BigBoy
03-09-2022, 05:25
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/lam-son-719-696x469.jpg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/lam-son-719.jpg)
Đào Văn
✱ Ông Thiệu tán thành một cách không chính thức về một cuộc tiến công vào Tchepone, trong khi Kissinger dành ưu tiên cho chiến dịch ở Hạ Lào.
✱ Tướng Lăm phản đối: Trong khi lập kế hoạch tấn công, các đại diện của Lực lượng Không quân 7 đề nghị sử dụng B-52…, sau đó dùng máy bay vận tải thả những quả bom nặng 15.000 pound để dọn băi đáp trong rừng rậm. Tuy nhiên, bị Tướng Lăm phản đối, Ông ta muốn …
✱ TT Thiệu từ chối đề nghị của Mỹ kéo dài thời gian hành quân tại Lào.
✱ Việt Nam hóa chiến tranh chẳng qua là Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/lam-son-719-300x202.jpg
Cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971 tuy đă diễn ra trên 50 năm, nhưng vẫn có nhiều bài viết được loan tải kể lại nội tình bởi các tác giả thuộc đơn vị tham gia vào cuộc hành quân, đồng thời đặt ra câu hỏi về mục đích của cuộc hành quân, và rằng phía Mỹ hay Việt đă đề xuất mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 này. Phần tóm lược tŕnh bày sau dựa vào tài liệu của Tòa Bạch Ốc được NARA giải mật và được phổ biến trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao (bàn thảo kế hoạch hành quân), của Cơ quan Truyền thông Bộ Quốc Pḥng (diễn tiến cuộc hành quân ), và tài liệu của cơ quan CIA giải mật và phổ biến tài liệu vào các năm 2016 và 2017 (dự báo về khả năng phản công của địch). Đặc biệt là báo chí Mỹ loan tải các cáo buộc CIA về “thất bại t́nh báo” đối với cuộc hành quân Lam Sơn 719, khiến Giám đốc cơ quan CIA phải gửi thư đến Ṭa Bạch Ốc… Hy vọng qua loạt bài này sẽ trả lời phần nào cho thắc mắc liên quan đến cuộc hành quân Hạ Lào năm xưa, nhưng trước hết là diễn tiến cuộc hành quân và vấn đề Không quân Hoa Kỳ yểm trợ cuộc chiến. Bài viết sau tóm lược trích đoạn theo tài liệu được phổ biến bởi Cơ quan Truyền thông Bộ Quốc Phòng.
✱ DIỄN TIẾN CUỘC HÀNH QUÂN HẠ LÀO 1971
Theo bản văn của Cơ quan Truyền thông Bộ Quốc Pḥng (Media Defense Gov. – 24.9. 2010) – Kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu được thảo luận vào tháng 11 năm 1970, một chiến dịch không chỉ kiểm tra kỹ năng và sự kiên tŕ của quân nhân thuộc QLVNCH, và những người lănh đạo của họ, mà c̣n kiểm nghiệm về chính sách Việt Nam hóa chiến tranh. Đô đốc Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham Mưu Liên quân, bắt đầu t́m kiếm ư kiến của Đô đốc McCain, Tổng tư lệnh Thái B́nh Dương, về các hoạt động ở Đông Nam Á, bao gồm cả kế hoạch mở cuộc hành quân qua Hạ Lào đang được chuẩn bị, có thể diễn ra những tháng đầu của năm 1971. McCain đă trả lời “có thể thực hiện được” và những ̣điều “ mong muốn có thể đạt được, hoặc có thể không đạt được bởi những hạn chế về chính trị và giới hạn thời gian.”
Ư tưởng về một cuộc tấn công của Nam Việt Nam vào một thời điểm nào đó trong mùa khô, thời gian từ tháng 11 năm 1970 đến tháng 5 năm 1971, đă được gửi đến Tiến sĩ Henry Kissinger. Theo Tiến sĩ Kissinger Cố vấn TT Nixon về các vấn đề an ninh quốc gia, ông ta đă nhận xét rằng một hoạt động như vậy có thể giúp bảo vệ an toàn cho lực lượng bộ binh Mỹ đồn trú tại miền Nam Việt Nam , đồng thời ngăn chặn một cuộc tấn công của Bắc Việt vào vùng cao nguyên hoặc xuyên qua khu phi quân sự. Kissinger tin rằng một cuộc tấn công của Nam Việt Nam ở Campuchia có triển vọng thành công tốt hơn là cuộc tấn công vào Đường ṃn Hồ Chí Minh/HCM v́ nơi này được bảo vệ nghiêm ngặt hơn.
Tuy nhiên, Đô đốc McCain coi bất kỳ cuộc tấn công nào vào Campuchia cũng là một đ̣n tấn công vào Lào, khiến Đô đốc Moorer đề xuất khả năng lấy Hạ Lào làm mục tiêu chính thay v́ Campuchia. V́ có sự khác biệt về quan điểm nên Kissinger cử phụ tá của ông là Tướng Alexander M. Haig, Jr. đến Việt Nam t́m hiểu t́nh h́nh và t́m phản ứng của các đại diện Mỹ tại Việt Nam và về ư kiến của chính quyền Việt Nam.
Tướng Haig họp với TT Thiệu và viên chức Mỹ tại Sài G̣n
Tại Sài g̣n tướng Haig đă họp mặt với Tướng Abrams, chỉ huy cao cấp của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Ellsworth Bunker, Đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, và Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống miền Nam Việt Nam. Theo báo cáo của Tướng Haig rằng nhà chức trách ở Sài G̣n ủng hộ đường lối táo bạo hơn, mở một cuộc tấn công vào Đường ṃn Hồ Chí Minh, con đường tiếp tế chính của kẻ thù thay v́ chống lại lực lượng cộng sản ở Campuchia.
Ư tưởng tấn công vào Hạ Lào không phải là mới, nó bắt nguồn từ Tướng Westmoreland đă đề xuất , người tiền nhiệm của Tướng Abrams. Đường ṃn Hồ Chí Minh đă phát triển thành một huyết mạch giao thông chính. Việc mở rộng mạng lưới đường bộ, là mục tiêu mà Westmoreland đă đề xuất trước đây với quân đội Mỹ, với Nam Việt Nam, và có thể cả với Thái Lan. Các lựa chọn thay thế mà ông cân nhắc bao gồm một lực lượng tiến về phía Tây từ Khe Sanh và làng Lang Vei gần đó nhằm chống lại khu liên hợp dự trữ khí giới tại ngôi làng Tchepone thuộc Lào bị bỏ hoang. Sự thất thủ Lang Vei và quyết định tiếp theo rút khỏi Khe Sanh, cùng với việc áp dụng chính sách Việt Nam hóa và việc quân đội Mỹ rút lui, đă khiến Westmoreland và Abrams gác lại khái niệm này, mặc dù Tchepone vẫn là một mục tiêu đầy cám dỗ. Chẳng hạn, vào mùa xuân năm 1970, theo ước tính t́nh báo chỉ ra rằng khoảng một nửa số hàng tiếp liệu dành cho lực lượng cộng sản ở miền Nam Việt Nam đă phải đi qua con đường này và qua các điểm trung chuyển gần đống đổ nát của ngôi làng đó.
Cuộc xâm lược Campuchia vào tháng 4 năm 1970, ít nhất là tạm thời cắt đứt đường tiếp tế từ cảng Sihanoukville đến các kho chứa gần biên giới Nam Việt Nam. Do đó, đến mùa hè năm đó, kẻ thù càng phụ thuộc nhiều hơn vào việc di chuyển hàng hóa đi qua Đường ṃn Hồ Chí Minh qua Tchepone để chuyển vào miền Nam Việt Nam và Campuchia. Mỹ và các nhà lănh đạo Việt Nam đều nhận ra giá trị của một cuộc đột kích nhằm làm gián đoạn giao thông trên Đường ṃn Hồ Chí Minh và phá hủy các nguồn cung cấp. Bên cạnh việc khơi dậy sự quan tâm của Đô đốc McCain ở Hawaii và Tướng Abrams tại Sài G̣n, về việc phát động một cuộc tấn công như vậy trong mùa khô 1970 – 71 cùng với sự đồng t́nh của Trung tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh Quân đoàn I của Nam Việt Nam, người từng nói với cố vấn Thủy quân lục chiến, Chuẩn Tướng Edwin H. Simmons, ông ta từng phục vụ trong một đơn vị thuộc quân đội Pháp đă tham gia tấn công về phía Tây dọc theo Đường số 9 trong cuộc chiến chống Việt Minh trước đây, và nay hy vọng sẽ khởi động lại chiến dịch tương tự. Ngay cả Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT quân lực miền Nam Việt Nam, đă có nửa chục năm chủ trương một chiến lược bao gồm cô lập kẻ thù ở miền Nam Việt Nam khỏi các nguồn cung cấp và chi viện từ miền Bắc vào miền Nam.
TT Thiệu đồng ư mở cuôc tấn công vào Tchepone, Hạ Lào
Tổng thống Thiệu chấp nhận khái niệm mở một cuộc tấn công chính ở Hạ Lào và một nỗ lực thứ yếu ở Campuchia. Trong một cuộc tṛ chuyện vào ngày 7 tháng 12 năm 1970, ông ta nói với Bunker và Abrams rằng hoạt động tại Campuchia sẽ chủ yếu nhằm giảm bớt áp lực của cộng sản đối với thị trấn Kompong Cham, trong khi cuộc tấn công vào Lào sẽ lên đến đỉnh điểm khi chiếm được Tchepone, cách biên giới khoảng bốn mươi cây số, phá hủy các nguồn cung cấp của cộng sản cho cả miền Nam Việt Nam và Campuchia. Một khi lực lượng xung kích đă cho nổ tung hàng hóa được tích trữ gần làng này thời bắt đầu rút lui có trật tự.
Theo như Tổng thống Thiệu và các Tướng Viên và Lăm nhận định, quân đội của họ sẽ phải tấn công trước khi mùa gió Đông Bắc kết thúc vào tháng 5 năm 1971. V́ các tháng sau đó những cơn gió xoay ṿng thổi từ hướng Tây Nam, những trận mưa lớn sẽ trút xuống Hạ Lào, vừa cản trở sự hỗ trợ của không quân và cản trở sự di chuyển trên mặt đất. Hơn nữa, để có được lợi thế tối đa , miền Nam Việt Nam cần phải tấn công trước khi kẻ thù cải thiện thêm Đường ṃn Hồ Chí Minh . Cuối cùng, một cuộc tấn công đánh phá mục tiêu như Tchepone đ̣i hỏi phải có viện trợ đáng kể của Mỹ, nhưng Mỹ đang dần dần rút lực lượng rời khỏi Việt Nam. Nếu chờ đợi cho đến mùa khô 1971–72, kèm theo việc các lực lượng của Mỹ tiếp tục rời Việt Nam, sẽ dẫn đến nguy cơ thiếu sự hỗ trợ thiết yếu từ phía Mỹ cho cuộc hành quân.
Kế hoạch tập kích vào Tchepone với 4 giai đoạn
Người Mỹ cũng ủng hộ một cuộc tấn công trong mùa khô và họ muốn tấn công Hạ Lào vào mùa xuân năm 1971. Với một cuộc tập kích vào Tchepone có lợi thế rõ ràng so với các cuộc chiến tiếp tục ở Campuchia, một khi phá vỡ kho chứa hàng tiếp liệu của Bắc Việt có thể vô hiệu hóa mọi mối đe dọa đối với vùng cao nguyên miền Trung, đồng thời buộc đối phương phải chuyển hướng sang pḥng thủ đường ṃn HCM. Ông Thiệu tán thành một cách không chính thức về một cuộc tiến công vào Tchepone, Kissinger nhấn mạnh Hoa Kỳ dành ưu tiên cho chiến dịch ở Hạ Lào, và giảm mức độ ưu tiên thấp hơn cho bất kỳ hoạt động nào ở Campuchia.
Vào tháng 12 năm 1970, bắt đầu việc lập kế hoạch cho cuộc tập kích vào Tchepone và cho các cuộc tấn công thứ cấp chống lại kẻ thù cố thủ gần đồn điền Chup ở Campuchia. V́ tính cách táo bạo và phức tạp, nên cuộc xâm lược Lào đ̣i hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, sớm nhất là bắt đầu ngay sau khi Thiệu bàn bạc với Bunker và Abrams về ý định tấn công Tchepone vào tháng Hai, điều này làm tăng tính cấp bách đối với các nhà hoạch định Mỹ và Nam Việt Nam.
Cùng với Viên, người đứng đầu Bộ Tổng Tham Mưu miền Nam Việt Nam, Abrams đă trao quyền cho một Bộ phận lập kế hoạch tổng hợp, nhưng các bộ phận tham mưu của Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ đă làm việc gần như độc lập với Nam Việt Nam trong việc đưa ra một khái niệm tác chiến bao gồm bốn giai đoạn riêng biệt:
– Giai đoạn I, các lực lượng Mỹ sẽ bảo đảm và chuẩn bị các con đường, sân bay và các căn cứ cần thiết ở miền Nam Việt Nam để khởi động và duy tŕ cuộc tiến công qua biên giới.
– Giai đoạn II bao gồm cuộc tấn công vào Lào và đánh chiếm Tchepone.
– Giai đoạn III bao gồm việc phá hủy các vật liệu dự trữ xung quanh làng
– Giai đoạn IV và cuối cùng, quân xung kích sẽ rút lui,
V́ tu chính án Cooper-Church cấm sử dụng lực lượng mặt đất của Mỹ tham dự vào cuộc xâm lược Lào, nên Hoa Kỳ đă dựa vào sự yểm trợ của không quân, cộng với hỏa lực pháo binh tầm xa từ bên trong miền Nam Việt Nam. Mặc dù Không quân Nam Việt Nam có thể đóng một vai tṛ nào đó trong các hoạt động , nhưng lực lượng này lại thiếu số lượng và chủng loại máy bay thích hợp để có thể tránh vũ khí pḥng không của địch tại Tchepone. Lực lượng không quân Việt Nam hóa ra không thể đáp ứng các yêu cầu của chiến dịch đă đề ra, nhưng Tướng Abrams đă điều trực thăng Lục quân và máy bay chiến đấu ném bom và máy bay B-52 của Lực lượng Không Quân để đánh quân pḥng thủ của địch một khi khi lực lượng đặc nhiệm Nam Việt Nam tấn công về hướng Tây.
Thời tiết ảnh hưởng đến cuộc hành quân.
Vào tháng Hai và tháng Ba, thời điểm được chọn để hoạt động, mây che phủ có xu hướng chiếm ưu thế ngoại trừ khoảng thời gian có lẽ từ bốn đến sáu giờ vào giữa ngày. Đầu giờ sáng và cuối giờ chiều,bầu trời thay đổi từ 2.500 feet ở khu vực lân cận Khe Sanh đến 1.000 feet trên vùng núi xung quanh Tchepone. Đám mây che phủ khu vực ngăn cản các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu. Ngược lại, máy bay trực thăng thường bay ở những độ cao thấp, nhưng các nhà hoạch định kế hoạch đă không nhận ra rằng những đám mây bao phủ các đỉnh núi ở Hạ Lào buộc các trực thăng phải đối phó với hỏa lực chết người từ các loại vũ khí pḥng không hạng nhẹ và súng máy của địch.
Người Mỹ lúc đầu gọi toàn bộ Chiến dịch là Dewey Canyon II, trong khi phía VNCH chọn tên Lam Sơn 719 để chỉ về lực lượng tiến công dọc đường 9 từ biên giới Việt Nam đến Tchepone. Trong các hoạt động trước đây, các quan chức miền Nam Việt Nam có xu hướng coi thường sự bảo mật của cuộc hành quân, đă dẫn đến những đồn đoán lan truyền khắp Sài G̣n, nên Abrams áp đặt một lệnh cấm tiết lộ tin tức về cuộc tấn công. Tuy nhiên, lệnh cấm được chứng minh là không thể thi hành v́ các nhà báo nước ngoài, những người không bị ràng buộc bởi lệnh cấm. Hơn nữa, một số phóng viên Mỹ đă đưa ra tin đồn về một cuộc xâm lược Lào sắp xảy ra. Tiến sĩ Kissinger thấy sự vô ích của nỗ lực kiểm duyệt, cho rằng điều này sẽ khuyến khích báo chí suy đoán … Do đó, lệnh cấm loan tin về cuộc hành quân chỉ kéo dài đến ngày 4 tháng 2, tức là bốn ngày trước khi lực lượng đặc nhiệm Nam Việt Nam vượt biên xâm nhập vào đất Lào.
Phi cơ yểm trợ cuộc hành quân quá chậm
Bất chấp việc soạn thảo kế hoạch một cách vội vă các lực lượng vận tải của Lực lượng Không quân đă chuyển vận người, vũ khí và vật liệu cần thiết cho cuộc tấn công Tchepone. Gần 600 phi vụ của C-130 và một tá của loại C-123 đă chuyển 12.000 quân (bao gồm cả Sư đoàn 1 Nhảy Dù Nam Việt Nam, hoạt động như bộ binh) và 4.600 tấn hàng hóa đến các sân bay ở các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, tất cả đă không diễn ra suông sẻ. Các radar tiếp cận kiểm soát mặt đất tại thành phố Đông Hà và Quảng Trị bị hỏng và các phụ tùng thay thế rất khó kiếm.
Do lệnh cấm quân Mỹ phục vụ trên bộ tiến vào đất Lào, các bên kiểm soát đường không chiến thuật của Lực lượng Không quân không thể tháp tùng quân Nam Việt Nam đang tiến quân, mặc dù các kiểm soát viên không quân tiền phương sẽ túc trực . Tu chính án Cooper- Church cũng cấm các cố vấn Quân đội tại các đơn vị mà họ đă phục vụ tham dự cuộc hành quân.
Trường hợp khi Chiến dịch Lam Sơn 719 gặp phải sự kháng cự dữ dội, Trung tâm Hỗ trợ Pḥng không Trực tiếp V giao trách nhiệm liên lạc cho các kiểm soát viên không quân tiền phương, các kiểm soát viên này được hỗ trợ bởi thông dịch viên bay cùng, nhưng các cấp chỉ huy Nam Việt Nam bên trong nước Lào không thể liên lạc nhanh chóng và đáng tin cậy với các phi công Mỹ yểm trợ cho ḿnh. Tướng Đống không hài ḷng với các thủ tục về việc liên lạc yêu cầu hỗ trợ trên không. Tư lệnh Sư đoàn Dù Nam Việt Nam cho rằng cơ chế hoạt động quá chậm, cần đến 36 giờ khi có yêu cầu, gây khó khăn cho việc phối hợp các cuộc không kích dành cho một chỉ huy sư đoàn, khi phải phụ thuộc vào một trung tâm hoạt động chiến thuật ở xa cuộc giao tranh.
Sư đoàn 101 Nhảy Dù, chứ không phải là Quân đoàn XXIV, điều khiển hoạt động các trực thăng tham gia Lam Sơn 719 và một số ít trực thăng VNCH tham gia vào cuộc hành quân. Các yêu cầu trực thăng yểm trợ của chỉ huy một sư đoàn hoặc đơn vị chủ lực khác của Nam Việt Nam được gửi đến BTL Sư đoàn Dù Mỹ, nơi đây đáp ứng ngay lập tức nếu có máy bay. Chỉ khi cần thiết phải đặt ưu tiên v́ có nhiều đơn vị yêu cầu, Quân đoàn XXIV mới can thiệp.
Các đơn vị tham gia cuộc hành quân Hạ Lào
Quân đoàn I của Nam Việt Nam ngoài việc thiết lập bộ chỉ huy hậu cứ tiếp tế cho Lam Sơn 719, c̣n thiết đặt pháo tầm xa để cùng với các khẩu đội Mỹ tập trung bắn hỗ trợ cuộc tấn công. Lực lượng tấn công thực tế bao gồm sư đoàn Thủy quân Lục chiến Nam Việt Nam, Liên đoàn 1 Biệt động quân, Sư đoàn 1 Bộ binh được tăng cường, Sư đoàn 1 Nhảy dù chiến đấu như bộ binh, và Lữ đoàn 1 Thiết giáp, tổng cộng có 42 tiểu đoàn cơ động, trong đó có 34 tiểu đoàn đă vượt biên giới. Trong khi các xe tăng và thiết giáp chở quân của Lữ đoàn thiết giáp tiến dọc theo Đường 9, trực thăng Mỹ bay hỗ trợ và chở quân để thiết lập một loạt các căn cứ hỏa lực bảo vệ đoàn thiết giáp và những chiếc xe tải chở đầy hàng tiếp liệu theo sau.
Tuy nhiên, mối đe dọa từ các lực lượng thiết giáp của Bắc Việt đă ảnh hưởng đến kế hoạch của Lam Sơn 719, không đến mức đáng lẽ phải có. Vào thời gian trước cuộc tấn công, các báo cáo t́nh báo ghi nhận rằng Bắc Việt Nam có tới 200 xe tăng do Liên Xô thiết kế, biến thể của T54, thường là gắn súng 100 mm, hoặc PT-76, một phương tiện lội nước nặng chưa bằng một nửa T54 và trang bị súng 76 mm. Trong khi Lữ đoàn thiết giáp của Nam Việt Nam dựa vào các xe tăng hạng nhẹ, với pháo 76 ly, với những phương tiện này, phối hợp với các cuộc không kích và bệ phóng hỏa tiễn do bộ binh điều khiển, họ cho rằng có đủ sức để đối phó với bất kỳ mối đe dọa thiết giáp nào mà đối phương có thể tập hợp.
Bên cạnh việc phải nă rocket vào các xe tăng có thể can thiệp trong cuộc tấn công theo kế hoạch nhằm vào Tchepone, các trực thăng sẽ phải đối mặt với một hệ thống pḥng không của địch nhiều hơn bất kỳ lực lượng pḥng không nào gặp phải ở Nam Việt Nam, và địch có thể di chuyển nhanh chóng – để bắn các máy bay đang hoạt động trong vùng Tchepone. Trên thực tế, vào thời điểm Lam Sơn 719 kết thúc, các phi công máy bay tiêm kích-ném bom của Lực lượng pḥng không báo cáo đă phá hủy hơn một trăm súng pḥng không của địch. Ngay từ đầu, các phi công Lục quân tin rằng bằng cách lướt qua các ngọn cây và sử dụng lớp phủ của các sườn núi hoặc các ngọn đồi, họ có thể bay nhanh tránh né các xạ thủ Bắc Việt Nam. Phía Bắc Việt, chúng đă chiến đấu chống lại các đơn vị máy bay của Quân đội kể từ chiến dịch Thung lũng Ia Drang năm 1965, nên chúng đă phát triển các chiến thuật chống lại máy bay trực thăng; V́ thế trong suốt chiến dịch Lam Sơn 719, chúng hiếm khi bắn vào chiếc tàu đang bay, mà thay vào đó, chúng chờ cho đến khi các trực thăng chở quân đáp xuống, địch mới sử dụng mọi thứ vũ khí từ súng trường đến súng pḥng không 37mm để tấn công vào máy bay.
Tướng Lăm phản đối kế hoạch thả bom dọn băi đáp trực thăng
Trong khi lập kế hoạch tấn công, các đại diện của Lực lượng Không quân 7 đề nghị sử dụng B-52 để tấn công vào ban đêm các địa điểm đă chọn và địa h́nh xung quanh khu vực, tiếp theo sau là các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu-ném bom và dùng máy bay vận tải thả những quả bom nặng 15.000 pound để dọn băi đáp trong rừng rậm. Tuy nhiên, bị Tướng Lăm phản đối, Ông ta muốn chiếm lấy một mục tiêu ngay từ đầu, nếu có thể, để quân đội có thời gian chuẩn bị cho cuộc phản công (… by transports dropping 15,000-pound bombs improvised to clear landing zones in dense forest. General Lam objected, however, to the timing of the attacks. He wanted to seize an objective at first light, if possible). Nhưng đến khi chiến dịch Lam Sơn 719 bắt đầu và các trực thăng gặp phải hỏa lực chết người, thời các cuộc không kích đánh phủ đầu dọn băi đáp đã trở nên quan trọng.
Để trấn áp hỏa lực pḥng không bom dẫn đường bằng laser đă chứng tỏ là vũ khí nguy hiểm nhất trong kho vũ khí của Không quân. Các đơn vị bom chùm được sử dụng rộng răi đă phóng ra các quả bom riêng lẻ có khả năng giết chết hoặc làm bị thương các cán binh của tổ súng, nhưng khó phá hủy vũ khí như loại bom dẫn đường bằng laser. Loại bom nổ cao không có hệ thống điều khiển cho kết quả kém nhất, v́ nó đ̣i hỏi phải bắn trúng trực diện để phá hủy súng hoặc giết chết một tổ súng, độ chính xác hiếm khi đạt được v́ ngụy trang, che giấu vũ khí của đối phương.
Số phi vụ yểm trợ cuộc hành quân Hạ Lào
Từ khi lực lượng đặc nhiệm Nam Việt Nam bắt đầu cuộc hành quân vào ngày 8 tháng 2 cho đến ngày 27 tháng 3 là ngày kết thúc, các máy bay vận tải của Không quân đă bay hơn 2.000 phi vụ yểm trợ cho Lam Sơn 719, mang theo 21.000 tấn hàng hóa và gần 14.000 chiến binh. Hơn 1.100 phi vụ xuất phát từ Khe Sanh; hoặc từ Thành phố Quảng Trị, Đông Hà, Phú Bài hoặc Đà Nẵng. Việc chuyển vận tăng cường quân số và tiếp tế cho Lam Sơn 719 do Bộ Chỉ huy Không vận Quân sự trách nhiệm, bằng những máy bay Douglas C- 124, Lockheed C- 141 và Douglas C- 133 đến điểm xuất phát.
Khi khoảng 6.000 người lính Nam Việt Nam tiến công trong thời tiết ảm đạm, do Sư đoàn Dù dẫn đầu, pháo binh Mỹ bắn từ các vị trí ở miền Nam Việt Nam, nhưng mây bay quá thấp trong khu vực hành quân đă cản trở hoạt động trên không . Ví dụ, vào ngày 10 tháng 2, một lực lượng tiền phương phát hiện ba xe tăng Bắc Việt Nam, cùng với pháo kéo, và yêu cầu không kích, nhưng v́ có mây che phủ khiến máy bay chiến đấu-ném bom của Không quân tuy xuất hiện trên đầu họ nhưng không thể can thiệp; v́ các máy bay phản lực tấn công với tốc độ khoảng 350 hải lư / giờ, chúng cần có khoảng cách bay cao hơn mặt đất ít nhất 3.000 feet mới xác định được vị trí để tấn công vào mục tiêu. Máy bay trực thăng quân đội có thể tấn công với khoảng cách ở độ cao chỉ 1.000 feet, nhưng các máy bay loại này lại không trang bị vũ khí thích hợp.
Lập tiền đồn tại phía Bắc và Nam đường 9
Trong vài ngày đầu tiên, cuộc hành quân Lam Sơn 719 di chuyển nhanh chóng tiến về phía trước bất chấp ảnh hưởng của thời tiết đối với hoạt động của máy bay chiến đấu. Đến ngày 12 tháng 2, lực lượng đặc nhiệm đă tiến từ biên giới đến giao lộ của Đường ̣9 với đường 92, đi về hướng Tây tiến về hướng Tchepone.Tại nơi giao nhau giữa hai con lộ, là ngôi làng bị bom đạn của người Mỹ tàn phá gọi là A Lưới đă trở thành nơi đóng quân của một căn cứ chính, và quân của Tướng Lăm đă lập bảy tiền đồn lớn khác để bảo vệ, bốn trong số đó ở phía bắc Đường 9 – Biệt động quân đóng ở phía Bắc và phía Nam, cùng với các căn cứ hỗ trợ hỏa lực như đồi 30 và 31, và ba ở phía Nam là Hotel, Delta, và Brown.
Các cuộc thả bom của B-52 đă tạo ra những hố lớn trong vùng hoang dă trong tuần giao tranh đầu tiên và gây ra một số vụ nổ thứ cấp. Tuy nhiên, các cuộc đột kích không thể ngăn cản sự kháng cự của Bắc Việt Nam đóng rải rác xung quanh các căn cứ yểm trợ hỏa lực . Các khẩu pháo pḥng không của địch di chuyển vào vị trí là mối quan tâm lớn gây trở ngại cho việc trực thăng Mỹ chở quân và hàng hóa yểm trợ trong hành lang cuộc hành quân.
Tướng Mỹ lo ngại TT Thiệu thay đổi mục tiêu
Ngay từ ngày 13 tháng 2, Tướng Abrams đă bắt đầu lo ngại Tổng thống Thiệu có thể thay đổi ư định tiến chiếm Tchepone để tiêu hủy các vật liệu được cất giữ ở đó. Abrams nghĩ đến một số cân nhắc chiến thuật có thể thuyết phục Thiệu đốt giai đoạn, tránh Tchepone, và chuyển thẳng đến giai đoạn cuối, rút quân qua Thung lũng A Shau. Có lẽ điều làm Abrams lo ngại phía lănh đạo miền Nam Việt Nam sẽ thay đổi với “cảm giác thận trọng” căn cứ vào số lượng các máy bay trực thăng của Mỹ bị mất v́ hỏa lực địch quân, v́ tai nạn và hỏng hóc cơ khí, nhưng c̣n hơn một nửa lực lượng trực thăng tham gia không bị hư hại. Một lo ngại khác , bộ ba Thiệu, Viên và Lăm có thể kết luận một cách đơn giản rằng các khu hầm nằm dọc theo các lối tiếp cận đến Thung lũng A Shau chứa một kho vật liệu có giá trị hơn so với khu vực xung quanh Tchepone.
Sự miễn cưỡng ngày càng tăng của Thiệu phản ánh các yếu tố quân sự và chính trị. Phía Bắc Việt đă gây áp lực dữ dội chống lại lực lượng đang đóng quân tại các căn cứ yểm trợ hỏa lực ở phía Đông Bắc Bản Đông; nếu một khi toàn bộ 4 tiền đồn sụp đổ, kẻ thù có thể dễ dàng kẹp chặt và tấn công bất kỳ cuộc tiến quân nào về phía Tchepone. Bằng cách thay đổi hướng, tổng thống Thiệu muốn duy tŕ càng nhiều càng tốt lực lượng hành quân Lam Sơn 719, đặc biệt là Sư đoàn 1 Nhảy Dù, nơi có hai trong số các căn cứ phía Bắc, với hy vọng một khi trận chiến nổ ra, số thương vong thấp, thời người dân miền Nam Việt Nam có thể chấp nhận được . Cũng như Nixon đă lo lắng về khả năng những tổn thất của Mỹ trong việc hỗ trợ cuộc tấn công có thể làm xói ṃn thêm sự chấp nhận của công chúng đối với cuộc chiến. Thiệu nhận ra rằng thương vong lớn của Nam Việt Nam có thể làm suy yếu quyết tâm của quốc gia ông. Theo Kissinger, ư tưởng chuyển trục tấn công về phía Nam từ Bản Đông phản ánh suy tính của Thiệu rằng tổng số thương vong không được vượt quá 3.000.
Tướng Abrams thúc dục Tướng Viên tiến nhanh về phía Tchepone
Để thúc đẩy miền Nam Việt Nam hành động, Abrams đă nói chuyện với Viên, Tổng Tham mưu Trưởng tại Sài G̣n và thúc giục lực lượng hành quân Lam Sơn 719 tiến về Tchepone càng nhanh càng tốt. Vào ngày 16 tháng 2, Viên đến BTL Quân đoàn I tại Đông Hà, miền Nam Việt Nam, nơi ông ta nói chuyện với Lăm và Sutherland. Ba vị tướng đồng ư thiết lập hai băi đáp đổ bộ quân ở phía Nam sông Xepon, thiết đặt pháo binh ở đó, và sau đó là đổ bộ các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 vào Tchepone.
Đúng như Abrams đă nghi ngờ, Tổng thống Thiệu vẫn tỏ ra mâu thuẫn về việc tiến quân xa hơn về phía Tây. Trong cuộc gặp với Lăm tại thành phố Quảng Trị vào ngày 19 tháng 2, tổng thống đă nêu ra khả năng thay đổi lực lượng chính của Chiến dịch Lam Sơn 719 . Thiệu đề nghị rằng lực lượng đặc nhiệm xoay hướng đến Tchepone và chuyển hướng về phía Nam, theo Đường 92, trong ṿng năm ngày để t́m kiếm các kho chứa vật liệu dọc theo con đường chính dẫn vào Thung lũng A Shau. Nếu tổng thống quyết định sửa đổi hoạt động bằng cách nào đó, hướng tấn công của Lam Sơn 719 sẽ không nhắm vào Tchepone mà nhằm lối vào Thung lũng A Shau. Trong khi đó, cần chú ư sự nguy hiểm nếu lực lượng đặc nhiệm trú đóng quá lâu tại các căn cứ hỗ trợ hỏa lực của họ trước khi quay về phía Nam hoặc tiếp tục di chuyển về hướng Đông. Dù lực lượng hành quân Lam Sơn 719 tiếp tục tiến đến Tchepone như Abrams và Sutherland đã mong muốn, hay quay về hướng Nam, các tướng lĩnh Mỹ đều coi việc Nam Việt Nam tiến quân vào Lào là phải cho đoàn quân di chuyển liên tục là điều bắt buộc. Một khi đoàn quân ngừng nghỉ trong vùng lân cận Bản Đông sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù tấn công vào các vị trí hiện tại của họ bằng xe tăng, và súng pḥng không , hoặc bị phục kích đoàn quân di chuyển sau khi ngừng nghỉ. Sự di chuyển liên tục và nhanh chóng mới có thể khiến kẻ thù không có thời gian chuẩn bị tập kích. Khi không thể tiếp tục di chuyển, nhất là về hướng Tchepone, Lăm coi như đă nhận lấy thất bại.
Tư lệnh TQLC Nam Việt Nam đă từ chối tham gia vào việc lập kế hoạch Lam Sơn 719
Tổng thống Thiệu không quên Tchepone và tầm quan trọng mà Abrams và Sutherland đă nhận định. Chắc chắn là do áp lực của Mỹ, trong khi ông ta đă t́m cách chuyển hướng về phía Bắc Việt Nam để tránh cho lực lượng hành quân không bị đ́nh trệ v́ hiện tại chỉ dựa vào một căn cứ yểm trợ hỏa lực chính ở phía Bắc Đường 9, Thiệu nói với Lăm vào ngày 28 tháng 2 chuẩn bị việc di chuyển từ Bản Đông đến vùng phụ cận của Tchepone. Chỉ thị của tổng thống được coi là để Lăm giải cứu cho Sư đoàn Dù đă chịu nhiều thương vong trong cuộc giao tranh tại các tiền đồn phía Bắc, và nay thay vào đó là lực lượng Thủy quân Lục chiến, được trực thăng vận để tấn công Tchepone. Việc phụ thuộc vào Thủy quân Lục chiến đă đặt Lăm vào thế khó xử. Tư lệnh TQLC Nam Việt Nam đă từ chối tham gia vào việc lập kế hoạch Lam Sơn 719 và sau đó giao quyền chỉ huy cho một đại tá , người nhận lệnh từ ông ta chứ không phải từ Lăm chỉ huy tham gia cuộc hành quân. Hơn nữa, lực lượng Thủy quân Lục chiến chưa bao giờ chiến đấu cấp sư đoàn, thay vào đó họ hoạt động theo cấp lữ đoàn. Do đó, Lăm vội vă đến Sài G̣n, tại đây ông thuyết phục Thiệu cho phép ông thay đổi nhiệm vụ hành quân về ba sư đoàn của ḿnh.
TT Thiệu từ chối kéo dài thời gian hành quân
Nhờ hỏa lực áp đảo của cuộc tấn công bằng trực thăng thành công, vào ngày 6 tháng 3 đă giúp cho quân Nam Việt Nam tiến đến khu vực đổ bộ Hope vùng lân cận Tchepone. Sau khi quân miền Nam Việt Nam lục soát các kho dự trữ xung quanh Tchepone, các Tướng Abrams và Sutherland đề nghị tăng cường hơn nữa để mở rộng khu vực kiểm soát đến tận đường ṃn Hồ Chí Minh; Abrams tuyên bố́ rằng việc bổ xung thêm một sư đoàn Nam Việt Nam và kéo dài cuộc hành quân thêm một tháng nữa sẽ giành được thắng lợi quyết định. (Abrams declared that one more South Vietnamese division and another month of fighting would win a decisive victory). Nhưng Tổng thống Thiệu từ chối lời đề nghị này, thay vào đó, ông ta yêu cầu phía Mỹ gửi một bộ phận của họ sang Lào để chiến đấu cùng với quân đội VNCH, một hoạt động bị tu chính án Cooper- Church nghiêm cấm. Vào ngày 9 tháng 3, bộ chỉ huy cấp cao gồm Thiệu, Viên và Lăm đồng ư thực hiện việc rút quân .
Việt Nam hóa chiến tranh chẳng qua là Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng
Vào thời gian máy bay trực thăng đang giải cứu những binh sĩ tháo chạy đến băi đáp Lolo, Tướng Haig đến thành phố Quảng Trị, theo Sutherland, rằng “Hoa Thịnh Đốn muốn QLVNCH ở lại Lào đến hết tháng Tư. ” V́ ông ta tin rằng B-52 “đă thực sự gây tác hại cho kẻ thù trong khu vực Tchepone,” trong khi Sutherland nghi ngờ rằng chiến dịch không thể tiếp tục lâu như vậy. V́ một khi ở lại Lào, lực lượng hành quân phải thay thế nhiều quân nhân và nhiều đơn vị mới, trong khi quân đội Nam Việt Nam đă không c̣n khả năng gửi thêm các lữ đoàn hoặc sư đoàn mới vào mặt trận.
Về tổn thất nhân sự của cuộc hành quân Lam Sơn 719, con số cuối cùng vượt quá 7.600 người thương vong, khoảng 1.500 người trong số họ thiệt mạng, 5.500 người bị thương và nhiều người c̣n lại mất tích. Trước đây Thiệu có ư định giữ cho mức tổn thất dưới 3.000, nhưng phía miền Nam Việt Nam đă phải chịu sự tổn thất gấp 2 lần . Khi đối chiếu với danh sách thương vong của Mỹ, làm dấy lên nghi ngờ về điều cho rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận rủi ro thay cho một đồng minh. Tổn thất tồi tệ nhất đă xảy ra sau khi tổng thống miền Nam Việt Nam phải nhượng bộ theo ư của Abrams và Sutherland là tiến quân từ Bản Đông đến Tchepone. Thế nhưng trong giai đoạn quan trọng đó, thời lính bộ binh Mỹ vẫn ở lại các căn cứ của họ ở biên giới phía Nam Việt Nam không tham gia vào cuộc hành quân. Và các cuộc biểu t́nh đă nổ ra ở miền Nam Việt Nam, cho rằng Việt Nam hóa chiến tranh chẳng qua là Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng – (Vietnamization simply meant that the United States would fight to the last South Vietnamese).[1]
Phải chăng “Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng” để hoàn thành mục tiêu chiến lược trong chiến tranh Việt Nam? ( Chữ chiến lược theo tuyên bố của Tướng Westmoreland – Cali Today News 27.8.2022 ). Phần trình bày tiếp theo dựa vào tài liệu của Tòa Bạch Ốc , được Cơ quan Văn khố quốc gia ̣(NARA) giải mật phổ biến trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao liên quan đến cuộc chiến…
C̣n tiếp
Đào Văn
Nguồn
[1] Media Defense Gov. (p.247-274/540): The South Vietnamese Invasion of Laos: Operation Lam Son 719.pdf (https://media.defense.gov/2010/Sep/24/2001330077/-1/-1/0/AFD-100924-004.pdf)
Đào Văn
✱ Ông Thiệu tán thành một cách không chính thức về một cuộc tiến công vào Tchepone, trong khi Kissinger dành ưu tiên cho chiến dịch ở Hạ Lào.
✱ Tướng Lăm phản đối: Trong khi lập kế hoạch tấn công, các đại diện của Lực lượng Không quân 7 đề nghị sử dụng B-52…, sau đó dùng máy bay vận tải thả những quả bom nặng 15.000 pound để dọn băi đáp trong rừng rậm. Tuy nhiên, bị Tướng Lăm phản đối, Ông ta muốn …
✱ TT Thiệu từ chối đề nghị của Mỹ kéo dài thời gian hành quân tại Lào.
✱ Việt Nam hóa chiến tranh chẳng qua là Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/09/lam-son-719-300x202.jpg
Cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971 tuy đă diễn ra trên 50 năm, nhưng vẫn có nhiều bài viết được loan tải kể lại nội tình bởi các tác giả thuộc đơn vị tham gia vào cuộc hành quân, đồng thời đặt ra câu hỏi về mục đích của cuộc hành quân, và rằng phía Mỹ hay Việt đă đề xuất mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 này. Phần tóm lược tŕnh bày sau dựa vào tài liệu của Tòa Bạch Ốc được NARA giải mật và được phổ biến trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao (bàn thảo kế hoạch hành quân), của Cơ quan Truyền thông Bộ Quốc Pḥng (diễn tiến cuộc hành quân ), và tài liệu của cơ quan CIA giải mật và phổ biến tài liệu vào các năm 2016 và 2017 (dự báo về khả năng phản công của địch). Đặc biệt là báo chí Mỹ loan tải các cáo buộc CIA về “thất bại t́nh báo” đối với cuộc hành quân Lam Sơn 719, khiến Giám đốc cơ quan CIA phải gửi thư đến Ṭa Bạch Ốc… Hy vọng qua loạt bài này sẽ trả lời phần nào cho thắc mắc liên quan đến cuộc hành quân Hạ Lào năm xưa, nhưng trước hết là diễn tiến cuộc hành quân và vấn đề Không quân Hoa Kỳ yểm trợ cuộc chiến. Bài viết sau tóm lược trích đoạn theo tài liệu được phổ biến bởi Cơ quan Truyền thông Bộ Quốc Phòng.
✱ DIỄN TIẾN CUỘC HÀNH QUÂN HẠ LÀO 1971
Theo bản văn của Cơ quan Truyền thông Bộ Quốc Pḥng (Media Defense Gov. – 24.9. 2010) – Kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu được thảo luận vào tháng 11 năm 1970, một chiến dịch không chỉ kiểm tra kỹ năng và sự kiên tŕ của quân nhân thuộc QLVNCH, và những người lănh đạo của họ, mà c̣n kiểm nghiệm về chính sách Việt Nam hóa chiến tranh. Đô đốc Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham Mưu Liên quân, bắt đầu t́m kiếm ư kiến của Đô đốc McCain, Tổng tư lệnh Thái B́nh Dương, về các hoạt động ở Đông Nam Á, bao gồm cả kế hoạch mở cuộc hành quân qua Hạ Lào đang được chuẩn bị, có thể diễn ra những tháng đầu của năm 1971. McCain đă trả lời “có thể thực hiện được” và những ̣điều “ mong muốn có thể đạt được, hoặc có thể không đạt được bởi những hạn chế về chính trị và giới hạn thời gian.”
Ư tưởng về một cuộc tấn công của Nam Việt Nam vào một thời điểm nào đó trong mùa khô, thời gian từ tháng 11 năm 1970 đến tháng 5 năm 1971, đă được gửi đến Tiến sĩ Henry Kissinger. Theo Tiến sĩ Kissinger Cố vấn TT Nixon về các vấn đề an ninh quốc gia, ông ta đă nhận xét rằng một hoạt động như vậy có thể giúp bảo vệ an toàn cho lực lượng bộ binh Mỹ đồn trú tại miền Nam Việt Nam , đồng thời ngăn chặn một cuộc tấn công của Bắc Việt vào vùng cao nguyên hoặc xuyên qua khu phi quân sự. Kissinger tin rằng một cuộc tấn công của Nam Việt Nam ở Campuchia có triển vọng thành công tốt hơn là cuộc tấn công vào Đường ṃn Hồ Chí Minh/HCM v́ nơi này được bảo vệ nghiêm ngặt hơn.
Tuy nhiên, Đô đốc McCain coi bất kỳ cuộc tấn công nào vào Campuchia cũng là một đ̣n tấn công vào Lào, khiến Đô đốc Moorer đề xuất khả năng lấy Hạ Lào làm mục tiêu chính thay v́ Campuchia. V́ có sự khác biệt về quan điểm nên Kissinger cử phụ tá của ông là Tướng Alexander M. Haig, Jr. đến Việt Nam t́m hiểu t́nh h́nh và t́m phản ứng của các đại diện Mỹ tại Việt Nam và về ư kiến của chính quyền Việt Nam.
Tướng Haig họp với TT Thiệu và viên chức Mỹ tại Sài G̣n
Tại Sài g̣n tướng Haig đă họp mặt với Tướng Abrams, chỉ huy cao cấp của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Ellsworth Bunker, Đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, và Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống miền Nam Việt Nam. Theo báo cáo của Tướng Haig rằng nhà chức trách ở Sài G̣n ủng hộ đường lối táo bạo hơn, mở một cuộc tấn công vào Đường ṃn Hồ Chí Minh, con đường tiếp tế chính của kẻ thù thay v́ chống lại lực lượng cộng sản ở Campuchia.
Ư tưởng tấn công vào Hạ Lào không phải là mới, nó bắt nguồn từ Tướng Westmoreland đă đề xuất , người tiền nhiệm của Tướng Abrams. Đường ṃn Hồ Chí Minh đă phát triển thành một huyết mạch giao thông chính. Việc mở rộng mạng lưới đường bộ, là mục tiêu mà Westmoreland đă đề xuất trước đây với quân đội Mỹ, với Nam Việt Nam, và có thể cả với Thái Lan. Các lựa chọn thay thế mà ông cân nhắc bao gồm một lực lượng tiến về phía Tây từ Khe Sanh và làng Lang Vei gần đó nhằm chống lại khu liên hợp dự trữ khí giới tại ngôi làng Tchepone thuộc Lào bị bỏ hoang. Sự thất thủ Lang Vei và quyết định tiếp theo rút khỏi Khe Sanh, cùng với việc áp dụng chính sách Việt Nam hóa và việc quân đội Mỹ rút lui, đă khiến Westmoreland và Abrams gác lại khái niệm này, mặc dù Tchepone vẫn là một mục tiêu đầy cám dỗ. Chẳng hạn, vào mùa xuân năm 1970, theo ước tính t́nh báo chỉ ra rằng khoảng một nửa số hàng tiếp liệu dành cho lực lượng cộng sản ở miền Nam Việt Nam đă phải đi qua con đường này và qua các điểm trung chuyển gần đống đổ nát của ngôi làng đó.
Cuộc xâm lược Campuchia vào tháng 4 năm 1970, ít nhất là tạm thời cắt đứt đường tiếp tế từ cảng Sihanoukville đến các kho chứa gần biên giới Nam Việt Nam. Do đó, đến mùa hè năm đó, kẻ thù càng phụ thuộc nhiều hơn vào việc di chuyển hàng hóa đi qua Đường ṃn Hồ Chí Minh qua Tchepone để chuyển vào miền Nam Việt Nam và Campuchia. Mỹ và các nhà lănh đạo Việt Nam đều nhận ra giá trị của một cuộc đột kích nhằm làm gián đoạn giao thông trên Đường ṃn Hồ Chí Minh và phá hủy các nguồn cung cấp. Bên cạnh việc khơi dậy sự quan tâm của Đô đốc McCain ở Hawaii và Tướng Abrams tại Sài G̣n, về việc phát động một cuộc tấn công như vậy trong mùa khô 1970 – 71 cùng với sự đồng t́nh của Trung tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh Quân đoàn I của Nam Việt Nam, người từng nói với cố vấn Thủy quân lục chiến, Chuẩn Tướng Edwin H. Simmons, ông ta từng phục vụ trong một đơn vị thuộc quân đội Pháp đă tham gia tấn công về phía Tây dọc theo Đường số 9 trong cuộc chiến chống Việt Minh trước đây, và nay hy vọng sẽ khởi động lại chiến dịch tương tự. Ngay cả Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT quân lực miền Nam Việt Nam, đă có nửa chục năm chủ trương một chiến lược bao gồm cô lập kẻ thù ở miền Nam Việt Nam khỏi các nguồn cung cấp và chi viện từ miền Bắc vào miền Nam.
TT Thiệu đồng ư mở cuôc tấn công vào Tchepone, Hạ Lào
Tổng thống Thiệu chấp nhận khái niệm mở một cuộc tấn công chính ở Hạ Lào và một nỗ lực thứ yếu ở Campuchia. Trong một cuộc tṛ chuyện vào ngày 7 tháng 12 năm 1970, ông ta nói với Bunker và Abrams rằng hoạt động tại Campuchia sẽ chủ yếu nhằm giảm bớt áp lực của cộng sản đối với thị trấn Kompong Cham, trong khi cuộc tấn công vào Lào sẽ lên đến đỉnh điểm khi chiếm được Tchepone, cách biên giới khoảng bốn mươi cây số, phá hủy các nguồn cung cấp của cộng sản cho cả miền Nam Việt Nam và Campuchia. Một khi lực lượng xung kích đă cho nổ tung hàng hóa được tích trữ gần làng này thời bắt đầu rút lui có trật tự.
Theo như Tổng thống Thiệu và các Tướng Viên và Lăm nhận định, quân đội của họ sẽ phải tấn công trước khi mùa gió Đông Bắc kết thúc vào tháng 5 năm 1971. V́ các tháng sau đó những cơn gió xoay ṿng thổi từ hướng Tây Nam, những trận mưa lớn sẽ trút xuống Hạ Lào, vừa cản trở sự hỗ trợ của không quân và cản trở sự di chuyển trên mặt đất. Hơn nữa, để có được lợi thế tối đa , miền Nam Việt Nam cần phải tấn công trước khi kẻ thù cải thiện thêm Đường ṃn Hồ Chí Minh . Cuối cùng, một cuộc tấn công đánh phá mục tiêu như Tchepone đ̣i hỏi phải có viện trợ đáng kể của Mỹ, nhưng Mỹ đang dần dần rút lực lượng rời khỏi Việt Nam. Nếu chờ đợi cho đến mùa khô 1971–72, kèm theo việc các lực lượng của Mỹ tiếp tục rời Việt Nam, sẽ dẫn đến nguy cơ thiếu sự hỗ trợ thiết yếu từ phía Mỹ cho cuộc hành quân.
Kế hoạch tập kích vào Tchepone với 4 giai đoạn
Người Mỹ cũng ủng hộ một cuộc tấn công trong mùa khô và họ muốn tấn công Hạ Lào vào mùa xuân năm 1971. Với một cuộc tập kích vào Tchepone có lợi thế rõ ràng so với các cuộc chiến tiếp tục ở Campuchia, một khi phá vỡ kho chứa hàng tiếp liệu của Bắc Việt có thể vô hiệu hóa mọi mối đe dọa đối với vùng cao nguyên miền Trung, đồng thời buộc đối phương phải chuyển hướng sang pḥng thủ đường ṃn HCM. Ông Thiệu tán thành một cách không chính thức về một cuộc tiến công vào Tchepone, Kissinger nhấn mạnh Hoa Kỳ dành ưu tiên cho chiến dịch ở Hạ Lào, và giảm mức độ ưu tiên thấp hơn cho bất kỳ hoạt động nào ở Campuchia.
Vào tháng 12 năm 1970, bắt đầu việc lập kế hoạch cho cuộc tập kích vào Tchepone và cho các cuộc tấn công thứ cấp chống lại kẻ thù cố thủ gần đồn điền Chup ở Campuchia. V́ tính cách táo bạo và phức tạp, nên cuộc xâm lược Lào đ̣i hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, sớm nhất là bắt đầu ngay sau khi Thiệu bàn bạc với Bunker và Abrams về ý định tấn công Tchepone vào tháng Hai, điều này làm tăng tính cấp bách đối với các nhà hoạch định Mỹ và Nam Việt Nam.
Cùng với Viên, người đứng đầu Bộ Tổng Tham Mưu miền Nam Việt Nam, Abrams đă trao quyền cho một Bộ phận lập kế hoạch tổng hợp, nhưng các bộ phận tham mưu của Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ đă làm việc gần như độc lập với Nam Việt Nam trong việc đưa ra một khái niệm tác chiến bao gồm bốn giai đoạn riêng biệt:
– Giai đoạn I, các lực lượng Mỹ sẽ bảo đảm và chuẩn bị các con đường, sân bay và các căn cứ cần thiết ở miền Nam Việt Nam để khởi động và duy tŕ cuộc tiến công qua biên giới.
– Giai đoạn II bao gồm cuộc tấn công vào Lào và đánh chiếm Tchepone.
– Giai đoạn III bao gồm việc phá hủy các vật liệu dự trữ xung quanh làng
– Giai đoạn IV và cuối cùng, quân xung kích sẽ rút lui,
V́ tu chính án Cooper-Church cấm sử dụng lực lượng mặt đất của Mỹ tham dự vào cuộc xâm lược Lào, nên Hoa Kỳ đă dựa vào sự yểm trợ của không quân, cộng với hỏa lực pháo binh tầm xa từ bên trong miền Nam Việt Nam. Mặc dù Không quân Nam Việt Nam có thể đóng một vai tṛ nào đó trong các hoạt động , nhưng lực lượng này lại thiếu số lượng và chủng loại máy bay thích hợp để có thể tránh vũ khí pḥng không của địch tại Tchepone. Lực lượng không quân Việt Nam hóa ra không thể đáp ứng các yêu cầu của chiến dịch đă đề ra, nhưng Tướng Abrams đă điều trực thăng Lục quân và máy bay chiến đấu ném bom và máy bay B-52 của Lực lượng Không Quân để đánh quân pḥng thủ của địch một khi khi lực lượng đặc nhiệm Nam Việt Nam tấn công về hướng Tây.
Thời tiết ảnh hưởng đến cuộc hành quân.
Vào tháng Hai và tháng Ba, thời điểm được chọn để hoạt động, mây che phủ có xu hướng chiếm ưu thế ngoại trừ khoảng thời gian có lẽ từ bốn đến sáu giờ vào giữa ngày. Đầu giờ sáng và cuối giờ chiều,bầu trời thay đổi từ 2.500 feet ở khu vực lân cận Khe Sanh đến 1.000 feet trên vùng núi xung quanh Tchepone. Đám mây che phủ khu vực ngăn cản các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu. Ngược lại, máy bay trực thăng thường bay ở những độ cao thấp, nhưng các nhà hoạch định kế hoạch đă không nhận ra rằng những đám mây bao phủ các đỉnh núi ở Hạ Lào buộc các trực thăng phải đối phó với hỏa lực chết người từ các loại vũ khí pḥng không hạng nhẹ và súng máy của địch.
Người Mỹ lúc đầu gọi toàn bộ Chiến dịch là Dewey Canyon II, trong khi phía VNCH chọn tên Lam Sơn 719 để chỉ về lực lượng tiến công dọc đường 9 từ biên giới Việt Nam đến Tchepone. Trong các hoạt động trước đây, các quan chức miền Nam Việt Nam có xu hướng coi thường sự bảo mật của cuộc hành quân, đă dẫn đến những đồn đoán lan truyền khắp Sài G̣n, nên Abrams áp đặt một lệnh cấm tiết lộ tin tức về cuộc tấn công. Tuy nhiên, lệnh cấm được chứng minh là không thể thi hành v́ các nhà báo nước ngoài, những người không bị ràng buộc bởi lệnh cấm. Hơn nữa, một số phóng viên Mỹ đă đưa ra tin đồn về một cuộc xâm lược Lào sắp xảy ra. Tiến sĩ Kissinger thấy sự vô ích của nỗ lực kiểm duyệt, cho rằng điều này sẽ khuyến khích báo chí suy đoán … Do đó, lệnh cấm loan tin về cuộc hành quân chỉ kéo dài đến ngày 4 tháng 2, tức là bốn ngày trước khi lực lượng đặc nhiệm Nam Việt Nam vượt biên xâm nhập vào đất Lào.
Phi cơ yểm trợ cuộc hành quân quá chậm
Bất chấp việc soạn thảo kế hoạch một cách vội vă các lực lượng vận tải của Lực lượng Không quân đă chuyển vận người, vũ khí và vật liệu cần thiết cho cuộc tấn công Tchepone. Gần 600 phi vụ của C-130 và một tá của loại C-123 đă chuyển 12.000 quân (bao gồm cả Sư đoàn 1 Nhảy Dù Nam Việt Nam, hoạt động như bộ binh) và 4.600 tấn hàng hóa đến các sân bay ở các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, tất cả đă không diễn ra suông sẻ. Các radar tiếp cận kiểm soát mặt đất tại thành phố Đông Hà và Quảng Trị bị hỏng và các phụ tùng thay thế rất khó kiếm.
Do lệnh cấm quân Mỹ phục vụ trên bộ tiến vào đất Lào, các bên kiểm soát đường không chiến thuật của Lực lượng Không quân không thể tháp tùng quân Nam Việt Nam đang tiến quân, mặc dù các kiểm soát viên không quân tiền phương sẽ túc trực . Tu chính án Cooper- Church cũng cấm các cố vấn Quân đội tại các đơn vị mà họ đă phục vụ tham dự cuộc hành quân.
Trường hợp khi Chiến dịch Lam Sơn 719 gặp phải sự kháng cự dữ dội, Trung tâm Hỗ trợ Pḥng không Trực tiếp V giao trách nhiệm liên lạc cho các kiểm soát viên không quân tiền phương, các kiểm soát viên này được hỗ trợ bởi thông dịch viên bay cùng, nhưng các cấp chỉ huy Nam Việt Nam bên trong nước Lào không thể liên lạc nhanh chóng và đáng tin cậy với các phi công Mỹ yểm trợ cho ḿnh. Tướng Đống không hài ḷng với các thủ tục về việc liên lạc yêu cầu hỗ trợ trên không. Tư lệnh Sư đoàn Dù Nam Việt Nam cho rằng cơ chế hoạt động quá chậm, cần đến 36 giờ khi có yêu cầu, gây khó khăn cho việc phối hợp các cuộc không kích dành cho một chỉ huy sư đoàn, khi phải phụ thuộc vào một trung tâm hoạt động chiến thuật ở xa cuộc giao tranh.
Sư đoàn 101 Nhảy Dù, chứ không phải là Quân đoàn XXIV, điều khiển hoạt động các trực thăng tham gia Lam Sơn 719 và một số ít trực thăng VNCH tham gia vào cuộc hành quân. Các yêu cầu trực thăng yểm trợ của chỉ huy một sư đoàn hoặc đơn vị chủ lực khác của Nam Việt Nam được gửi đến BTL Sư đoàn Dù Mỹ, nơi đây đáp ứng ngay lập tức nếu có máy bay. Chỉ khi cần thiết phải đặt ưu tiên v́ có nhiều đơn vị yêu cầu, Quân đoàn XXIV mới can thiệp.
Các đơn vị tham gia cuộc hành quân Hạ Lào
Quân đoàn I của Nam Việt Nam ngoài việc thiết lập bộ chỉ huy hậu cứ tiếp tế cho Lam Sơn 719, c̣n thiết đặt pháo tầm xa để cùng với các khẩu đội Mỹ tập trung bắn hỗ trợ cuộc tấn công. Lực lượng tấn công thực tế bao gồm sư đoàn Thủy quân Lục chiến Nam Việt Nam, Liên đoàn 1 Biệt động quân, Sư đoàn 1 Bộ binh được tăng cường, Sư đoàn 1 Nhảy dù chiến đấu như bộ binh, và Lữ đoàn 1 Thiết giáp, tổng cộng có 42 tiểu đoàn cơ động, trong đó có 34 tiểu đoàn đă vượt biên giới. Trong khi các xe tăng và thiết giáp chở quân của Lữ đoàn thiết giáp tiến dọc theo Đường 9, trực thăng Mỹ bay hỗ trợ và chở quân để thiết lập một loạt các căn cứ hỏa lực bảo vệ đoàn thiết giáp và những chiếc xe tải chở đầy hàng tiếp liệu theo sau.
Tuy nhiên, mối đe dọa từ các lực lượng thiết giáp của Bắc Việt đă ảnh hưởng đến kế hoạch của Lam Sơn 719, không đến mức đáng lẽ phải có. Vào thời gian trước cuộc tấn công, các báo cáo t́nh báo ghi nhận rằng Bắc Việt Nam có tới 200 xe tăng do Liên Xô thiết kế, biến thể của T54, thường là gắn súng 100 mm, hoặc PT-76, một phương tiện lội nước nặng chưa bằng một nửa T54 và trang bị súng 76 mm. Trong khi Lữ đoàn thiết giáp của Nam Việt Nam dựa vào các xe tăng hạng nhẹ, với pháo 76 ly, với những phương tiện này, phối hợp với các cuộc không kích và bệ phóng hỏa tiễn do bộ binh điều khiển, họ cho rằng có đủ sức để đối phó với bất kỳ mối đe dọa thiết giáp nào mà đối phương có thể tập hợp.
Bên cạnh việc phải nă rocket vào các xe tăng có thể can thiệp trong cuộc tấn công theo kế hoạch nhằm vào Tchepone, các trực thăng sẽ phải đối mặt với một hệ thống pḥng không của địch nhiều hơn bất kỳ lực lượng pḥng không nào gặp phải ở Nam Việt Nam, và địch có thể di chuyển nhanh chóng – để bắn các máy bay đang hoạt động trong vùng Tchepone. Trên thực tế, vào thời điểm Lam Sơn 719 kết thúc, các phi công máy bay tiêm kích-ném bom của Lực lượng pḥng không báo cáo đă phá hủy hơn một trăm súng pḥng không của địch. Ngay từ đầu, các phi công Lục quân tin rằng bằng cách lướt qua các ngọn cây và sử dụng lớp phủ của các sườn núi hoặc các ngọn đồi, họ có thể bay nhanh tránh né các xạ thủ Bắc Việt Nam. Phía Bắc Việt, chúng đă chiến đấu chống lại các đơn vị máy bay của Quân đội kể từ chiến dịch Thung lũng Ia Drang năm 1965, nên chúng đă phát triển các chiến thuật chống lại máy bay trực thăng; V́ thế trong suốt chiến dịch Lam Sơn 719, chúng hiếm khi bắn vào chiếc tàu đang bay, mà thay vào đó, chúng chờ cho đến khi các trực thăng chở quân đáp xuống, địch mới sử dụng mọi thứ vũ khí từ súng trường đến súng pḥng không 37mm để tấn công vào máy bay.
Tướng Lăm phản đối kế hoạch thả bom dọn băi đáp trực thăng
Trong khi lập kế hoạch tấn công, các đại diện của Lực lượng Không quân 7 đề nghị sử dụng B-52 để tấn công vào ban đêm các địa điểm đă chọn và địa h́nh xung quanh khu vực, tiếp theo sau là các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu-ném bom và dùng máy bay vận tải thả những quả bom nặng 15.000 pound để dọn băi đáp trong rừng rậm. Tuy nhiên, bị Tướng Lăm phản đối, Ông ta muốn chiếm lấy một mục tiêu ngay từ đầu, nếu có thể, để quân đội có thời gian chuẩn bị cho cuộc phản công (… by transports dropping 15,000-pound bombs improvised to clear landing zones in dense forest. General Lam objected, however, to the timing of the attacks. He wanted to seize an objective at first light, if possible). Nhưng đến khi chiến dịch Lam Sơn 719 bắt đầu và các trực thăng gặp phải hỏa lực chết người, thời các cuộc không kích đánh phủ đầu dọn băi đáp đã trở nên quan trọng.
Để trấn áp hỏa lực pḥng không bom dẫn đường bằng laser đă chứng tỏ là vũ khí nguy hiểm nhất trong kho vũ khí của Không quân. Các đơn vị bom chùm được sử dụng rộng răi đă phóng ra các quả bom riêng lẻ có khả năng giết chết hoặc làm bị thương các cán binh của tổ súng, nhưng khó phá hủy vũ khí như loại bom dẫn đường bằng laser. Loại bom nổ cao không có hệ thống điều khiển cho kết quả kém nhất, v́ nó đ̣i hỏi phải bắn trúng trực diện để phá hủy súng hoặc giết chết một tổ súng, độ chính xác hiếm khi đạt được v́ ngụy trang, che giấu vũ khí của đối phương.
Số phi vụ yểm trợ cuộc hành quân Hạ Lào
Từ khi lực lượng đặc nhiệm Nam Việt Nam bắt đầu cuộc hành quân vào ngày 8 tháng 2 cho đến ngày 27 tháng 3 là ngày kết thúc, các máy bay vận tải của Không quân đă bay hơn 2.000 phi vụ yểm trợ cho Lam Sơn 719, mang theo 21.000 tấn hàng hóa và gần 14.000 chiến binh. Hơn 1.100 phi vụ xuất phát từ Khe Sanh; hoặc từ Thành phố Quảng Trị, Đông Hà, Phú Bài hoặc Đà Nẵng. Việc chuyển vận tăng cường quân số và tiếp tế cho Lam Sơn 719 do Bộ Chỉ huy Không vận Quân sự trách nhiệm, bằng những máy bay Douglas C- 124, Lockheed C- 141 và Douglas C- 133 đến điểm xuất phát.
Khi khoảng 6.000 người lính Nam Việt Nam tiến công trong thời tiết ảm đạm, do Sư đoàn Dù dẫn đầu, pháo binh Mỹ bắn từ các vị trí ở miền Nam Việt Nam, nhưng mây bay quá thấp trong khu vực hành quân đă cản trở hoạt động trên không . Ví dụ, vào ngày 10 tháng 2, một lực lượng tiền phương phát hiện ba xe tăng Bắc Việt Nam, cùng với pháo kéo, và yêu cầu không kích, nhưng v́ có mây che phủ khiến máy bay chiến đấu-ném bom của Không quân tuy xuất hiện trên đầu họ nhưng không thể can thiệp; v́ các máy bay phản lực tấn công với tốc độ khoảng 350 hải lư / giờ, chúng cần có khoảng cách bay cao hơn mặt đất ít nhất 3.000 feet mới xác định được vị trí để tấn công vào mục tiêu. Máy bay trực thăng quân đội có thể tấn công với khoảng cách ở độ cao chỉ 1.000 feet, nhưng các máy bay loại này lại không trang bị vũ khí thích hợp.
Lập tiền đồn tại phía Bắc và Nam đường 9
Trong vài ngày đầu tiên, cuộc hành quân Lam Sơn 719 di chuyển nhanh chóng tiến về phía trước bất chấp ảnh hưởng của thời tiết đối với hoạt động của máy bay chiến đấu. Đến ngày 12 tháng 2, lực lượng đặc nhiệm đă tiến từ biên giới đến giao lộ của Đường ̣9 với đường 92, đi về hướng Tây tiến về hướng Tchepone.Tại nơi giao nhau giữa hai con lộ, là ngôi làng bị bom đạn của người Mỹ tàn phá gọi là A Lưới đă trở thành nơi đóng quân của một căn cứ chính, và quân của Tướng Lăm đă lập bảy tiền đồn lớn khác để bảo vệ, bốn trong số đó ở phía bắc Đường 9 – Biệt động quân đóng ở phía Bắc và phía Nam, cùng với các căn cứ hỗ trợ hỏa lực như đồi 30 và 31, và ba ở phía Nam là Hotel, Delta, và Brown.
Các cuộc thả bom của B-52 đă tạo ra những hố lớn trong vùng hoang dă trong tuần giao tranh đầu tiên và gây ra một số vụ nổ thứ cấp. Tuy nhiên, các cuộc đột kích không thể ngăn cản sự kháng cự của Bắc Việt Nam đóng rải rác xung quanh các căn cứ yểm trợ hỏa lực . Các khẩu pháo pḥng không của địch di chuyển vào vị trí là mối quan tâm lớn gây trở ngại cho việc trực thăng Mỹ chở quân và hàng hóa yểm trợ trong hành lang cuộc hành quân.
Tướng Mỹ lo ngại TT Thiệu thay đổi mục tiêu
Ngay từ ngày 13 tháng 2, Tướng Abrams đă bắt đầu lo ngại Tổng thống Thiệu có thể thay đổi ư định tiến chiếm Tchepone để tiêu hủy các vật liệu được cất giữ ở đó. Abrams nghĩ đến một số cân nhắc chiến thuật có thể thuyết phục Thiệu đốt giai đoạn, tránh Tchepone, và chuyển thẳng đến giai đoạn cuối, rút quân qua Thung lũng A Shau. Có lẽ điều làm Abrams lo ngại phía lănh đạo miền Nam Việt Nam sẽ thay đổi với “cảm giác thận trọng” căn cứ vào số lượng các máy bay trực thăng của Mỹ bị mất v́ hỏa lực địch quân, v́ tai nạn và hỏng hóc cơ khí, nhưng c̣n hơn một nửa lực lượng trực thăng tham gia không bị hư hại. Một lo ngại khác , bộ ba Thiệu, Viên và Lăm có thể kết luận một cách đơn giản rằng các khu hầm nằm dọc theo các lối tiếp cận đến Thung lũng A Shau chứa một kho vật liệu có giá trị hơn so với khu vực xung quanh Tchepone.
Sự miễn cưỡng ngày càng tăng của Thiệu phản ánh các yếu tố quân sự và chính trị. Phía Bắc Việt đă gây áp lực dữ dội chống lại lực lượng đang đóng quân tại các căn cứ yểm trợ hỏa lực ở phía Đông Bắc Bản Đông; nếu một khi toàn bộ 4 tiền đồn sụp đổ, kẻ thù có thể dễ dàng kẹp chặt và tấn công bất kỳ cuộc tiến quân nào về phía Tchepone. Bằng cách thay đổi hướng, tổng thống Thiệu muốn duy tŕ càng nhiều càng tốt lực lượng hành quân Lam Sơn 719, đặc biệt là Sư đoàn 1 Nhảy Dù, nơi có hai trong số các căn cứ phía Bắc, với hy vọng một khi trận chiến nổ ra, số thương vong thấp, thời người dân miền Nam Việt Nam có thể chấp nhận được . Cũng như Nixon đă lo lắng về khả năng những tổn thất của Mỹ trong việc hỗ trợ cuộc tấn công có thể làm xói ṃn thêm sự chấp nhận của công chúng đối với cuộc chiến. Thiệu nhận ra rằng thương vong lớn của Nam Việt Nam có thể làm suy yếu quyết tâm của quốc gia ông. Theo Kissinger, ư tưởng chuyển trục tấn công về phía Nam từ Bản Đông phản ánh suy tính của Thiệu rằng tổng số thương vong không được vượt quá 3.000.
Tướng Abrams thúc dục Tướng Viên tiến nhanh về phía Tchepone
Để thúc đẩy miền Nam Việt Nam hành động, Abrams đă nói chuyện với Viên, Tổng Tham mưu Trưởng tại Sài G̣n và thúc giục lực lượng hành quân Lam Sơn 719 tiến về Tchepone càng nhanh càng tốt. Vào ngày 16 tháng 2, Viên đến BTL Quân đoàn I tại Đông Hà, miền Nam Việt Nam, nơi ông ta nói chuyện với Lăm và Sutherland. Ba vị tướng đồng ư thiết lập hai băi đáp đổ bộ quân ở phía Nam sông Xepon, thiết đặt pháo binh ở đó, và sau đó là đổ bộ các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 vào Tchepone.
Đúng như Abrams đă nghi ngờ, Tổng thống Thiệu vẫn tỏ ra mâu thuẫn về việc tiến quân xa hơn về phía Tây. Trong cuộc gặp với Lăm tại thành phố Quảng Trị vào ngày 19 tháng 2, tổng thống đă nêu ra khả năng thay đổi lực lượng chính của Chiến dịch Lam Sơn 719 . Thiệu đề nghị rằng lực lượng đặc nhiệm xoay hướng đến Tchepone và chuyển hướng về phía Nam, theo Đường 92, trong ṿng năm ngày để t́m kiếm các kho chứa vật liệu dọc theo con đường chính dẫn vào Thung lũng A Shau. Nếu tổng thống quyết định sửa đổi hoạt động bằng cách nào đó, hướng tấn công của Lam Sơn 719 sẽ không nhắm vào Tchepone mà nhằm lối vào Thung lũng A Shau. Trong khi đó, cần chú ư sự nguy hiểm nếu lực lượng đặc nhiệm trú đóng quá lâu tại các căn cứ hỗ trợ hỏa lực của họ trước khi quay về phía Nam hoặc tiếp tục di chuyển về hướng Đông. Dù lực lượng hành quân Lam Sơn 719 tiếp tục tiến đến Tchepone như Abrams và Sutherland đã mong muốn, hay quay về hướng Nam, các tướng lĩnh Mỹ đều coi việc Nam Việt Nam tiến quân vào Lào là phải cho đoàn quân di chuyển liên tục là điều bắt buộc. Một khi đoàn quân ngừng nghỉ trong vùng lân cận Bản Đông sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù tấn công vào các vị trí hiện tại của họ bằng xe tăng, và súng pḥng không , hoặc bị phục kích đoàn quân di chuyển sau khi ngừng nghỉ. Sự di chuyển liên tục và nhanh chóng mới có thể khiến kẻ thù không có thời gian chuẩn bị tập kích. Khi không thể tiếp tục di chuyển, nhất là về hướng Tchepone, Lăm coi như đă nhận lấy thất bại.
Tư lệnh TQLC Nam Việt Nam đă từ chối tham gia vào việc lập kế hoạch Lam Sơn 719
Tổng thống Thiệu không quên Tchepone và tầm quan trọng mà Abrams và Sutherland đă nhận định. Chắc chắn là do áp lực của Mỹ, trong khi ông ta đă t́m cách chuyển hướng về phía Bắc Việt Nam để tránh cho lực lượng hành quân không bị đ́nh trệ v́ hiện tại chỉ dựa vào một căn cứ yểm trợ hỏa lực chính ở phía Bắc Đường 9, Thiệu nói với Lăm vào ngày 28 tháng 2 chuẩn bị việc di chuyển từ Bản Đông đến vùng phụ cận của Tchepone. Chỉ thị của tổng thống được coi là để Lăm giải cứu cho Sư đoàn Dù đă chịu nhiều thương vong trong cuộc giao tranh tại các tiền đồn phía Bắc, và nay thay vào đó là lực lượng Thủy quân Lục chiến, được trực thăng vận để tấn công Tchepone. Việc phụ thuộc vào Thủy quân Lục chiến đă đặt Lăm vào thế khó xử. Tư lệnh TQLC Nam Việt Nam đă từ chối tham gia vào việc lập kế hoạch Lam Sơn 719 và sau đó giao quyền chỉ huy cho một đại tá , người nhận lệnh từ ông ta chứ không phải từ Lăm chỉ huy tham gia cuộc hành quân. Hơn nữa, lực lượng Thủy quân Lục chiến chưa bao giờ chiến đấu cấp sư đoàn, thay vào đó họ hoạt động theo cấp lữ đoàn. Do đó, Lăm vội vă đến Sài G̣n, tại đây ông thuyết phục Thiệu cho phép ông thay đổi nhiệm vụ hành quân về ba sư đoàn của ḿnh.
TT Thiệu từ chối kéo dài thời gian hành quân
Nhờ hỏa lực áp đảo của cuộc tấn công bằng trực thăng thành công, vào ngày 6 tháng 3 đă giúp cho quân Nam Việt Nam tiến đến khu vực đổ bộ Hope vùng lân cận Tchepone. Sau khi quân miền Nam Việt Nam lục soát các kho dự trữ xung quanh Tchepone, các Tướng Abrams và Sutherland đề nghị tăng cường hơn nữa để mở rộng khu vực kiểm soát đến tận đường ṃn Hồ Chí Minh; Abrams tuyên bố́ rằng việc bổ xung thêm một sư đoàn Nam Việt Nam và kéo dài cuộc hành quân thêm một tháng nữa sẽ giành được thắng lợi quyết định. (Abrams declared that one more South Vietnamese division and another month of fighting would win a decisive victory). Nhưng Tổng thống Thiệu từ chối lời đề nghị này, thay vào đó, ông ta yêu cầu phía Mỹ gửi một bộ phận của họ sang Lào để chiến đấu cùng với quân đội VNCH, một hoạt động bị tu chính án Cooper- Church nghiêm cấm. Vào ngày 9 tháng 3, bộ chỉ huy cấp cao gồm Thiệu, Viên và Lăm đồng ư thực hiện việc rút quân .
Việt Nam hóa chiến tranh chẳng qua là Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng
Vào thời gian máy bay trực thăng đang giải cứu những binh sĩ tháo chạy đến băi đáp Lolo, Tướng Haig đến thành phố Quảng Trị, theo Sutherland, rằng “Hoa Thịnh Đốn muốn QLVNCH ở lại Lào đến hết tháng Tư. ” V́ ông ta tin rằng B-52 “đă thực sự gây tác hại cho kẻ thù trong khu vực Tchepone,” trong khi Sutherland nghi ngờ rằng chiến dịch không thể tiếp tục lâu như vậy. V́ một khi ở lại Lào, lực lượng hành quân phải thay thế nhiều quân nhân và nhiều đơn vị mới, trong khi quân đội Nam Việt Nam đă không c̣n khả năng gửi thêm các lữ đoàn hoặc sư đoàn mới vào mặt trận.
Về tổn thất nhân sự của cuộc hành quân Lam Sơn 719, con số cuối cùng vượt quá 7.600 người thương vong, khoảng 1.500 người trong số họ thiệt mạng, 5.500 người bị thương và nhiều người c̣n lại mất tích. Trước đây Thiệu có ư định giữ cho mức tổn thất dưới 3.000, nhưng phía miền Nam Việt Nam đă phải chịu sự tổn thất gấp 2 lần . Khi đối chiếu với danh sách thương vong của Mỹ, làm dấy lên nghi ngờ về điều cho rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận rủi ro thay cho một đồng minh. Tổn thất tồi tệ nhất đă xảy ra sau khi tổng thống miền Nam Việt Nam phải nhượng bộ theo ư của Abrams và Sutherland là tiến quân từ Bản Đông đến Tchepone. Thế nhưng trong giai đoạn quan trọng đó, thời lính bộ binh Mỹ vẫn ở lại các căn cứ của họ ở biên giới phía Nam Việt Nam không tham gia vào cuộc hành quân. Và các cuộc biểu t́nh đă nổ ra ở miền Nam Việt Nam, cho rằng Việt Nam hóa chiến tranh chẳng qua là Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng – (Vietnamization simply meant that the United States would fight to the last South Vietnamese).[1]
Phải chăng “Hoa Kỳ muốn miền Nam Việt Nam phải hy sinh đến người lính cuối cùng” để hoàn thành mục tiêu chiến lược trong chiến tranh Việt Nam? ( Chữ chiến lược theo tuyên bố của Tướng Westmoreland – Cali Today News 27.8.2022 ). Phần trình bày tiếp theo dựa vào tài liệu của Tòa Bạch Ốc , được Cơ quan Văn khố quốc gia ̣(NARA) giải mật phổ biến trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao liên quan đến cuộc chiến…
C̣n tiếp
Đào Văn
Nguồn
[1] Media Defense Gov. (p.247-274/540): The South Vietnamese Invasion of Laos: Operation Lam Son 719.pdf (https://media.defense.gov/2010/Sep/24/2001330077/-1/-1/0/AFD-100924-004.pdf)