôi trơn, bước ngoặt, vô tư, bức xúc, sự cố, vấn nạn, kịch bản, đại trà, tư liệu, bươn chải, năng nổ, khiên cưỡng, nghiêm túc, đề cao, chủ quản, nội thất, lưu ban, cơ cấu, cơ chế, tồn tại, tác nghiệp…
Các từ đơn : kênh (băng tần), diện, khâu, chảnh, nổ, khủng, choáng, chui, bèo (rẻ như bèo) và các tiếng lóng của giới trẻ: bánh bèo (dễ khóc, nhơng nhẽo), gấu (người yêu), sửu nhi (cư xử như trẻ con), cá sấu (phụ nữ xấu)…
Nói chung những người có kiến thức nắm bắt dễ dàng những từ ngữ này, tuy mới song do những từ đơn quen cũ sắp ghép lại và nhiều từ cũng là từ cũ mà nay nổi bật được dùng thường xuyên.
Có những cung cách nói chữ cầu kỳ, văn vẻ, rất mới : người tham gia giao thông = người đi đường, lái xe đâm liên hoàn = đụng chuỗi nhiều xe, khu yêu cầu = pḥng nằm trả tiền ở bệnh viện, khám dịch vụ khu chất lượng cao = trả nhiều tiền, mưa cực đại = mưa lớn kéo dài, nhiều xe bị thủy kích = ngập nước, giải phóng mặt bằng = giải tỏa đất, quan hệ đóng băng = lạnh nhạt, sự cố kỹ thuật = trục trặc, thuyền trưởng bóng đá = đội trưởng đội bóng đá, dẫn bóng solo, toát mồ hôi lưỡi…
Đồng thời có những lối nói hài, tếu, chơi chữ, láy vần : yết kiêu vừa chứ, lỗ tấn to rồi, chớ hồng lâu mộng, vô lư thường kiệt… hoặc: buồn như con chuồn chuồn, đau khổ như con hổ, sát thủ đầu mưng mủ, thất bại v́ ngại thành công, cái khó ló cái ngu, bộ đội phải chơi trội, hoành tráng… nói túm lại tui bít rùi, bùn quá.
2) Có các từ ngữ được dùng với nghĩa rộng, vd : hải quan, chế độ, quản lư, xử lư, chạy sô, khẩn trương, bồi dưỡng, thống nhất, tranh thủ… ‘Tranh thủ’ là nhân tiện. ‘Thống nhất’ có thêm nghĩa là nhất trí. ‘Bồi dưỡng’ là cho tiền ‘tip’. ‘Khẩn trương’ ngoài nghĩa bức rức lo lắng, căng thẳng lại thêm nghĩa nhanh gấp. Hải quan nay bao gồm phi cảng, cửa khẩu.
Chế độ, xử lư, quản lư, chạy sô th́ nay áp dụng vào mọi sự việc.
Điển h́nh nhất là các từ ngữ: ‘xử lư, hoành tráng, phản cảm’.
Trước chỉ là xử lư văn bản, nay xử lư đủ mọi thứ: ùn tắc xe cộ, xử lư nước thải, vết thương…
Hoành tráng để chỉ một kiến trúc, nay để chỉ một bữa tiệc, một đám cưới, một sai lầm…
Trước nói ăn mặc hở hang, nói năng tục tĩu, hành xử thô lỗ… nay gộp chung là phản cảm.
Cách dùng từ ngữ này là táo bạo song rất sáng tạo và gợi h́nh, gợi cảm khi đem từ ngữ trong địa hạt này qua sử dụng ở địa hạt khác, với các phép ẩn dụ, hoán dụ… trong thi văn.
Tuy vậy cần thận trọng, tránh dùng bừa băi chữ nghĩa không phù hợp, chẳng hạn nói “mẹ tôi tranh thủ (cố sức) đi nhanh để kịp báo cáo (báo tin) cho chị em tôi…”, hoặc bà ‘quản lư’ (chăm nuôi) ông tốt, đang nằm viện, hay ngay cả là bà ‘bảo quản’ ông tốt…
3) Đa dạng lối diễn tả. Thí dụ đă có nguyên nhân, nguyên do, nay thêm ‘nguyên lai’. ‘Phục thị’ thêm vào cho phục vụ. ‘Truy nă’ nay thêm truy vấn, truy bức, truy tra, truy xét, truy lùng, truy quét… ‘Giải’ th́ có ḥa giải, giải cứu, giải tỏa, giải tŕnh, kiến giải, lư giải… ‘Quy’ th́ thêm quy tŕnh, quy hoạch, qui chụp, quy chuẩn, quy kết… ‘Chuẩn’ ngoài chuẩn bị, phê chuẩn cũ, nay thêm chuẩn mực, chuẩn mức, tiêu chuẩn (vd: chuyên cơ), chuẩn xác. Đă có sáng tạo, sáng tác nay thêm ‘chế tác’, công tác có thêm ‘tác nghiệp’, ‘đề nghị, đồng ư, hợp lệ’ có thêm đề xuất, nhất trí, đúng quy tŕnh, đă có diễn đạt, thêm ‘diễn ngôn’, đánh thuế có thêm ‘áp thuế’…
Trăm hoa đua nở, từ vựng phong phú cho phép chọn từ ngữ phù hợp hoàn cảnh của sự việc.
Hăy xem Nguyễn Du viết truyện Kiều, từ ngữ rất phong phú, khéo chọn chữ.
4) Nhiều danh xưng được thay thế. ‘Hải quan’ thay thế Quan thuế. Hộ chiếu = sổ Thông hành. Chứng minh nhân dân nay đổi lại là Căn cước công dân. Hộ khẩu = sổ gia đ́nh. Biên chế = chính ngạch. Diễu binh = diễn binh (diễu, từ thuần Việt=đi ngang qua, diễn=biểu diễn). Thuế thu nhập = thuế lợi tức. Kiều hối = ngoại tệ, đại trà = quy mô, kênh = băng tần, diện = thanh phần, khâu = bước, đề xuất = đề nghị, giáo vụ = học vụ, hộ lư = y công, chủ nhiệm bộ môn = trưởng khu, trợ lư = phụ tá, pḥng tài vụ = pḥng tài chính, bang = tiểu bang, lao động = công nhân, sàn diễn = sân khấu, ngoại h́nh = h́nh dáng, c̣ mồi = dắt mối, tàu ngầm = tiềm thủy đỉnh, tên lửa = hỏa tiễn. Từ ‘động viên’ trước kia là đi lính quân dịch = nghĩa vụ quân sự, được giữ lại song chuyển nghĩa là khuyến khích. Chữ ‘quân dịch’ th́ bỏ hẳn.
Các thí dụ tất nhiên rất nhiều bởi v́ cùng một ư, có nhiều cách diễn tả, huống hồ tiếng Việt có thêm các từ Hán Việt. Từ trước ‘vị tinh’ ngoài Bắc gọi ‘ḿ chính’, trong Nam là ‘bột ngọt’.
Bắc gọi : bắt nạt, giận, một giờ, đi đón con, ném quả bóng, viết thư, bao diêm…
Nam kêu : ăn hiếp, sùng, một canh giờ, đi rước con, thảy trái banh, biên thơ, hộp quẹt…
Một số từ và hỗn từ được ưa chuộng vd : ‘trải nghiệm’, nhiều lúc được dùng thay thế kinh nghiệm, thể nghiệm, ‘góa phụ’ thay thế quả phụ, ‘chỉnh sửa’ thay tu chỉnh. Và : giọng ca đẹp, xe ùn tắc, rét cực đoan, chạm sàn, đến đỉnh điểm, vượt đỉnh, chạm trần, chuẩn không cần chỉnh.…
5) Các từ ngữ về khoa học, kỹ thuật chuyên môn thuộc lănh vực sử dụng của mỗi ngành, thí dụ Sinh vật học th́ có các thuật ngữ như họ, loài, giống, bộ, lớp, ngành, đột biến, di truyền, kháng thể, kháng nguyên, miễn dịch, phân bào, đơn bào, đa bào…
Đặc biệt các từ ngữ về địa hạt vi tính và internet là phổ cập rộng răi nhất trong mọi giới, dưới h́nh thức dịch thuật hoặc để nguyên trạng nếu đơn giản.
Điển h́nh như sau : Mạng= In-tơ-nét (Internet, tiếng Trung= hỗ liên vơng), tŕnh duyệt, đăng nhập, truy cập, lập tŕnh, giao diện, nhập mă, giải mă, căn chỉnh, cài đặt, hộp thoại, trực tuyến… net, tweet, insta, face book, câu view…
Một số từ ngữ về các dịch vụ phổ thông cũng dính dáng đến Internet: mua/học online, cà/quẹt thẻ, thẻ tín dụng, chạy xe grab, mua combo, tour du lịch, selfie, i-phone, viu (view) và linh tinh: xeo (sale), neo (nail), meo (mail), mu (move), wic kèn (weekend), đi gym…
III) Các Nhận Xét.
1) Trong quá khứ tiếng Việt đă chấp nhận một số từ Hán di dân theo diện ngôn ngữ. Kết quả là vô số từ phức hỗn hợp đă h́nh thành. Mới đây nhất có những thí dụ thời thượng liên quan đến các từ quen thuộc: ‘sĩ, tặc, cưỡng’.
+Từ ‘Sĩ’, đă tạo những từ phức hỗn hợp ‘sáo sĩ’, ‘ngâm sĩ’, ‘bầu sĩ’… để chỉ những nghệ sĩ thổi sáo, ngâm thơ, gảy đàn bầu… ‘Ngục sĩ’, tuy ‘ngục’ là từ Hán Việt.
+Từ ‘Tặc’có ‘vàng tặc’, ‘gỗ tặc’, ‘băng tặc’, ‘hôn tặc’ để chỉ kẻ cướp vàng, gỗ, nhà băng, hôn ẩu… ‘Đinh tặc’, ‘đinh’ cũng là từ Hán Việt song ‘đinh tặc’ chỉ kẻ rải đinh trên lộ. ‘Cẩu tặc’ từ trước vẫn là từ ngữ dùng để thóa mạ những kẻ phản bội, bất trung, nay đơn giản là kẻ trộm chó.
+Từ ‘Cưỡng’. ‘Cưỡng hôn’, từ Hán Việt chỉ sự cưỡng ép hôn nhân, nay là một hỗn từ có nghĩa là hôn bừa, hôn hít ẩu, (‘hôn’ là từ Nôm). Hôn nhân=hôn tặc là kẻ hôn ẩu, sách nhiễu t́nh dục.
+Hỗn từ cũng bao gồm các từ Pháp, Anh : băng tặc, trưởng ga’, ‘thụt két’, ‘bếp ga’, ‘cực sốc’, ‘siêu hot’, ‘trực gác’, ‘lướt Web’, ‘phim ảnh’, ‘bida ba băng’, ‘cơ thủ’. Từ ‘cơ’ là do chữ ‘queue’ (Pháp, đọc là ‘cơ’) hoặc ‘cue’ (Anh, là cái gậy dài để thọc quả bida), bộ test kit…
2) Không ít các từ đôi bị săm soi, phê phán. Chỉ kể một vài thí dụ :
–Từ đôi “Chung cư” bị chỉ trích v́ ‘chung’ 終 chữ nho có nghĩa là cuối, hết, chết (chung kết, mệnh chung). “Chúng cư”众居, chúng = đông, nhiều người, cư = ở, được khuyến cáo sử dụng để thay thế.
Song le ‘chung’ là từ nôm. Chung cư, hỗn từ, là nhà ở chung, cư xá.
–“Câu kết” và ‘cấu kết’. Trong mọi từ điển Hán Việt đều viết ‘câu kết là đúng. Chữ ‘câu ’勾 gōu có nghĩa là đánh dấu móc và ‘câu kết’ là vào hùa với nhau, thông đồng. Chữ ‘cấu’ 构 g̣u có một nghĩa là ḥa theo, kết lại, cơ cấu.
Trong các từ điển tiếng Việt, vd: Từ Điển Tiếng Việt. Dictionary (vdict.pro) hoặc Từ điển Việt- tra từ.soha.vn, đều viết : “Câu kết là thông đồng, phe cánh. Đồng nghĩa với Cấu kết”.
Điều này chứng tỏ tiếng Việt sử dụng từ Hán Việt xử lư theo sở thích của ḿnh. Thí dụ hay sửa đổi, tiếng Trung nói trước : ‘đồ thư quán, âm nhạc gia, âm nhạc giáo sư, nhạc đội chỉ huy’ th́ tiếng Việt nói sau, rút ngắn gọn: ‘thư viện, nhạc sĩ, nhạc sư, nhạc trưởng’. Hoặc khác hẳn, tiếng Trung : điện thị, tuyển dân, sở đắc thuế… th́ tiếng Việt là : truyền h́nh, cử tri, thuế thu nhập
Tiếng Trung dùng chữ ‘câu kết’, tiếng Việt tạo thêm chữ ‘cấu kết’ mạnh nghĩa hơn.
Tiếng Việt không cần thiết bám sát tiếng Trung, vd: ‘ấu trĩ viên’, mà chọn chữ ’mẫu giáo’.
–Các từ đôi ‘sử dụng’/‘xử dụng’, ‘phản ánh’/‘phản ảnh’, ‘chia sẻ’/‘chia xẻ’ rất thường gặp.
Chữ sử 使 có nghĩa đề cử, dùng, sai khiến. Chữ xử 处 có nghĩa đắn đo, xử, xử trí.Chữ ‘ánh’ như trong ánh nắng, ánh trăng. ‘ảnh’ như trong h́nh ảnh. Chữ ’sẻ’ từ nôm là chia, như chia/san sẻ ngọt bùi, ‘xẻ’ là cắt đứt để phân chia. Thành ngữ là ‘nhường cơm sẻ áo’ không thể là ‘xẻ áo’, song sau Thế chiến 2, một nước Đức bị chia xẻ/cắt thành đôi. Mười hai sứ quân đă ‘chia năm xẻ bảy’ nước ta các năm 944-968. ‘Vầng trăng ai xẻ làm đôi – Kiều’.Do đó tùy theo t́nh huống, mức độ mà từ ngữ thích hợp được chọn dùng. Thí dụ ta nói : bài viết phản ảnh đúng sự thật, xử dụng quyền làm cha. Đối xử công bằng. Xử dụng h́nh cụ… ‘Sử dụng’ là từ ngữ tiếng Trung. ‘Xử dụng’ là từ ngữ của tiếng Việt dùng thêm đă lâu. Các từ điển Hán Việt ra đời đầu tiên trong thập niên 1930 đều chép lại từ ‘sử dụng’ = dùng của tiếng Trung khiến từ đôi ‘xử dụng’ = dùng phải dần dà nhường bước. Đúng ra ít nhất khi có hàm ư đắn đo, xét xử th́ nên dùng ‘xử dụng’. Từ ‘xử’ rất quen thuộc, có nhiều từ ghép : hành xử, cư xử, ứng xử, đối xử, xử thế, xử dụng, xử trí, xử sự, xử lư, phân xử… Từ ‘sử’ chỉ có sử dụng.
–Các từ đôi ‘sáp nhập’ hay ‘sát nhập’, ‘cứng cáp’ hay ‘cứng cát’? Tiếng Việt chấp nhận tất cả. Tiếng Trung dùng từ ‘hội tính’ 合并 = sáp nhập, sát nhập. Các từ đơn: ‘hội’ là tụ họp, ‘tính’ là hợp lại, ‘sáp’= cắm vào, và ‘sát’= giết (diệt rồi nhập).‘Cứng cát’ xem ra là một từ láy, ‘cứng cáp’ cũng vậy nên chọn thế nào cũng được. –‘Xán lạn’ 灿烂 là từ Hán Việt thỉnh thoảng được dùng, phải cắt nghĩa : Xán = rực rỡ, lạn = sáng sủa. Nếu viết là ‘sáng lạn’ th́ đó là một hỗn từ hợp lệ, ‘sáng’ là từ nôm + ‘lạn’ là từ Hán Việt.Tiếng Việt không cứ phải theo sát tiếng Trung. Như đă biết, hiện giờ tiếng Việt không thể nói ‘đinh ninh’ là dặn ḍ, ‘khốn nạn’ là khó khăn, ‘tử tế’ là tỉ mỉ…Từ ‘xán lạn’ khó rơ nghĩa, tiếng Việt đă sáng tạo từ đôi ‘sáng lạn’ nghe hay và dễ hiểu.‘Tham quan’= đi thăm và ‘thăm quan’ cũng trường hợp như trên và như hỗn từ ‘chung cư’. –‘Cục’ 局 jú đọc là ‘cục’ hoặc ‘cuộc’. ‘Rốt’ = cuối (một trai con thứ rốt ḷng – Kiều) và ‘rút’ = lấy ra như rút kinh nghiệm. Rốt và rút đều là từ nôm. Do đó các từ đôi Hán Việt : chung cục/cuộc, kết cục/cuộc và từ đôi Hán Nôm : rốt cục/cuộc, rút cục/cuộc đều dùng được. –Các phê phán đa số nhằm vào cách dùng sai nghĩa từ Hán Việt, thí dụ nhầm lẫn giữa ‘quá tŕnh’ và ‘tiến tŕnh’, ‘hoàn thành’ và ‘hoàn thiện’, ‘biểu diễn’ và ‘tŕnh diễn, ‘chất lượng’ và ‘phẩm chất’… Song le lắm lúc dù sai nhưng được nhiều người dùng lâu ngày cũng thành đúng.3) Sự tồn vong của các từ phức được tạo là tùy thuộc sự phán xét của công luận.
Thí dụ từ “Chung cư’ bị chỉ trích v́ là một hỗn từ song rốt cuộc vẫn được dùng v́ quen thuộc, đă đi vào tập quán. Từ ‘Chúng cư’ lạ lẫm, tuy đúng, được một số học giả và báo chí nhiệt t́nh khuyến nghị vẫn bị công chúng bỏ rơi, không đoái hoài.
Những từ khẩn trương, xử lư, quản lư, sự cố, vấn nạn… với nghĩa rộng đều được chấp nhận. Từ ngữ ‘hơi bị + tính từ’, vd: ‘hơi bị đẹp’ khiến câu nói có vẻ hóm hỉnh nếu dùng đúng lúc.
____
Kết luận.
1) Tiếng Việt tuy đơn âm tiết song khả năng làm giàu từ vựng rất lớn đáp ứng được tất cả mọi t́nh huống, chẳng kém một ngôn ngữ tiên tiến nào. Ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm.
2) Tiếng Hán Việt được kể như là một nửa tài sản của ngôn ngữ tiếng Việt.
Tuy nhiên tiếng Việt sử dụng từ gốc Hán khôn khéo và sáng tạo a) tạo từ ghép riêng, vd: ca sĩ thay v́ ca thủ, b) kết hợp hài ḥa từ Nôm và Hán để tạo những hỗn từ, vd: giảng dạy, xét xử.
Trên thực tế nếu biết nghĩa của mỗi từ đơn, dù không biết cách viết ra chữ nho th́ cũng đă có khả năng chế tác ra những từ ngữ phức mới có liên quan đến các từ Hán. (1).
3) Thái độ của mỗi người nhiệt t́nh hoặc lạnh nhạt về sử dụng nhiều ít các từ ngữ cũ và mới có khác biệt. Có những yếu tố thời gian và không gian. Người Pháp hiện tại không dùng ngôn ngữ thời các đại văn hào Corneille, Molière thế kỷ 17. Vua Khang Hi (nhà Thanh) không thể đang xem truyền h́nh, thỉnh thoảng nh́n đồng hồ đeo tay. Đó gọi là sai niên đại (anachronism).
Có những chuẩn mực về sử dụng từ ngữ tiếng Việt được sự đồng thuận.
Tránh lạm dụng sử dụng từ Hán Việt để đảm bảo độ thuần Việt và dễ hiểu trong tiếng Việt.
Trong bài thơ ‘Thu Điếu’ (Mùa thu câu cá) tám câu bảy chữ, tổng cọng 56 chữ của Nguyễn Khuyến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo…” chỉ có 3 từ Hán Việt: ‘ao thu, ngơ trúc, khách vắng teo’.
Nếu dùng tiếng Hán Việt với tỷ lệ cao th́ ngôn từ sinh ra kiểu cách, phản cảm. Sự hiện hữu các hỗn từ giúp làm nhẹ ảnh hưởng các từ Hán : dùng chỉnh sửa thay v́ ‘chỉnh tu’, trải nghiệm thay thế ‘kinh nghiệm’, sáng lạn thay thế ‘xán lạn’, thăm quan thay thế ‘tham quan’… Và đơn chiếc = ‘đơn độc’, in ấn = ‘ấn loát, sức lực = ‘lực khí’, tuyển chọn = ‘tuyển bạt’, vụ việc = ‘sự vụ’…
Nói tiếng Việt xen lẫn quá nhiều tiếng Anh, Pháp cũng thấy kỳ cục, nghe chói tai.
Các truyện dài ngắn đang xẩy hoặc có bối cảnh đủ xa trong quá khứ, tất nhiên phải viết sử dụng các từ ngữ phù hợp với thời điểm và không gian, tức là vùng, địa điểm đă xẩy ra câu chuyện.
Sử dụng các từ ngữ được gọi là mới cũng tuân theo các chuẩn mực trên.
Sử dụng đúng sắc thái biểu cảm, hợp phong cách, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
Chọn đúng chữ là mục tiêu trong những buổi ‘THẢ THƠ’ hào hứng. Các thi sĩ lắm lúc phải mất đến nhiều năm tháng để t́m ra được một chữ đắc ư cho bài thơ của ḿnh.
4) Mọi người dân Việt đều mong muốn điều tốt cho tiếng Việt ngày càng phong phú, đa dạng.
Các từ ngữ tân tạo có thể rất tài t́nh, h́nh tượng, thâm thúy sống động song cũng có thể là tầm thường hoặc ngay cả lắm khi khó hiểu, lập dị, cường điệu, nói tóm lại là vô duyên, tào lao, phản cảm và nếu vậy sẽ bị công luận mổ xẻ nghiêm túc, sàng lọc, để rồi tự đào thải, lặng lẽ biệt tích.
Chúng ta luôn ghi công tất cả những người đă có đóng góp vào tiến tŕnh làm giàu cũng như giữ ǵn trong sáng tiếng Việt.
Lê Bá Vận.
Chú Thích.
(1) Một phương pháp tự học tiếng Hán lư thú.Sách TAM THIÊN TỰ 三千字của Ngô Th́ Nhậm (1746-1803) soạn, dạy vở ḷng cách viết, cách đọc và nghĩa của 3.000 chữ nho. Âm đọc và nghĩa tiếng Việt được viết thành những câu thơ 4 chữ theo vần, đọc lên như một bài vè khiến già, trẻ, lớn, bé ai nghe cũng dễ thuộc, dễ nhớ. Hiện nay sách vẫn được nhiều người sử dụng. Bắt đầu như sau :
天Thiên trời 地Địa đất. Cử cất Tồn c̣n. Tử con Tôn cháu. Lục sáu Tam ba. Gia nhà Quốc nước. Tiền trước Hậu sau. Ngưu trâu Mă ngựa… Sách kết thúc với: Cảnh răn Ác dữ. Tự chữ Từ lời.
Cũng có sách NGŨ THIÊN TỰ 5.000 chữ nho sắp xếp theo thể thơ Lục bát song học khó thuộc.
Thiên trời Địa đất Nhân người. Quần bầy Thứ mọi Loại loài Thành nên.
Phân chia Hạ dưới Thượng trên. Sinh sinh Kế nối Truyền truyền Cửu lâu.
Tự từ Tiền trước Hậu sau. Đạt thông Lư lẽ Thâm sâu Từ lời…

Quada09
12-09-2022, 11:37
Ông Lê bá Vận tác giả bài viết trên h́nh như là 1 bác sĩ y khoa thời VNCH, đă bày tỏ ư kiến ca ngợi tiếng Việt hiện nay của CS !

Đó là quyền của ông ta, nhưng "làm giàu" tiếng Việt hay không th́ xin mời xem bài viết dưới đây !


---------------------------


Dốt Hay Nói Chữ!


Đào Văn B́nh

Cali Today News – Thường thường những kẻ thiếu hiểu biết, ít học khi viết văn hay dùng những chữ cầu kỳ khiến trở nên dị hợm. Miền Nam gọi đó là “Dốt Hay Nói Chữ”.

Ngày nay thảm trạng “Dốt Hay Nói Chữ” lan tràn trong nước và trên hai trang tin BBC và VOA tiếng Việt. Trong nước, miệng th́ hô hào “thoát Trung” mà ngôn ngữ th́ lai Tàu lạ hoắc. Đó là loại tiếng Tàu thời Mao Trạch Đông, không phải là tiếng Hán đă được cha ông ta Việt hóa và sử dụng cả ngàn năm nay. Thí dụ:

(1) BBC ngày 26/7/2019: Ở Việt Nam bây giờ cái ǵ cũng “diện mạo”. Hai chữ “bộ mặt” đă chết trong ngôn ngữ Việt Nam. Thí dụ: Thay v́ viết, “Để tạo bộ mặt mới cho nông thôn”, lại viết, “Để tạo diện mạo mới cho nông thôn”. Rồi, “Để tư pháp VN có diện mạo đẹp hơn th́ cần tôn trọng luật sư”. Bài này của Ô. Luật Sư Ngô Ngọc Trai gửi cho BBC từ Hà Nội.

(2) BBC ngày 6/8/2020: “Biển Đông: Việt Nam cần tính đến kịch bản Trung Quốc ‘tấn công’ từ nhiều hướng?” Kịch bản là một kế hoạch được tính toán từ trước và diễn tiến theo thứ tự, lớp lang. Câu văn không dị hợm chỉ là, “Việt Nam cần tính tới t́nh thế/trường hợp Trung Quốc tấn công từ nhiều hướng.” Ở Việt Nam bây giờ cái ǵ cũng “kịch bản”. Giá chứng khoán, giá vàng lên xuống cũng kịch bản. Rồi cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ cũng kịch bản. Rồi những cuộc va chạm ở Biển Đông cũng kịch bản. Đúng là một thứ tiếng Việt dị hợm, điên khùng.

(3) BBC tiếng Việt ngày 12/8/2020: “Việt Nam tồn tại nhiều khoảng trống lănh đạo?” Câu hỏi ở đây là, “khoảng trống lănh đạo” là ǵ? Là không có lănh đạo ǵ hết, ai muốn làm ǵ th́ làm? Hoặc thiếu người có khả năng lănh đạo? Viết một câu văn mơ hồ như thế này có lẽ tác giả cũng chẳng hiểu ḿnh viết ǵ!

(4) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “B́nh luận đa chiều về vụ đ́nh chỉ Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung”. Câu văn giản dị và có học chỉ là, “Những ư kiến khác nhau về vụ ngưng chức Chủ Tịch TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Ngày xưa ở Miền Nam, ông kư giả nào viết, “b́nh luận đa chiều” chắc phải đưa ông này vào nhà thương điên Biên Ḥa quá. Rồi nào là, “tạm đ́nh chỉ công tác”. Tại sao không viết “ngưng chức” cho ngắn gọn? Công tác là công việc, c̣n “chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố” sao gọi là “công tác” được?

(5) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Khởi tố vụ án cán bộ gần cận Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Khởi tố là khởi tố một cá nhân nào đó chứ không thể “khởi tố vụ án”. Khi nói “vụ án” tức là đă đưa ra ṭa xét xử rồi đâu cần phải khởi tố nữa? Ngoài ra người ta nói, “thân cận” chứ không nói “gần cận”. Tiếng Việt như thế mà cũng đ̣i cầm bút.

(6) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Những người phụ nữ đă tạo thành các chuỗi dây người tại Belarus.”. Chẳng ai nói, “chuỗi dây người” mà người ta nói “nắm chặt tay nhau để làm thành một hàng rào”.

(7) Điểm chuẩn và điểm sàn. Hiện nay trong nước các nhà giáo dục ông bà nào cũng có bằng Tiến Sĩ nhưng tiếng mẹ đẻ lại không hơn học sinh Trung Học năm xưa nên chế ra những từ ngữ thật lạ lùng. Thí dụ: Điểm thấp nhất để được xét tuyển biến thành điểm sàn. Điểm để được trúng tuyển (bằng hoặc cao hơn) gọi là điểm chuẩn. Nghe nói điểm sàn và điểm chuẩn sinh viên trong nước cũng ngơ ngác chẳng hiểu ǵ cả phải cần thông dịch viên cho nên đă phải xin giải đáp.

Trang tin CỔNG THÔNG TIN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG LỚN NHẤT VIỆT NAM đă phải giải thích về các danh từ bí hiểm này. Ngày nay ở Việt Nam cái ǵ vui, hấp dẫn, ngoạn mục như đá bóng, đưa xe đạp, tŕnh diễn văn nghệ, giá vàng lên xuống bất thường… được gọi là “kịch tính”. Món ăn truyền thống như bánh giày, bánh chưng biến thành “món ăn kinh điển”. Và rồi cái ǵ cũng “siêu” như “siêu ngon”, “siêu rẻ”, “siêu trường, siêu trọng”. Đúng là ở với cộng sản không điên cũng khùng cho nên bằng mọi cách phải trốn đi. Bây giờ giai cấp quyền thế tham nhũng cả trăm triệu đô-la, trốn đi bằng cách bỏ ra vài triệu mua nhập cảnh/hộ chiếu (visa) của Đảo Sip. Đảo Síp (Cyprus) nằm trong Liên Hiệp Âu Châu và có thể tự do di trú trong 166 quốc gia.

(8) Vượt ngưỡng: Trong nước bây giờ chữ nghĩa của cả quốc gia lại do bọn bát nháo, ít học, đứng bến mánh mung quyết định rồi cả nước “học tập” và nói theo. Thậm chí cả các ông thủ tướng, tổng bộ trưởng cũng nói theo như con vẹt. Thí dụ: Vượt chỉ tiêu, vượt mức, vượt qua con số…biến thành vượt ngưỡng! Thí dụ: Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 21/8/2020, “Hàn Quốc: Số ca nhiễm Covid-19 lần đầu vượt ngưỡng 300 sau hơn 5 tháng.” Tự điển Việt Nam trong nước định nghĩa “Ngưỡng là đoạn gỗ dài để ngang mà giữ lấy cánh cửa, ngưỡng cửa”. Như vậy chỉ có “bước qua ngưỡng cửa chứ làm ǵ có vượt ngưỡng?” Thảm họa văn hóa trong nước càng nói ra càng xấu hổ.

(9) Rồi cũng lại VOV ngày 18/9/2020: “Bà mẹ một con Đường Yên trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tại sự kiện.” Tôi đố quư vị hiểu câu văn này nói ǵ. Thực ra cô người mẫu một con này xuất hiện trong một màn tŕnh diễn thời trang và trông vẫn đẹp như gái chưa chồng…nhưng được viết bằng đoạn văn vô cùng bí hiểm và bát nháo.

(10) Rồi th́ “rung động ḷng người” hay “chinh phục được ḷng người”, “vô cùng xúc động” biến thành “tan chảy” và “đốn tim”. Thí dụ: Báo Người Lao Động ngày 27/8/2020, “Tan chảy với h́nh ảnh và điệu bộ của Trúc Nhi-Diệu Nhi.” Hai em bé nói ở đây sinh đôi dính vào với nhau được các bác sĩ giải phẫu tách ra và các em đă sinh hoạt b́nh thường khiến mọi người vui mừng hay thương cảm nay được bọn bát nháo biến thành “tan chảy”. Rồi chinh phục được khán giả biến thành “đốn tim”. Thí dụ: Báo Thanh niên, “ca sĩ Hà Vân ‘đốn tim’ người nghe với ca khúc về Phật giáo”.Hiện tượng “tan chảy” và “đốn tim” nhiễm ô cả hải ngoại. Trong một chương tŕnh b́nh luận thời sự của SET (Saigon Entertainmnent TV) ở Nam California, ông điều khiển chương tŕnh thay v́ nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Ḥa làm Ô. Trump đẹp ḷng v́ giúp ông tái đắc cử.” lại nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Ḥa đă đốn tim Ô. Trump.”

(11) VOV ngày 19/9/2020: Ban biên tập của đài này tiếng Việt quá kém nên không hiểu nghĩa của hai chữ “đầu tiên” và “hàng đầu”. Đầu tiên chỉ về thời gian. C̣n hàng đầu chỉ về thứ bậc/thứ tự cho nên mới viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại đầu tiên.” Thế mà cũng tự nhận là tờ báo và tiếng nói tiêu biểu cho cả quốc gia. Câu văn đúng phải viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại hàng đầu.”

(12) VOV ngày 19/9/2020: “Sắp công bố thương hiệu bánh Trung thu kém chất lượng”. Thế nào là bánh trung thu kém chất lượng? Chỉ có trời mới biết. Nếu nó không hợp vệ sinh hoặc không ngon…th́ nói rơ ra. “Kém chất lượng” là ǵ? Đúng là ngu dốt cho nên nói ẩu mà cứ tưởng ḿnh đúng và khắp cả nước cứ nhai đi nhai lại ba chữ “kém chất lượng”. Đúng ra phải nói “phẩm chất kém” hoặc “không hợp vệ sinh”.

(13) VOV ngày 19/8/2020: “Viện Kiểm Sát nói có cơ sở chứng minh quan hệ t́nh cảm giữa ông Tài và bà Thúy.” Trong luật pháp người ta không nói “có cơ sở” mà phải nói “có bằng chứng”. Ngu dốt thế mà cũng đ̣i viết báo. Nguyên do cũng chỉ v́ bị nhồi sọ từ thuở nhỏ cho nên nói như con vẹt và không cần suy nghĩ ǵ hết.

(14) VOV ngày 20/9/2020: “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra “Thương hiệu Việt Nam” trong hoạt động ngoại giao đa phương”.

Trời đất quỷ thần ơi! Tên tuổi của một quốc gia mà lại gọi đó là “thương hiệu”. Đúng là ngu dốt không thể tưởng tượng được! Nếu có học sẽ viết, “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra ‘Tên tuổi Việt Nam’ trong hoạt động ngoại giao đa phương.”

Việt Nam ngày nay không c̣n ăn độn ngô, khoai, sắn và bo bo nữa. Cả làng quê cũng xây lâu đài, “biệt phủ” c̣n sang hơn cả Âu Châu, xe hơi đắt tiền giá vài trăm ngàn Mỹ Kim.

Thế nhưng ngôn ngữ lại là một thứ bát nháo như nồi cám heo. Nguyên do là v́ các nhà ngôn ngữ, bác học, giáo sư, nhà văn, nhà biên khảo thuộc thế hệ truyền thống đă chết hết cả rồi. Cầm nắm ngôn ngữ dân tộc ngày hôm nay là một phường bát nháo trưởng thành trong ăn độn, xếp hàng tại cửa hàng bách hóa tranh nhau từng miếng thịt mỡ nhỏ bằng ngón tay, từng khẩu phần vải không đủ may một chiếc quần đùi, buôn lậu, mánh mung, trộm cắp, gian lận… cho nên dù có học ǵ, giàu có thế nào đi nữa…th́ vẫn chỉ là một phường vô cùng ngu dốt, tham lam, gian dối và phá hoại.

Cứ thử nh́n vào phong trào diệt tham nhũng hiện nay cho thấy từ hàng tổng bộ trưởng tới thứ trưởng, tướng công an, tướng trong quân đội, đô đốc hải quân, tổng giám đốc các ngân hàng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND, huyện ủy, xă ủy bị tù, bị mất chức…cho thấy hệ thống cầm quyền tại Việt Nam đă ung thư, thối rữa như thế nào. Khi bụng đói và đạo đức suy đồi th́ tất cả đều tan nát. Trong nước “đạo đức suy đồi”, “thối nát” không nói mà lại che dấu bằng cách dùng danh từ “biến chất”.

Cả nước có “chất” ǵ tốt đâu mà “biến”? Bản chất cộng sản vốn đă xấu rồi, nếu có “biến”đi th́ tốt chứ sao lại lên án? Rồi th́ các quan mua bằng cấp giả, ăn cắp luận án của người khác để có bằng Cao Học (nay gọi là thạc sĩ), Tiến Sĩ để được tiến cử vào chức vụ lớn hơn. Cái này gọi là ‘biến chất” hay bản chất là gian dối? Ở Mỹ cũng có những vụ ông/bà triệu phú hối lộ để con cái được vào học các trường danh tiếng nhưng đă bị lôi ra ṭa xét xử. Sao không thấy trong nước xử phạt các ông/bà này? Làm chính quyền cai trị là “phụ mẫu chi dân” mà gian trá th́ đừng trách đất nước sao tan nát.

Cổ nhân có câu, “Nhà dột từ nóc dột xuống” tức cha mẹ không ra ǵ th́ con cái hư hỏng. Đất nước loạn ly không phải tại dân trước mà chỉ v́ vua th́ u mê ám chướng, quan lại th́ tham ô vơ vét. Một đất nước mà vua anh minh, trăm quan liêm chính th́ đất nước làm sao loạn ly được? Ngoài ra đất nước lụn bại là v́ không có nhân tài hoặc có nhân tài mà không biết sử dụng. Khi có nhân tài th́ đất nước phát triển và ngửng mặt với năm châu bốn biển. Ngày xưa Đào Duy Từ không được Chúa Trịnh trọng dụng bèn vào nam, Chúa Nguyễn biết đây là kỳ tài cho nên đă mở nghiệp lớn ở phương nam.

Ở đâu cũng vậy, đảng nào nắm quyền th́ cử đảng viên của ḿnh vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Thậm chí bổ nhiệm thẩm phán Tối Cao Pháp Viện cũng lựa người cùng với lập trường của đảng ḿnh. Thế nhưng đưa bọn “con ông cháu cha, thái tử đảng” vô tài bất tướng vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền th́ chúng sẽ phá nát đất nước.

C̣n đối với hải ngoại, thua một trận chiến không đáng sợ bằng thua về văn hóa và tư tưởng. Chúng ta thừa kế cả một nền văn chương, học thuật, ngôn ngữ tuyệt vời của cha ông để lại rồi được Miền Nam phong phú hóa với đầy đủ ngữ vựng cho tất cả các bộ môn, tại sao lại đi bắt chước loại ngôn ngữ không có học? Chinh phục được ḷng người, tạo thiện cảm sao không nói mà nói “đốn tim”? Cảm động, xúc động sao không nói mà lại nói “tan chảy”? Căn nhà sao không nói mà nói “căn hộ”. Gia đ́nh sao không nói mà nói “hộ dân”? Giải tỏa đất đai sao không nói mà nói “giải phóng”? Giải quyết công việc, lọc chất thải… sao không nói mà nói “xử lư”? Tiết kiệm, rẻ tiền sao không nói mà nói “kinh tế”? Du lịch, thăm viếng sao không nói mà nói “tham quan”? Bực tức, bị dồn nén, bất măn sao không nói mà lại nói “bức xúc”? Bài giảng sao không nói mà nói giáo tŕnh? Gặp gỡ, trao đổi, thân hữu sao không nói mà lại nói giao lưu? Tác động qua lại sao không nói mà nói tương tác? Đoạn đường không nói mà lại nói “cung đường”. Cung là một đoạn cong như “h́nh ṿng cung”, cây cung là cây cong để bắn mũi tên. Rồi “kích thích kinh tế” không nói mà lại nói “kích cầu”. Kích cầu là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách điên khùng. Ngay cả tự điển Việt Nam trong nước cũng không có hai chữ “kích cầu”.

Cả ngàn năm nay người ta thường nói: kích thích, kích động, kích động nhạc, thuốc kích dục, kích thích tố. Danh từ “stimulus” tự điển trong nước dịch là “sự kích thích” nay bọn bát nháo bịa ra là “kích cầu”. Rồi việc tuyển chọn, đề cử người (trong đại hội đảng) không nói mà lại dùng những câu nhức đầu như “công tác nhân sự” (BBC tiếng Việt). Rồi cũng lại BBC tiếng Việt, “Việt Nam hiện nay c̣n thua xa các triều đại phong kiến về trong việc quy hoạch và đào tạo nhân tài.” “Quy hoạch nhân tài” là ǵ thưa ông tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện? Từ xưa đến nay người ta nói, “đào tạo và sử dụng nhân tài” chứ không ai nói “quy hoạch nhân tài” như quy hoạch một thành phố, một đô thị. Tiếng Việt điên khùng và bát nháo thấm cả vào hàng tiến sĩ, nói mà không biết đúng sai. Nói “quy hoạch nhân tài” cũng như nói “xưởng đẻ” vậy. Đúng là ngôn ngữ của Việt cộng và làm đảo lộn cả ngôn ngữ truyền thống của tổ tiên.

Tôi sẽ c̣n tiếp tục phải viết v́ nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn B́nh

BigBoy
12-09-2022, 14:44
Không biêt lư do ǵ tụi VC lại muốn thay đổi ngôn ngữ tiếng Việt đă có từ lâu rồi . Thiệt hết hiểu nổi luôn .