PDA

View Full Version : Cuộc binh biến năm 1966 tại Quân Đoàn I theo sử liệu của Quân Đội Mỹ và CIA.



BigBoy
20-08-2022, 00:46
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/08/unnamed-1-2.jpg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/08/unnamed-1-2.jpg)

Cuộc binh biến năm 1966 tại Quân Đoàn I theo sử liệu của Quân Đội Mỹ và CIA.✱ Cố vấn Mỹ: Các tướng lĩnh TQLC Hoa Kỳ QĐ I ca ngợi sự hợp tác của Thi về sự tận tâm đối với công cuộc b́nh định.✱ Tướng Westmoreland: Kỳ rơ ràng đă chấp nhận lời khuyên của Mỹ nhưng dường như “đang chờ thời, hy vọng rằng vấn đề sẽ qua đi hoặc chờ đợi những điều kiện thuận lợi để ông ta sử dụng vũ lực.”- và thuận cung cấp máy bay vận tải Hoa Kỳ chuyên chở quân đội chính phủ…✱ Đại sứ Lodge: Khẳng định rằng “khi bị tước bỏ thói đạo đức giả, sẽ thấy rơ mục tiêu đấu tranh giành lấy quyền lực của họ.” Ông tiếp tục chỉ trích Kỳ v́ đă không sử dụng vũ lực tại Đà Nẵng.✱ CIA: Chính phủ hôm nay đă ngăn cản việc khởi hành của một phái đoàn Phật giáo ba người, trong đó có Trí Quang.Trong suốt hơn 50 năm qua, biến cố tại Miền Trung xảy ra vào năm 1966 đă được nhiều sách, nhiều báo giấy và báo mạng loan tải dựa vào các bài viết của nhiều tác giả người Việt. Bài viết này dựa vào tài liệu của phía Mỹ được biên soạn bởi Trung tâm Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ (U.S. Army Center of Military History) với tiêu đề: Cuộc binh biến tại Quân Đoàn I (Revolt in the I Cords). Ngoài ra, bài viết này c̣n kèm theo các bản báo cáo của cơ quan CIA liên quan đến t́nh h́nh Việt Nam và cuộc biến động 1966. Tuy tài liệu đă được giải mật nhưng 50 năm sau tài liệu về cuộc binh biến mới được công khai trên thư viện online của Cơ quan CIA vào ngày 16 tháng 12 năm 2016.
✱ Cuộc binh biến tại Quân đoàn ITheo bản văn của Army Center of Military History – Vào đầu năm 1966, sự ổn định của chính quyền Sài G̣n là mối quan tâm hàng đầu của các cố vấn Mỹ. Sự cân bằng quyền lực của bộ máy quân sự và dân sự Việt Nam vốn bấp bênh giữa các phe phái quân sự đối địch. Một vài nhà lănh đạo nổi bật nhất vẫn là Thiệu, Chủ tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia/UBLĐQG; Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương/UBHPTƯ và cũng là Tư Lệnh Không quân; Viên, Tham mưu Trưởng Liên quân; và các chỉ huy của bốn khu vực quân đoàn. Bất kỳ thay đổi nào liên quan đến những người này, hoặc liên quan đến những người ủng hộ họ, đều dẫn đến con đường hỗn loạn.
Cả Tướng Westmoreland và Đại sứ Lodge đều nhận thấy rơ sự hạn chế trong việc hỗ trợ chính trị Hội Đồng các Tướng Lănh/HĐTL và sự chia rẽ sâu sắc bên trong từng thành viên. Mối nguy tiềm ẩn về sự bất ổn chính trị luôn được nhắc nhở với những người đồng cấp Việt Nam. Tuy nhiên, bất chấp sự can dự ngày càng gia tăng của Mỹ ở Đông Nam Á, người Nam Việt Nam thường không nghe lời nhắc nhở của Mỹ về một cuộc khủng hoảng chính trị-quân sự sắp xảy ra.


Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng

Kể từ năm 1964, sự thất bại của quân đội trong việc thiết lập một cơ chế chính trị ổn định đă khiến nhiều nhà lănh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam tán đồng việc trở lại của một chính phủ dân sự ở miền Nam Việt Nam. Mặc dù những nỗ lực đầu tiên vào đầu năm 1965 đă thất bại, với hy vọng rằng một tiến tŕnh chuyển đổi như vậy sẽ nhận được sự ủng hộ rộng răi. Ngày 15 tháng 1 năm 1966, tại Hội Đồng các Tướng lănh, Kỳ tuyên bố ư định khôi phục chế độ dân sự. Thay v́ tổ chức các cuộc bầu cử chọn ra một hội đồng cử tri toàn quốc, HĐTL dự định chỉ định một ủy ban của riêng ḿnh để soạn thảo một bản hiến pháp có thể chấp nhận được sẽ h́nh thành một chính phủ được bầu cử ở Sài G̣n. Dự thảo hiến pháp phải là đối tượng dẫn đến một cuộc trưng cầu dân ư vào năm 1966 và, nếu được chấp thuận, sau đó là tổng tuyển cử vào năm 1967. Thiệu và Kỳ lặp lại đề nghị đó tại một hội nghị với Tổng thống Johnson ở Honolulu vào tháng sau (7.1966) và nhận được sự ủng hộ từ phía Mỹ.
Ở miền Nam Việt Nam, sự hưởng ứng ít nhiệt t́nh hơn. Nỗi nghi ngờ về một hiến pháp dẫn đến sự chỉ trích chế độ quân phiệt bởi hai nhà lănh đạo tôn giáo nổi tiếng, đó là Ḥa thượng Thích Trí Quang, lănh đạo Hội đồng cao cấp Giáo hội Phật giáo miền Trung Việt Nam, và Ḥa thượng Thích Tâm Châu, chủ tŕ Viện Hóa Đạo tại Sài G̣n. Cả hai nhà lănh đạo tôn giáo này đều lên tiếng chống tham nhũng, hoạt động kém hiệu quả của chính phủ, t́nh h́nh kinh tế suy giảm, và sự tồn tại của chế độ lệ thuộc vào ảnh hưởng của Mỹ. Họ yêu cầu chính phủ Thiệu-Kỳ từ chức ngay lập tức, thay thế nó bằng một quốc hội dân cử để soạn thảo hiến pháp nhằm giải quyết nhanh chóng cuộc chiến. Các tuyên bố của 2 nhà lănh đạo đă thu hút sự ủng hộ ngay lập tức từ các Phật tử và sinh viên tại các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Huế, cố đô của Việt Nam thuộc khu vực Quân đoàn I, nhanh chóng trở thành trung tâm của các cuộc biểu t́nh bởi những người bất đồng chính kiến, những người, vào tháng 3 (1966), đă thành lập một liên minh được gọi là Phong trào Đấu tranh.
Trong các cuộc biểu t́nh chống chính phủ sau đó, Tướng Thi, Tư lệnh Quân đoàn I/QĐI, đă không có hành động nào để chống lại những người biểu t́nh. Rơ ràng ông ta không muốn thấy sự ủng hộ của dân chúng ở khu vực QĐI bị xói ṃn bởi việc đối xử quá nặng tay đối với các cuộc biểu t́nh do Phật giáo lănh đạo, v́ rằng tâm lư của nhiều sĩ quan trở nên bất măn bởi hành động như vậy. Từ trụ sở ở Đà Nẵng, Thi tự cho ḿnh ngang hàng với Thiệu và Kỳ, điều này xét về tính chất tập thể của HĐTL là chính xác. Vị Tướng cảm thấy được tự do điều hành khu vực phía Bắc theo ý như ông ta. Và ông ta cũng có nhiều người ủng hộ tích cực trong chính quyền trung ương, bao gồm cả giám đốc Cảnh sát Quốc gia và Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh nằm ngay ngoại ô Sài G̣n. Mối quan hệ của ông với các cố vấn Mỹ được coi là tuyệt vời, và có lẽ tham vọng của ông ta đă hướng về phía Nam, tới thủ đô.
Kỳ cáo buộc Tư lệnh Quân đoàn I đang t́m cách lật đổ chính phủ và củng cố cơ sở chính trị của ông ta bằng cách ủng hộ Phong trào Đấu tranh. Nhiều quan chức Hoa Kỳ vào thời điểm này suy đoán rằng chính quyền Sài G̣n đang sử dụng Phong trào Đấu tranh ở Quân Đoàn I như một cái cớ để tấn công vào vị thế của Thi và nâng cao quyền lực của chính họ – hoặc, cách khác, tấn công vào sự nổi tiếng của Thi sẽ khiến các nhà lănh đạo của Phong trào có những hành động hấp tấp làm cái cớ để nghiền nát họ.
Vào ngày 11 tháng 3, các tướng lănh Sài G̣n quyết định sa thải Thi, và Kỳ công khai việc băi nhiệm, vào ngày hôm sau HĐTL đă thông qua quyết định. Họ chỉ đích danh Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh Nam Việt Nam đóng tại Huế là Tướng Chuân, làm tân Tư lệnh Quân đoàn, và đặt người đứng đầu Bộ Tư lệnh Biệt động quân tại Sài G̣n, Tướng Phạm Xuân Nhuận, phụ trách sư đoàn. Thi, thăm Sài G̣n vào thời điểm này đă quay trở lại khu vực phía Bắc, bề ngoài là để giải quyết công việc cá nhân của ḿnh.
Việc Thi bị sa thải đột ngột khiến các quan chức Hoa Kỳ không hài ḷng. Trong mắt Mỹ, Thi, một cựu Tư lệnh Lữ đoàn Dù, là một trong những nhà lănh đạo quân sự giỏi của Nam Việt Nam. Các đơn vị dưới quyền chỉ huy của ông ta, Sư đoàn 1 và 2 Bộ binh và Trung đoàn 51 Bộ binh biệt lập tại Đặc khu Quảng Nam, là một trong số lính tinh nhuệ nhất trong quân đội. Các tướng lĩnh Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong Quân đoàn I đă ca ngợi sự hợp tác của Thi với các lực lượng tác chiến Hoa Kỳ, và khen ngợi sự tận tâm của ông ta đối với công cuộc b́nh định. Khi được thông báo về việc sa thải, Ngoại trưởng Dean Rusk tỏ ra ngạc nhiên, ông cảnh báo rằng “có điều ǵ đó trong hơn là bắt mắt,” và bày tỏ lo ngại rằng động thái này sẽ làm trầm trọng thêm mối quan hệ của Sài G̣n với các tín đồ Phật giáo.
Không viện dẫn về những hành vi sai trái cụ thể, Kỳ, Thiệu và Có cảm thấy khó có thể biện minh cho việc Thi bị sa thải với Lodge và Westmoreland. Nếu đó là vấn đề tham nhũng và kém năng lực quân sự, th́ các tướng lĩnh khác có nhiều khả năng là ứng cử viên. Các nhà lănh đạo Sài G̣n tố cáo Thi dựa vào việc bất hợp tác với chính quyền trung ương, nuôi dưỡng tham vọng chính trị cá nhân, cấu kết với cả những người Cộng sản và Phong trào Đấu tranh. Khi bị Lodge truy vấn về bằng chứng, Kỳ thừa nhận rằng ông ta không có, nhưng khéo léo nói thêm rằng điều đó không quan trọng bằng câu hỏi về niềm tin của Hoa đối với chính phủ của Kỳ, v́ bất cứ hành động nào cản trở việc sa thải sẽ buộc Kỳ từ chức.
Lodge cảm thấy rằng ông ta ” sau một thời gian dài mới có quyết định sẽ cố gắng làm điều ǵ đó” và lưu ư Kỳ về “sự việc đă cam kết.” Mặc dù lúc đầu ông định khuyên các nhà lănh đạo miền Nam Việt Nam băi bỏ lệnh nŕy, nhưng ông nhớ lại “sự không chấp thuận về hệ thống quân đoàn” , khi so sánh với chủ nghĩa lănh chúa Trung Quốc vào những năm 1920, kết luận rằng “sự phục tùng của các tư lệnh quân đoàn đối với chính quyền trung ương có thể là một phần của tiến tŕnh hướng đến sự đoàn kết”. Cuối cùng, Hoa Kỳ không ủng hộ cũng như không phản đối hành động này, đã tạo cho Kỳ có cái cớ hành động, đồng nghĩa với việc tán thành nó. (given Ky’s proclivity for action, was tantamount to endorsing it).


[B]Phong trào đấu tranh trong tầm kiểm soát

Sau khi Thi bị sa thải, khu vực phía Bắc bùng lên làn sóng chống đối sôi sục v́ bất đồng chính kiến. Số lượng và cường độ của các cuộc đ́nh công, tuần hành và biểu t́nh tăng đều đặn, với sự tiếp sức bởi binh lính, cảnh sát và các quan chức địa phương trung thành với tướng Thi. Những cuộc chống đối đă diễn ra ở Huế và thành phố cảng Đà Nẵng, trung tâm hậu cần của Quân đoàn I, nơi các cuộc đ́nh công đă khiến các hoạt động tại bến cảng đ́nh trệ và đe dọa làm tê liệt các hoạt động quân sự trong khu vực. Việc Thi trở lại Đà Nẵng, sau đó ông ta không chịu rời đi, càng làm tăng thêm sự bối rối.Vào ngày 29 tháng 3, một số nhà lănh đạo Công giáo đă tham gia với những người bất đồng chính kiến yêu cầu trở lại chế độ dân sự. Đến đầu tháng 4, các lực lượng của Phong trào Đấu tranh/PTĐT đă kiểm soát hầu hết Huế, Đà Nẵng và Hội An và có sự yểm trợ của Bộ chỉ huy Quân đoàn I và Sư đoàn 1 Nam Việt Nam. Cùng lúc đó, các hoạt động tác chiến của Nam Việt Nam ở khu vực phía Bắc bắt đầu giảm dần, và mối nguy mà cuộc khủng hoảng gây ra cho nỗ lực chiến tranh trở nên rơ ràng.Điều mà Phong trào Đấu tranh thiếu là một nhà lănh đạo có sức lôi cuốn và một chương tŕnh hành động thống nhất, và những người ủng hộ PTĐT tạm có sự đoàn kết chỉ v́ sự không hài ḷng của họ với chính quyền trung ương. Trong khi đó, có một số phe phái yêu cầu thể chế chính trị mới, những phe phái khác đòi hỏi Thiệu và Kỳ từ chức, phục hồi chức vụ cho Thi, và trao quyền cho những tướng lănh được tín đồ Phật giáo chấp nhận. Qua đó cho thấy không có nhân vật mạnh nào xuất hiện, và PTĐT về cơ bản vẫn thiếu sự thống nhất và không có hướng dẫn.Vào ngày 2 tháng 4, Westmoreland nói rằng Kỳ rơ ràng đă chấp nhận lời khuyên của Mỹ nhưng dường như “đang chờ thời, hy vọng rằng vấn đề sẽ qua đi hoặc chờ đợi những điều kiện thuận lợi để ông ta sử dụng vũ lực.” Vào ngày hôm sau, Hội Đồng các Tướng lănh thông báo rằng chính phủ sẽ triệu tập một ủy ban với đại diện từ tất cả các phe nhóm xă hội, kinh tế và tôn giáo để thảo luận về việc thành lập một cơ chế như quốc hội hoặc quốc hội lập hiến. Trong khi chế độ nhượng bộ yêu cầu của các Phật tử, Kỳ tuyên bố rằng Đà Nẵng đă nằm trong tay Cộng sản và chính phủ có ư định lập lại trật tự bằng vũ lực. Một ngày sau, chính quyền Sài G̣n bắt đầu thi hành chiến dịch quân sự chống lại các cuộc chống đối tại thành phố này.Vào đêm ngày 4 tháng 4, Kỳ, Có, Viên, và Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Cục trưởng Cục An ninh Quân đội (MSS), bay đến Căn cứ Không quân Đà Nẵng, cùng với Cảnh sát Dă chiến Quốc gia, nhân viên ANQĐ, chiến tranh tâm lư , và hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Nam Việt Nam. Tiếp theo sau, một Tiểu đoàn Thủy Quân lục chiến thứ ba và hai tiểu đoàn Biệt Động quân cũng được điều động đến đây. Hội Đồng các Tướng Lănh hy vọng rằng một cuộc phô trương lực lượng mạnh mẽ, kết hợp với một chiến dịch tuyên truyền ủng hộ chính phủ và sự sẵn sàng đàm phán, sẽ đánh bại bất kỳ đơn vị quân đội nào hỗ trợ phong trào chống đối. Các tướng lĩnh Nam Việt Nam đă thông báo ngắn gọn cho Lodge và Westmoreland trước cuộc hành quân và được họ chấp thuận. Westmoreland cung cấp máy bay vận tải Hoa Kỳ chuyên chở quân đội chính phủ và, dự kiến cuộc binh biến này sẽ có đổ máu, các cố vấn Mỹ tại các đơn vị của cả hai bên đều được rút đi.


Phản ứng về việc điều động quân đội.

Các Tướng Thi, Nhuận tham gia Phong trào Đấu tranh, nhiều cán bộ, sĩ quan địa phương nhanh chóng đi theo lănh đạo. Với tư cách là Tư lệnh Sư đoàn 1 mới được bổ nhiệm, Nhuận điều động lực lượng bộ binh và thiết giáp chốt chặn dọc đường số 1, giữa Huế và Đà Nẵng, và sẵn sàng tiếp viện cho các đơn vị thuộc PTĐT ở Đà Nẵng. T́nh h́nh bên trong thành phố cảng căng thẳng. Chỉ huy trưởng Đặc khu Quảng Nam, Đại tá Đàm Quang Yêu, cầm đầu các đơn vị quân nổi dậy, mà theo ước tính của Mỹ, bao gồm một tiểu đoàn bộ binh từ Trung đoàn 51, ba đại đội Lực lượng miền, mười một trung đội Lực lượng Địa phương, và sáu xe bọc thép, cộng với khoảng sáu ngàn dân quân và hai trăm quân cảnh. Khi Yêu nhanh chóng xác định vị trí của một số đơn vị của ḿnh trên đường tiếp cận khu vực trung tâm thành phố, cuộc nội chiến dường như sắp xảy ra.
Các tướng lĩnh Sài G̣n, nhận ra hiện có một lực lượng mạnh đối đầu với họ, đă quyết định chống lại các hoạt động của lực lượng này. Lực lượng đặc nhiệm của chính phủ vẫn ở lại căn cứ không quân và không tiến vào Đà Nẵng. Thay vào đó, các tướng lănh tŕ hoăn hành động để hy vọng rằng các đơn vị quân đội nổi dậy sẽ tan ră. Kỳ trở về Sài G̣n và nhận nhiệm vụ ḥa giải.
Vào ngày 6 tháng 4, ông tuyên bố rằng Đà Nẵng không bị Cộng sản chiếm đóng và cuộc đối đầu ở khu vực phía Bắc về cơ bản là một vấn đề chính trị không cần thiết phải sử dụng vũ lực. Trong một lá thư gửi cho Giáo Hội Phật giáo sau đó, ông gợi ư rằng chính phủ sẽ triệu tập một quốc hội lập hiến được bầu ra trong ṿng sáu tháng.


Di tản người Mỹ ra khỏi Huế và Đà Nẵng

Westmoreland không muốn quân nhân Mỹ tại địa phương can dự, Ông ra lệnh tạm thời di tản người Mỹ ra khỏi Huế và Đà Nẵng, chỉ thị cho Trung tướng Lewis Walt, tư lệnh cấp quân đoàn Mỹ, “cấm tất cả quân Mỹ rời doanh trại, [và] ngừng tất cả các hoạt động cho đến khi t́nh h́nh lắng xuống. ” Ông ta cũng đă chỉ đạo cho các cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại các đơn vị c̣n lại, áp dụng một thái độ “tách biệt, … b́nh tĩnh và lịch sự đối với tất cả người Việt Nam”. Riêng Westmoreland hy vọng vào một hành động dứt khoát hơn tại Đà Nẵng và bắt đầu sử dụng ảnh hưởng của ḿnh để kết thúc vụ việc.
Vào ngày 7 tháng 4, ông bảo Walt rút các cố vấn Mỹ khỏi tất cả các đơn vị Nam Việt Nam thuộc phía nổi dậy ở khu vực phía Bắc như một dấu hiệu cho thấy sự không hài ḷng của Mỹ, và sau đó cử Tướng John F. Freund trong vai tṛ hỗ trợ, người từ giữa năm 1964 đă hợp tác chặt chẽ với nhiều nhà lănh đạo miền Nam Việt Nam về các vấn đề nhạy cảm khác. Westmoreland chỉ thị cho Freund “làm tất cả những ǵ có thể, đổ lỗi toàn bộ t́nh h́nh ở Quân đoàn I cho một nhóm sinh viên nóng nảy gây ra” và sử dụng các cố vấn để khuyên các đơn vị quân đội nổi dậy trở lại hợp tác với chính phủ. Đáng lo ngại hơn cho Westmoreland trước việc chính phủ không b́nh định được Đà Nẵng, và Đại sứ Lodge cảm thấy t́nh h́nh ngày càng bi quan.
Vào ngày 8 tháng 4, ông báo cáo rằng ngoài “sự kết hợp của cuộc nổi loạn với sự kiểm soát của Phật giáo, sự kích động của sinh viên, với sự đồng lơa của cảnh sát và công chức, cùng với sự tham gia của đám đông, nhân viên lực lượng vũ trang vô kỷ luật trong các đơn vị , và một số lượng không rơ, cũng không thể phủ nhận về ảnh hưởng ngày càng tăng của Việt Cộng ” đă thay thế chính quyền tại Đà Nẵng và tại phía Bắc thành phố. Thấy không có tính hợp pháp về các yêu cầu của những người trong Phong trào Đấu tranh, Lodge khẳng định rằng “khi bị tước bỏ thói đạo đức giả, sẽ thấy rơ mục tiêu đấu tranh giành lấy quyền lực của họ.” Ông tiếp tục chỉ trích Kỳ v́ đă không sử dụng vũ lực tại Đà Nẵng (He went on to castigate Ky for failing to use force at Da Nang). Ông cũng công khai không đồng ư với quyết định của Kỳ về việc tổ chức bầu cử quốc hội, v́ sợ rằng một cơ quan như vậy, có thể thách thức quyền lực của chính phủ quân sự.


Đại tá Yêu cầm đầu lực lượng vũ trang tiến đến căn cứ không quân

Bất kỳ cuộc đối đầu quân sự nào tại Đà Nẵng sẽ gây tổn hại cho các kho tiếp liệu của Mỹ và Nam Việt Nam, căn cứ không quân lớn ở đó, và trụ sở chính của Walt. Walt đă phải đối diện trước nhiệm vụ khó khăn nhằm hạn chế xung đột. Sự thể diễn ra vào ngày 9 tháng 4, khi thủ lĩnh quân đội phe nổi dậy, Đại tá Yêu cầm đầu một lực lượng vũ trang nhằm chống lại căn cứ không quân, nơi trú đóng của quân chính phủ. Kho tiếp liệu bao gồm có xe thiết giáp và pháo binh, và khả xảy ra xung đột vũ trang lớn là điều khó tránh khỏi. Với sự chấp thuận của Tướng Westmoreland, Walt với một đoàn xe của Lực lượng TQLC Hoa Kỳ đă ngăn chặn lực lượng của Yêu tiến về căn cứ và cử Đại tá John R. Chaisson đứng ra đàm phán. Căng thẳng dâng cao khi máy bay ném bom chiến đấu của TQLC Hoa Kỳ bay ṿng trên đầu, những người lính của Yêu không chịu bó tay và cả hai bên đe dọa nổ súng. Cuối cùng phía lực lượng vũ trang của Yêu đă rút đi không tấn công nữa, và mối nguy hiểm đối với căn cứ không quân đă chấm dứt.
Vào ngày 10 tháng 4, Kỳ, cảm thấy không thể làm được ǵ hơn, một lần nữa sử dụng máy bay do Mỹ cung cấp để rút lực lượng đặc nhiệm của chính phủ. Đồng thời, Hội Đồng Tướng Lănh thay thế ướng Chuân trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I với Tướng Tôn Thất Đính. Đính là một vị tướng lớn tuổi từng chỉ huy một nhóm cơ động của Pháp ở Bắc Việt Nam trước năm 1954, và sau đó trở thành một trong những chỉ huy hàng đầu của Tổng thống Diệm. Những đánh giá ban đầu của người Mỹ cho thấy Đính là người có nhiều “tham vọng” và “bản tính thất thường”. Tuy nhiên, là một người gốc Huế và thân thích với các nhà lănh đạo Phật giáo, ông ta dường như được coi là một lựa chọn chính trị thích hợp cho vai tṛ này.


Quân đội chính phủ rút khỏi Đà Nẵng

Vào ngày 14 tháng 4, tức bốn ngày sau, với việc bổ nhiệm Đính và quân đội chính phủ rút khỏi Đà Nẵng, Thiệu tuyên bố rằng cuộc bầu cử quốc hội lập hiến sẽ diễn ra trong khoảng từ ba đến năm tháng, và Giáo Hội Phật giáo nhanh chóng lên tiếng đồng ư chính phủ Kỳ nên giữ chức vụ cho đến lúc đó. Sài G̣n sau khi tuyên bố một cuộc bầu cử quốc hội sẽ được tổ chức tuy vẫn chưa rơ chi tiết, nhưng các Phật tử xem như đă thắng ngay ṿng đầu tiên.
Khi quân chính phủ rời Đà Nẵng, t́nh h́nh chính trị có vẻ lắng xuống. Tướng Walt bắt đầu cảm thấy thư giăn bất chấp lời cảnh báo trước của Lodge . Ông đă tổ chức cuộc họp giữa Đính và Yêu, sau đó báo cáo rằng Đính đang từ từ văn hồi trật tự cho toàn khu vực Quân đoàn I, và chấp thuận sử dụng trực thăng Hoa Kỳ để chở lănh tụ Phật giáo Trí Quang bay quanh khu vực quân đoàn trong nỗ lực kêu gọi các tín đồ của ông ta giữ thái độ chừng mực. Thi vẫn không xuất hiện và, chắc là hiện vẫn ở Đà Nẵng. Mặc dù Thi và những người được bổ nhiệm trước đây của ông ta tạo thành một mối nguy hiểm tiềm tàng, nhưng theo báo cáo của cố vấn Hoa Kỳ chỉ ra rằng, bên ngoài trụ sở Quân đoàn I và Sư đoàn 1, Phong trào Đấu tranh có rất ít sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang. Trong khi đó,Westmoreland cũng như các quan chức Mỹ có vẻ ngạc nhiên về việc Việt Cộng đă không khai thác thời điểm này để chống phá. Nhưng phía Đại sứ quán Hoa Kỳ vẫn nghi ngờ và cho rằng việc kẻ thù không hoạt động có thể là dấu hiệu của một thỏa thuận bí mật nào đó giữa Phong trào Đấu tranh và Cộng sản.


Không có sự ổn định tại Quân Đoàn I.

Vào ngày 26 tháng 4, Kỳ thông báo cho Lodge rằng HĐTL không có ư định giao quyền hành pháp cho quốc hội lập hiến, và ba ngày sau, ông ta loại bỏ một người ủng hộ mạnh mẽ của Thi khỏi chức vụ Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia là Đại tá Liễu, thay thế Liễu với người bạn thân của Kỳ, là Loan, Cục trưởng ANQĐ. Tại Quân Đoàn I, Đính tỏ ra không muốn hoặc không thể khôi phục được tốc độ tác chiến b́nh thường. Trong một chuyến viếng thăm khu vực vào ngày 1 tháng 5, Westmoreland đă nh́n thấy đám đông binh lính địa phương với vũ khí đi lại trên đường phố Huế và Đà Nẵng, dựa vào sự kiện này ông đă bác bỏ lời khẳng định của Đính rằng t́nh h́nh chính trị tại đây đang ổn định. Phát hiện Tư lệnh Quân đoàn “nói nhiều và dễ xúc động,” Westmore kết luận rằng “việc kiểm soát t́nh h́nh của Đính là khó khăn đến mức chúng tôi không thể hoàn toàn tin tưởng vào các ư kiến của ông ta.” Sau đó, Đính phản pháo lại rằng chính ông ta đă ra lệnh cho quân đội ở lại hai thành phố Huế và Đà Nẵng để kiểm soát các phần tử dân thường quậy phá.
Khi Westmoreland đến thăm Đà Nẵng, Tướng Freund, hiện được chỉ định là trợ lư đặc biệt của Bộ Tư lệnh MACV cho các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam, đă đi thăm trụ sở Quân đoàn II tại Pleiku, nơi ông được biết rằng Phó Tuyên úy Phật giáo Thích Hộ Giác, đă đến thăm thành phố Đà Nẵng vào ngày 27 tháng 4 và đă nói chuyện với các binh sĩ của đơn vị thiết giáp 3 miền Nam Việt Nam. Theo nguồn tin của Freund, Hộ đă nhấn mạnh ba vấn đề: rằng binh lính Nam Việt Nam nên hạ vũ khí; rằng các mục tiêu của cuộc chiến chỉ là của Mỹ; và rằng Trung Quốc, không phải Bắc Việt, mới là kẻ thù thực sự (that South Vietnamese soldiers should lay down their arms; that the objectives of the war were solely American; and that China, not North Vietnam, was the real enemy). Khi Freund chuyển câu chuyện đó cho Tổng Tham mưu trưởng Nam Việt Nam, ông nói thêm rằng Hộ Giác đang vận động chiến dịch chống lại các đơn vị thiện chiến của quân đội, và rằng “các vị tuyên úy Phật giáo khác cũng đang bận rộn trong các hoạt động tương tự tại các đơn vị toàn quân đội.“ Mặc dù không cung cấp bằng chứng cụ thể cho cả hai trường hợp, Freund báo cáo rằng Viên quan tâm sâu sắc đến t́nh h́nh, tin rằng “quân đội đang bị tiêu diệt từ bên trong.”
Barry Zorthian, chỉ huy trưởng của Liên quân Hoa Kỳ, Văn pḥng Public Affairs tại Sài G̣n, kể câu chuyện của Freund gần như từng chữ với Đại sứ Lodge và nói thêm rằng “một kỹ thuật tổ chức trá h́nh” tồn tại, theo đó mỗi đơn vị đều có các nhà lănh đạo Phật giáo cấp cao đóng vai tṛ là “ủy viên tôn giáo (chính trị).” Bởi v́ vấn đề người chỉ huy đơn vị Thiết giáp 3 của Nam Việt Nam đă “có phần nghi vấn”, ông suy đoán rằng đơn vị này sẽ rời bỏ hàng ngũ để tham gia vào Phong trào Đấu tranh trong ṿng vài tháng tới. Qua kiểm tra xét thấy “sự suy giảm rất rơ ràng về tinh thần của quân đội Nam Việt Nam” và thực tế là “lực lượng cảnh sát địa phương hoàn toàn mất tinh thần”. Zorthian kết luận rằng một thảm họa lớn sắp xảy ra. Đại sứ quán Mỹ ngay lập tức chuyển thông tin cho Washington, nhấn mạnh rằng các tuyên bố của Viên và Trí Quang đă chứng thực cho cáo buộc và nhấn mạnh nguy cơ sụp đổ sắp xảy ra.
Vào ngày 6 tháng 5, Kỳ đă chia sẻ với Westmoreland một bức tranh về t́nh h́nh thậm chí c̣n đen tối hơn. Ông cho rằng Phong trào Đấu tranh đă được đặt dưới sự kiểm soát của một Bác sĩ tên Tâm, người mà theo lời đồn đại, gần đây đă đi đến Liên Xô theo con đường từ Thụy Sĩ. Kỳ nói, ba tỉnh miền Bắc của Nam Việt Nam hầu như không c̣n phụ thuộc vào Sài G̣n; nghi ngờ họ có mối liên lạc giữa những người có khuynh hướng chính trị thân Cộng; Và một vài nhà lănh đạo Phật giáo đă thầm kín thúc giục ông tổ chức một cuộc đảo chính để lật đổ các thành viên khác trong HĐTL.
Ngày hôm sau, trong một động thái rơ ràng để chứng tỏ quyền lực của Cơ quan Hành pháp, Kỳ tuyên bố trong một cuộc họp báo ư định tiếp tục tại vị ít nhất cho đến một lúc nào đó vào năm 1967, và nói rằng quân đội sẽ chống đối bằng vũ lực, bất kỳ chính phủ dân cử nào có những người theo chủ nghĩa trung lập hoặc thiên cộng. Các báo cáo cũng cho thấy Đại tá Loan đang bí mật vận chuyển vũ khí cho các nhóm thù địch với Phong trào Đấu tranh, nhưng các quan chức Mỹ cho biết không có dấu hiệu nào cho thấy chính quyền Sài G̣n đang chuẩn bị tiến hành hoạt động quân sự chống lại những người bất đồng chính kiến. [1]
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/08/unnamed-1-3-300x228.jpg
✱ CIA: T́nh h́nh chính trị ở miền Nam Việt Nam (tính đến 12:00 trưa ngày 16.4.1966)
Bản văn được thiết lập ngày 16.4.1966, được chấp thuận cho loan tải ngày 24.4.2003, nhưng 13 năm sau mới được loan tải trên Thư viện online của Cơ quan CIA ngày 16.12.2016 .


Hai nguồn tin Phật giáo đă nói với Đại sứ quán rằng Trí Quang sẽ đến miền Trung Việt Nam, hôm nay hoặc ngày mai (17.4.1966) để cố gắng làm dịu t́nh h́nh ở đó. Cả hai nguồn tin đều chia sẻ sự bi quan về triển vọng của sứ mệnh, [4-5 ḍng chữ chưa giải mật]
Một báo cáo chưa được xác nhận của hăng tin Pháp (AFP) cáo buộc rằng chính phủ hôm nay đă ngăn cản việc khởi hành của một phái đoàn Phật giáo ba người trong đó có Trí Quang. AFP suy đoán rằng chính phủ, lưu tâm đến kinh nghiệm của Tướng Thi, đă miễn cưỡng cho phép Quang trở lại khu vực phía Bắc. Câu chuyện cũng chỉ ra rằng Thích Thiện Minh, một tín đồ của Quang, đă ám chỉ rằng vấn đề này có thể thay đổi thái độ hợp tác của Phật giáo.
Các phần tử chống chính phủ tại Quân đoàn I tiếp tục bày tỏ sự ngờ vực đối với chính phủ Kỳ, và rằng họ sẽ tiếp tục gây sức ép để thay thế chính quyền. Khoảng 2.000 – 3.000 người biểu t́nh ở Đà Nẵng hôm nay cho biết đă đốt một bản sao sắc lệnh về bầu cử của chính phủ. Tướng Thi được cho là đă chứng kiến cuộc biểu t́nh ngắn ngủi, nhưng không tham gia. Theo thông tin từ Đại sứ quán, Thi tuyên bố rằng ông ta sẽ trở lại Huế trong ngày hôm nay, và ông ta đang ở Đà Nẵng để dọn dẹp trụ sở Quân đoàn I, nơi ở cho người kế nhiệm mới nhất của ông là Tướng Đính. Những b́nh luận của Thi với báo chí ngày hôm qua về sự cần thiết của việc thay đổi chính phủ được cho là không có cơ sở, và Đại sứ quán cho rằng có thể lúc đó ông ta không biết về việc đ́nh chỉ chiến dịch tranh cử ở Sài G̣n của GH Phật giáo.
Huế hôm nay t́nh h́nh yên tĩnh ngoại trừ một cuộc tụ họp ngắn khoảng 1.000 công chức do các lănh đạo “lực lượng đấu tranh” kêu gọi. Đài phát thanh Huế tiếp tục phản đối mọi thỏa hiệp với Sài G̣n, và đang phát đi các tuyên bố của lănh đạo sinh viên rằng Thích Thiện Minh, ở Sài G̣n, đang thúc giục họ tiếp tục “đấu tranh.”
Vụ việc được báo cáo ở Sài G̣n về vụ bắn Chu Văn B́nh, chủ bút và nhà xuất bản của tờ báo tiếng Việt, đă bị bọn lưu manh tấn công vào trụ sở tuần trước, sau khi báo này chỉ trích chiến thuật gây rối trật tự của các chiến binh Phật giáo. Các báo cáo cho biết rằng người biên tập, có bút danh là Chu Tử, không bị giết như tin đầu tiên, mà đang trong t́nh trạng nguy kịch. Một người trẻ tuổi tấn công Chu Tử đă trốn thoát và không rơ danh tính. Đại sứ quán tin rằng hành động này có thể được thực hiện bởi hầu hết bất kỳ phe phái nào v́ bài báo đă chỉ trích Phật giáo, Công giáo, chính phủ và Việt Cộng, hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra trong bất kỳ trường hợp nào.[2]

✱ Kỳ tới – Tướng HV Cao không ra lệnh tấn công vào các chùa và xin đi Mỹ tị nạn…
• Thương thuyết bất thành – Số là khi tướng Cao đi thương thuyết bất thành, quay trở lại trực thăng và chuẩn bị khởi hành th́ khoảng một trăm sinh viên, và binh lính lao thẳng vào bệ trực thăng – một trung úy Nam Việt Nam bắn vào trực thăng – Xạ thủ tại cửa trực thăng của Mỹ bắn trả lại… Sau đó, một tỉnh trưởng tại địa phương cho rằng vụ việc là âm mưu ám sát Cao do một người cháu của Trí Quang, là một đại đội trưởng Sư đoàn 1 cầm đầu…


• Từ chối ra lệnh tấn công vào chùa chiền – Tướng Cao gặp thêm rắc rối khác với Đại tá Loan, khi Loan yêu cầu Cao ra lệnh tấn công vào các chùa – với vẻ như đe dọa vị Tư lệnh Quân đoàn nếu ông ta từ chối. Đôi bên c̣n đang tranh căi, Đại tá Hamblen th́nh ĺnh đến nơi và thấy Cao bị Loan và một số cảnh sát vũ trang của Loan bao vây Cao… Sau đó Cao xin đi Mỹ tị nạn…


(C̣n tiếp).
Đào Văn
Nguồn:
[1] U.S. Army Center of Military History:Advice and Support:,- Revolt in the I Cords.pdf (https://history.army.mil/html/books/091/91-3/CMH_Pub_91-3-B.pdf)[2] Thư viện CIA: THE POLITICAL SITUATION IN SOUTH VIETNAM ngày 16.April.1966.pdf (https://www.cia.gov/readingroom/docs/CIA-RDP79T00826A000600010010-8.pdf)Kèm photo để tùy nghi

BigBoy
27-08-2022, 16:33
Cuộc binh biến năm 1966 tại Quân Đoàn I theo sử liệu của Quân Đội Mỹ và CIA «b.2» -Đào Văn

https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/08/vn-war-696x558.jpg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/08/vn-war.jpg)


Đào Văn



✱Đại sứ Lodge và Tướng Westmoreland đă rời Việt Nam đi tham dự hội nghị tại Honolulu, trong khi lực lượng chính phủ,do Viên chỉ huy, chiếm Đà Nẵng vào sáng sớm Chủ nhật 15.5.1966

✱Đính bỏ chạy chạy đến Huế, cùng với Thi, Nhuận, một số tỉnh trưởng bất đồng chính kiến, và các Phật tử công khai tố cáo sự trở lại của quân đội chính phủ.

✱Tướng Cao, không tha thiết đến việc chỉ huy quân đoàn, HĐTL đă ép buộc ông ta nhận nhiệm vụ – từ chối ra lệnh tấn công vào các chùa ở Đà Nẵng

✱Cố vấn Mỹ đề xuất việc không tiếp tế cho lực lượng bất đồng chính kiến, một bước mà sau đó Tướng Viên nhiệt t́nh tán đồng

✱Người Mỹ cố gắng thuyết phục Thi và Đính bằng cách đổ lỗi cho các phần tử cực đoan Phật giáo trong Phong trào Đấu tranh, đặc biệt là Trí Quang

✱CIA: Trí Quang đă thừa nhận khi lánh nạn tại Đại sứ quán Mỹ việc lập kế hoạch … nhưng phủ nhận việc cố t́nh xúi giục vụ bạo động xảy ra vào ngày 8 tháng 5, 1963 dẫn đến cái chết của 8 người …
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2022/08/vn-war-300x241.jpg

Tiếp theo kỳ trước

✱ Sài G̣n hành động
Đại sứ Lodge và Tướng Westmoreland đă rời khỏi đất nước để đi tham dự một kế hoạch D tại hội nghị ở Honolulu khi lực lượng chính phủ, do Viên chỉ huy, chiếm Đà Nẵng vào sáng sớm Chủ nhật, ngày 15 tháng Năm. Hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Nam Việt Nam, được hỗ trợ bởi xe tăng của Quân đội Nam Việt Nam và được máy bay của Không quân Nam Việt Nam yểm trợ, di chuyển nhanh chóng vào thành phố và bảo vệ văn pḥng thị trưởng, đài phát thanh, BCH Quân đoàn I và các cơ sở quân sự khác, và các đồn cảnh sát. Hai tiểu đoàn dù dưới quyền chỉ huy của Tướng Đống tăng viện. Cuộc giao tranh diễn ra rất hạn chế, v́ hầu hết những người bất đồng chính kiến đă rút vào bên trong một số ngôi chùa Phật giáo, nơi mà quân đội chưa thể tấn công. Kỳ và Có sau đó có thêm Viên gia nhập, và trong bốn ngày tiếp theo, một hiệp định đ́nh chiến không dễ dàng xảy ra bên trong thành phố.

Khi Tư lệnh Quân đoàn I đương nhiệm, Tướng Đính, phản đối hành động này, Hội đồng các Tướng Lănh đă thay thế ông bằng Tướng Huỳnh Văn Cao. Trước tiên, Đính bỏ chạy đến trụ sở của Tướng Walt và sau đó chạy về phía Bắc đến Huế, nơi ông cùng với Thi, Nhuận, một số tỉnh trưởng bất đồng chính kiến, và các Phật tử công khai tố cáo sự trở lại của quân đội chính phủ. Nhuận đặt các đơn vị của Sư đoàn 1 tiến về Huế và tại phi trường Phú Bài gần đó nhưng gặp trở ngại không di chuyển được để tăng viện cho Đà Nẵng. Tư lệnh Sư đoàn 2, Tướng Lăm, vẫn trung thành với chính phủ, nhưng một số đơn vị của ông vào Đà Nẵng tham gia cuộc khởi nghĩa. Lăm cảnh báo rằng bất kỳ cuộc tấn công nào vào các ngôi chùa sẽ gây ra nhiều lính đào ngũ hơn và thậm chí đề nghị phục hồi Thi làm tư lệnh quân đoàn.

Sự tham gia của người Mỹ trong cuộc hành quân tại Đà Nẵng lần thứ hai là rất ít. Theo Tướng Westmoreland, các quan chức Hoa Kỳ đă bị bất ngờ khi HĐTL đă không thông báo cho ông ta về hoạt động sắp xảy ra . Cả Westmoreland và Lodge vẫn c̣n ở Hawaii đều tách ḿnh ra khỏi cuộc khủng hoảng về mặt chính trị. Ngoại trưởng Rusk, lo lắng rằng các đại diện của ông không được hỏi ư kiến trước khi vụ tấn công xảy ra, và đă ra lệnh cho Phó Đại sứ William J. Porter đ́nh chỉ chiến sự ngay lập tức. Ông chỉ thị cho Porter và, khi Lodge trở về, chính đại sứ phải nhấn mạnh rằng các quan chức Hoa Kỳ phải chịu mọi hành động của chính phủ, yêu cầu để các chùa chiền được yên ổn và cần đạt được một giải pháp thỏa hiệp càng sớm càng tốt. Cũng theo lời khuyên của Rusk, MACV đă bác bỏ tất cả các yêu cầu của HĐTL về sự hỗ trợ hàng không của Hoa Kỳ và một lần nữa rút các cố vấn khỏi tất cả các đơn vị liên quan. HĐTL lo lắng rằng Hoa Kỳ nếu không quan tâm có thể làm suy yếu chính quyền Sài G̣n thêm nữa.

Vào ngày 16 tháng 5, Walt đă gặp tư lệnh mới (và là người thứ tư) của Quân đoàn I Việt Nam, Tướng Cao, ông ta tiết lộ với với Freund và cả Walt, rằng ông ta không tha thiết đến việc chỉ huy quân đoàn và các thành viên khác của HĐTL đă ép buộc ông ta nhận nhiệm vụ. Westmoreland đă đề nghị giữ lại Đính, nhưng quá trễ v́ ông ta đă tham gia Phong trào Đấu tranh ở Huế.



Tướng Cao từ chối ra lệnh tấn công vào các chùa


Ngày 17 tháng 5, Cao bay trực thăng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đến Huế để trao đổi với Thi và Nhuận. Cùng đi với anh ta có chánh văn pḥng của Walt,Tướng Jonas M. Platt (USMC), và Phó cố vấn cao cấp của Quân đoàn I, Đại tá Archelaus L. Hamblen, Jr. Sau khi Thi và Nhuận từ chối gặp ông ta, Cao quay trở lại trực thăng và chuẩn bị khởi hành th́ khoảng một trăm sinh viên. và binh lính lao thẳng vào bệ trực thăng. Cao gặp khó khăn khi lên máy bay, nhưng khi chiếc máy bay bắt đầu bay lên, một trung úy Nam Việt Nam bắn vào trực thăng bằng một khẩu súng lục cỡ ṇng 45. Xạ thủ tại cửa trực thăng của Mỹ bắn trả lại, khiến viên trung úy tử vong và làm bị thương một số binh sĩ Nam Việt Nam khác. Mặc dù sau đó, một tỉnh trưởng địa phương cho rằng vụ việc là âm mưu ám sát Cao do một người cháu của Trí Quang, là một đại đội trưởng Sư đoàn 1 cầm đầu, Trí Quang phủ nhận cáo buộc này và đổ lỗi cho xạ thủ Mỹ đă khơi mào vụ việc. Quá hoảng sợ, Cao tiếp tục đến BCH Sư đoàn 2 của Tướng Lăm tại Quảng Ngăi, nơi được tiếp đón thân mật hơn.

Cao gặp khó khăn trong việc quay trở lại Đà Nẵng, v́ ông ta gặp thêm rắc rối với Đại tá Loan, lúc này là Cảnh sát trưởng Quốc gia. Loan khăng khăng rằng Cao cần phải ra lệnh tấn công vào các chùa ở Đà Nẵng và có vẻ như đe dọa vị Tư lệnh Quân đoàn nếu ông ta từ chối. Đôi bên c̣n đang tranh căi, Đại tá Hamblen th́nh ĺnh đến nơi và thấy Cao bị Loan và một số cảnh sát vũ trang của Loan bao vây Cao. Sợ hăi, Cao rời khỏi địa điểm cùng Hamblen và sau đó cầu xin Tướng Walt cho đi Mỹ tị nạn. Viết thư cho Westmoreland ngay sau đó, Cao xin được đến Hoa Kỳ và t́nh nguyện gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ để chống lại chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ đâu trên thế giới. Mặc dù trước là Viên, sau đó là Có, đă bay đến Đà Nẵng để cố gắng xoa dịu vị Tư lệnh Quân đoàn bất đắc dĩ, nhưng cũng không thể khuyên dụ ông ta rời khỏi khu doanh trại của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.




Tướng Walt phá vỡ âm mưu phá nổ cây cầu


Ngày 18 tháng 5, Tướng Walt cũng đă đích thân tham gia vào việc đảm bảo một cây cầu quan trọng bắc qua sông Tourane ở Đà Nẵng khỏi bị phá hủy. Cây cầu nối liền thành phố với khu liên hợp kho tiếp liệu phía Đông Đà Nẵng. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bảo đảm đầu cuối Đà Nẵng, trong khi quân nổi dậy giữ đầu c̣n lại. Khi Walt phát hiện ra rằng các công binh Nam Việt Nam ủng hộ Phong trào Đấu tranh đă căng dây dẫn nổ khắp cây cầu và kho chứa, ông ta đến gặp riêng với sĩ quan Nam Việt Nam chỉ huy toán công binh. Trong khi cả hai thảo luận sôi nổi trên cây cầu, một chuyên viên của Quân đội Hoa Kỳ đă bí mật cắt dây dẫn đến các khối chất nổ. Khi Walt vẫy tay làm hiệu cho TQLC của ḿnh qua cầu, sĩ quan Nam Việt Nam phe nổi loạn ra lệnh kích hoạt cho nổ các khối chất nổ. Nhưng, trước sự ngạc nhiên của sĩ quan này, chất nổ không phát nổ, và lực lượng của Walt đă bảo vệ toàn bộ cây cầu mà không bị chống đối ǵ thêm. ”

Chiều ngày 19 tháng 5, Kỳ và Thiệu cuối cùng đă quyết định hành động dứt khoát. Do Cao tiếp tục từ chối lệnh tấn công vào các chùa nên cuối cùng họ đă bảo tướng Viên thực hiện công việc đó. Dưới sự chỉ huy của Đại tá Trưởng, năm tiểu đoàn, quân số khoảng trên 3300 quân nhân, đă cưỡng chiếm hầu hết các chùa và các cơ sở quân sự c̣n lại trong thành phố. Trong nỗ lực kiềm chế thương vong, Trưởng đă bao vây hai trung tâm kháng chiến chính, nằm ở chùa Tân Linh và Thịnh Hội, và đề nghị ân xá cho bất kỳ ai đầu hàng.

Các quan chức Mỹ lại tỏ ra khó chịu trước cuộc giao tranh mới, nhưng họ khó có thể làm được ǵ nhiều. Tướng Walt đưa một đại đội Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đến để bảo vệ trụ sở chính của ông ta, và trong những ngày sau đó, các cơ sở của Lực lượng Thủy quân Lục chiến và Không quân Hoa Kỳ đă bị tấn công bởi hỏa lực vũ khí cá nhân, đạn cối, hỏa tiễn và đạn pháo của máy bay, gây ra một số thương vong. Khi máy bay của Nam Việt Nam bắn nhầm vào các khu vực thuộc trụ sở Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, Walt đe dọa sẽ bắn hạ các máy bay vi phạm, và bầu trời nhanh chóng tràn ngập các máy bay chiến đấu phản lực của Mỹ và Nam Việt Nam bay qua lại trên bầu trời thành phố. Cuối cùng, sau cuộc trao đổi thông điệp sôi nổi giữa Đà Nẵng, Sài G̣n và Washington, Việt Nam đă đồng ư đ́nh chỉ tất cả các cuộc tấn công thành phố bằng không quân trong giới hạn.

Trong khi Trưởng chỉ đạo quân đội chính phủ tại Đà Nẵng, sĩ quan hành quân của Bộ Tổng tham mưu miền Nam Việt Nam, Tướng Trần Thanh Phong, nắm quyền chỉ huy tạm thời Quân đoàn I. Cùng lúc đó, việc tuyển chọn một tư lệnh quân đoàn khác bắt đầu. Lần này Bộ Chỉ Huy xem xét việc thuyên chuyển Tướng Vĩnh Lộc rời khỏi khu vực Quân Đoàn II, hoặc theo đề nghị của Westmoreland, triệu hồi một chuyên gia lưu vong, Tướng Đỗ Cao Trí, từ Hồng Kông. Cuối cùng, có lẽ v́ ḷng trung thành kiên định của ông ta, chính phủ đă giải quyết Tư lệnh Sư đoàn 2, Tướng Lăm, và cuối tháng ông chính thức nhậm chức. Lăm là Tư lệnh Quân đoàn thứ sáu ở khu phía Bắc trong ṿng chưa đầy ba tháng.

Lo lắng trước t́nh h́nh chính trị ở miền Nam Việt Nam xấu đi và phản ứng bất lợi của công chúng Mỹ đối với nó, Washington bắt đầu gây áp lực buộc các quan chức Mỹ tại Việt Nam phải có vai tṛ tích cực hơn trong bối cảnh đang trở thành một cuộc nội chiến. Khi trở về Sài G̣n vào ngày 20 tháng 5, Westmoreland nhận thấy một thông điệp mạnh mẽ từ Tướng Wheeler chỉ đạo ông sử dụng tất cả ảnh hưởng của ḿnh để nhanh chóng kết thúc cuộc khủng hoảng chính trị. Hiện nay ở Hoa Kỳ có một cảm giác rằng các đơn vị Hoa Kỳ đang thực hiện tất cả các cuộc giao tranh chống VC, trong khi những người Nam Việt Nam đang nhúng tay vào các âm mưu chính trị. Chủ tịch JCS muốn biết liệu người miền Nam Việt Nam hiện nay có cảm thấy rằng chúng tôi sẽ c̣n “bám chặt vào Việt Nam” và họ có thể gạt bỏ các mong muốn của chúng tôi hay không.




Đề nghị cắt tất cả viện trợ của Hoa Kỳ cho Quân đoàn I.


Ngày hôm sau Tướng Wheeler yêu cầu Westmoreland và Lodge làm rơ sự bất măn của người Mỹ về t́nh h́nh và tổ chức một cuộc họp giữa hai phe tại một địa điểm an toàn. Bản thân Wheeler và Đại sứ W. Averell Harriman đă được chuẩn bị để đứng đầu một nhóm đặc biệt để hỗ trợ các cuộc đàm phán. Trong lúc đó, Chủ tịch JCS đề nghị cắt tất cả viện trợ quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ cho Quân đoàn I, rút toàn bộ quân đội và các cố vấn dân sự tại khu vực, và có lẽ sẽ tạm dừng tất cả các hoạt động chiến đấu tấn công của Mỹ ở đó.

Westmoreland trả lời rằng, trái ngược với ấn tượng của Wheeler, t́nh h́nh ở khu vực phía Bắc là “nghiêm trọng” nhưng “không tuyệt vọng”, đánh giá của riêng ông bây giờ là lạc quan. Chính quyền kiểm soát phần lớn Đà Nẵng, Sư đoàn 2 vẫn trung thành, bộ chỉ huy Đặc khu Quảng Nam đă trở lại quyền kiểm soát của chính quyền, và Tiểu đoàn 11 Biệt động quân nổi dậy tan ră. Ông cũng lưu ư rằng Tướng Phong lúc này đang hỗ trợ cho ông Cao và ngay cả Tướng Nhuận, vẫn chỉ huy Sư đoàn 1 tại Huế, “dường như quan tâm hơn đến việc chỉ huy sư đoàn của ông chống lại Việt Cộng “. Thi và Đính, hai cựu tư lệnh quân đoàn đang ẩn náu ở Huế, chỉ làm Nhuận bực ḿnh thêm, trong khi nhà lănh đạo Phật giáo, Trí Quang, “có thể sợ hăi đă bỏ chạy.” – while the Buddhist leader, Tri Quang, “may be running scared.” Westmoreland cảm thấy rằng Thi là “người duy nhất có đủ ảnh hưởng để đưa khu vực Quân đoàn I trở lại b́nh thường trong thời gian ngắn” và đang thúc giục Tướng Walt tổ chức một cuộc gặp giữa Thi, Kỳ và Đính tại Chu Lai, một căn cứ tại địa phương của Mỹ. Ông nói thêm, Thi có thể hợp tác, nếu kẻ thù truyền kiếp của ông ta, Bộ trưởng Quốc pḥng Có, “bị loại khỏi hiện trường.”

Sau đó trong ngày, chỉ huy MACV lặp lại ư kiến của ḿnh “rằng toàn bộ vấn đề đang thổi phồng … bởi v́ … các phóng viên có mặt tại hiện trường cố gắng tạo dựng tên tuổi và đóng một vai tṛ nào đó.” Ông coi các biện pháp do Wheeler đề xuất là quá quyết liệt. Việc rút các cố vấn hoặc ngừng sự trợ giúp của Hoa Kỳ là không thể chấp nhận được ; Việc ngừng các hoạt động chiến đấu của Hoa Kỳ là “không thể chấp nhận được” và “không thể tưởng tượng nổi”; và việc tái bố trí lực lượng Hoa Kỳ từ khu vực Quân đoàn I là vô lương tâm. Nhân viên của ông, Westmoreland lưu ư, đă “đưa ra các biện pháp thiết thực để khôi phục trật tự với những thương vong tối thiểu” và hiện đang cố gắng tập hợp đại diện của cả hai bên lại với nhau.

Vào ngày 21 tháng 5, Westmoreland bay đến Chu Lai, nơi ông ta khuyên Tướng Walt “nên bắt đầu sử dụng ảnh hưởng của chúng tôi ở hậu trường để cố gắng loại bỏ bất kỳ lực lượng VNCH nào … khỏi Nhóm Đấu tranh” và tiếp quản Đà Nẵng do phe bất đồng chính kiến nắm giữ “bằng đàm phán hơn là hành động quân sự nếu có thể.” Ngày hôm sau, ông gặp các sĩ quan và nhân viên hậu cần của ḿnh và người đứng đầu Nhóm Cố vấn Hải quân Hoa Kỳ để thảo luận về việc nắm quyền kiểm soát tất cả các hoạt động hậu cần của Nam Việt Nam ở khu vực phía Bắc, đề xuất việc từ chối tiếp tế cho lực lượng bất đồng chính kiến, một bước mà sau đó Tướng Viên được nhiệt t́nh tán đồng.

Ngày 23 tháng 5, Tướng Walt đă mở các cuộc đàm phán với lực lượng nổi dậy tại kho đạn Đông Đà Nẵng , ông ta đă được sự đồng ư về một chiến dịch phối hợp của Mỹ-Nam Việt Nam. Hai ngày sau ông ta bắt đầu phân phối nhiên liệu cho Sư đoàn 1 Nam Việt Nam, và một ngày sau đó, TQLC của ông bắt đầu một loạt các cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của sư đoàn nhằm thu hút sự chú ư của lực lượng này khỏi cuộc nổi dậy tại Huế.

Trở lại Đà Nẵng, sự lạc quan của Westmoreland đă sớm được chứng minh. Vào ngày 21 tháng 5, những người bất đồng chính kiến ở chùa Tân Linh, bao gồm cả Đại tá Yêu, đă đầu hàng và hai ngày sau những người c̣n lại đầu hàng. Trong khi cảnh sát của Đại tá Loan bắt thị trưởng Đà Nẵng, các máy bay của Không quân Nam Việt Nam đă giải tán một tiểu đoàn bất đồng chính kiến hành quân vào thành phố từ Huế. Đến ngày 24 tháng 5, Đà Nẵng hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ. Theo ước tính sơ bộ của Hoa Kỳ, thương vong cho cả hai bên bao gồm 150 người Nam Việt Nam chết và 700 người bị thương, và 23 lính Mỹ khác bị thương.

Trong cùng thời gian đó, Westmoreland, Walt, và các đại diện của họ đă tiến hành một loạt các cuộc hội đàm chính thức và không chính thức với các nhà lănh đạo quân sự cao cấp của miền Nam Việt Nam: Kỳ, Thiệu, Có, Viên, Cao, Thi và Đính. Người Mỹ cố gắng thuyết phục Thi và Đính bằng cách đổ lỗi cho các phần tử cực đoan Phật giáo trong Phong trào Đấu tranh, đặc biệt là Trí Quang (blaming the Struggle Movement on Buddhist extremists, especially Tri Quang) , và ân cần nói rằng cả hai vị tướng sẽ nhận các chức vụ quan trọng sau khi họ trở lại hàng ngũ. Đối với Tướng Thiệu, Westmoreland nhấn mạnh tầm quan trọng của dư luận Mỹ liên quan các quyết định trong tương lai về việc bổ sung thêm quân đội Hoa Kỳ đến miền Nam Việt Nam và nguy cơ người Mỹ sẽ “có ấn tượng về sự mất đoàn kết nghiêm trọng.” Thiệu hoan nghênh sáng kiến của Mỹ và phàn nàn rằng việc không tham gia trước đây của Westmoreland được coi như đă khuyến khích Phong trào Đấu tranh.

Vào ngày 27 tháng 5 và ngày 1 tháng 6, Tướng Walt bảo trợ các cuộc họp chính thức tại Chu Lai giữa các thành viên của các phe phái quân sự đối lập. Các nhà ḥa giải Mỹ nhấn mạnh sự ủng hộ của họ đối với chính quyền Sài G̣n hiện tại và đảm bảo sự an toàn cho các tướng lĩnh bất đồng chính kiến nếu họ chấp nhận đề nghị ân xá. Việc chính quyền tiếp tục kiểm soát Đà Nẵng và việc công bố thỏa thuận giữa HĐTL và Viện Hóa Đạo đă củng cố lập trường của chính phủ. Cuối cùng Cao đồng ư trở về Sài G̣n, và mặc dù Thi và Đính vẫn ở lại khu vực phía Bắc, nhưng họ tỏ ư sẵn sàng hợp tác. Khi tỉnh trưởng Thừa Thiên (đồng thời là thị trưởng Huế) cũng đă hợp tác với chính phủ, chỉ có Nhuận và Sư đoàn 1 của ông ta c̣n cần sự thuyết phục.

Hội Đồng Tướng Lănh/HĐTL đă có kế hoạch đưa Nhuận và thuộc cấp của ông ta trở lại với chính phủ. Tướng Viên ước tính rằng hai trong số ba trung đoàn của sư đoàn sẽ giữ vị trí trung lập, nhưng ông dự đoán sẽ gặp rắc rối từ một vài thành phần tại BCH Sư đoàn và Trung đoàn thứ ba do một người cháu của ông Thi chỉ huy. Viên dự định gửi trung đoàn có khả năng gặp khó khăn nhất về phía Bắc đến tỉnh Quảng Trị để phối hợp tác chiến với các đơn vị Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nếu Nhuận từ chối hợp tác, HĐQL sẽ sa thải ông ta. Quân đội chính phủ sẽ phong tỏa các đơn vị nổi dậy c̣n lại tại Huế và đề nghị ân xá cho họ.

Kế hoạch của HĐTL vẫn chưa được thực hiện khi các hoạt động của Phong trào đấu tranh thay đổi lập trường chống Mỹ. Trong các cuộc bạo động có một số binh lính miền Nam Việt Nam tham gia, những người biểu t́nh đă đốt thư viện của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ ở Huế vào ngày 26 tháng 5 và sáu ngày sau đó, cướp phá lănh sự quán Hoa Kỳ ở đó. Các nhà quan sát Hoa Kỳ đă đổ lỗi các hành vi này cho nhà lănh đạo Phật giáo, Trí Quang (American observers blamed the acts on the Buddhist leader, Tri Quang). Vài ngày sau, sự liên hệ của chính quyền Sài G̣n với thành phần ôn ḥa tại Viện Hóa Đạo bị phá vỡ, và các giáo sĩ Phật giáo một lần nữa lại liên kết chống lại chế độ. Lodge dự đoán rằng t́nh h́nh hiện đang bước vào giai đoạn “cuồng tín nếu không thực sự rùng rợn” và trích dẫn “nguồn tin từ các nhà Phật giáo-thần bí về những cuộc tự thiêu”.

Vào ngày 1 tháng 6, báo động trước t́nh trạng bạo lực ngày càng gia tăng ở Huế, Tư lệnh mới của Quân đoàn I quyết định thi hành biện pháp quân sự. Tướng Lăm sẽ điều động các lực lượng dự bị của trung đoàn trung thành nhất của Sư đoàn 1, được hỗ trợ bởi thiết giáp của Sư đoàn, tiến vào Huế từ phía Bắc để chiếm thành phố, trong khi lực lượng Dù và Thiết giáp từ Đà Nẵng di chuyển từ phía Nam vào làm lực lượng dự bị. Nếu Tướng Nhuận từ chối chỉ huy cuộc hành quân, Lăm sẽ đưa Phó Tư lệnh Sư đoàn 2, Đại tá Nguyễn Văn Toàn vào nhận nhiệm vụ. Tuy nhiên, kế hoạch đă được cho là quá sớm. Nhuận không những không chịu hợp tác mà c̣n bí mật lái xe đến Huế và cảnh báo cho Trí Quang về vụ hành quân sắp xảy ra. Với yếu tố bất ngờ và khả năng tiến hành cuộc hành quân sẽ tránh không gây thiệt hại nặng khi giao tranh, Lăm đă hủy bỏ kế hoạch.

Vào ngày 7 tháng 6, khi t́nh h́nh hỗn loạn ở Huế tiếp tục, các nhà sư Phật giáo đă đặt bàn thờ làm rào chắn trên các tuyến đường chính tại Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị và Qui Nhơn, đồng thời việc giao thông quân sự và dân sự phải dừng lại. Khi quân đội địa phương từ chối dỡ bỏ các bàn thờ, HĐTL quyết định sử dụng lực lượng của chính phủ.

Ngày 10 tháng 6, Kỳ bắt đầu thiết lập lực lượng cảnh sát chống bạo động đặc biệt dưới quyền của Đại tá Loan đóng quân tại ngoại ô Huế và vào ngày mười lăm, cử một chiến đoàn gồm hai tiểu đoàn Dù và hai tiểu đoàn TQLC dưới quyền của Đại tá Trưởng tiến vào thành phố để đánh trận cuối cùng.

Giao tranh kéo dài ở Huế trong bốn ngày. Phe đối lập vô tổ chức gồm khoảng một ngh́n quân của Sư đoàn 1, phần lớn là binh lính từ các đơn vị yểm trợ. Được bảo vệ bởi lực lượng của Trưởng, công an của Loan đă dỡ bỏ các bàn thờ Phật và bắt giữ hầu hết các thủ lĩnh c̣n lại của Phong trào Đấu tranh, trong đó có Trí Quang (arrested most of the remaining leaders of the Struggle Movement, including Tri Quang). Bộ chỉ huy giao cho Trưởng quyền chỉ huy Sư đoàn 1, và đến cuối tháng 6, cả sư đoàn và Huế đều nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền. Vào ngày 23 tháng 6, quân đội chính phủ và cảnh sát tràn qua Viên Hóa Đạo ở Sài G̣n, tiêu diệt thành tŕ cuối cùng của các nhà lănh đạo Phật giáo, và ngày 9 tháng 7, một ṭa án đặc biệt đă bắt giữ Thi, Đính, Cao, Nhuận và Chuân.




Cuộc nổi dậy ở Quân đoàn I cuối cùng đă kết thúc.


Bên cạnh việc cắt giảm tương đối một chút các hoạt động quân sự, cuộc khủng hoảng c̣n ít ảnh hưởng đến chiến trường. Mặc dù bị bất ngờ trước t́nh h́nh hỗn loạn, nhưng Việt Cộng đă không tận dụng được. Chế độ Thiệu-Kỳ đă thử nghiệm thành công quyền lực của ḿnh đối với các Phật tử và binh sĩ, do đó, dường như đă nâng cao vị thế chính trị của ḿnh. Trong khi chính phủ đồng ư tổ chức bầu cử quốc hội, nhưng chống lại yêu cầu để quốc hội dự kiến thay thế chính phủ Kỳ. Mặt khác, một số chỉ huy giỏi – đặc biệt là Thi và Chuân – đă ra đi, và cách hành xử của Lăm, tân tư lệnh Quân đoàn I, được coi là có ḷng trung thành với chế độ Sài G̣n. Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu vị trí cuối cùng của những người theo đạo Phật với tư cách là một lực lượng chính trị trung gian, khiến người dân Việt Nam có ít sự lựa chọn giữa một bên là các tướng lĩnh Sài G̣n và một bên là Việt Cộng. [1]

✱ CIA: T́nh h́nh tại Miền Nam Việt Nam(16 June – 26 June 1966)

Khả năng kích động đường phố của Phật giáo gần như bị loại bỏ vào tuần trước khi chính phủ Kỳ hoàn thành việc càn quét Huế và các thị trấn lân cận, chuyển các nhà lănh đạo bất đồng chính kiến đến Sài G̣n. Tuy nhiên, các cuộc biểu t́nh rải rác của Phật giáo vẫn tiếp tục, bất chấp sự sụt giảm lớn về ảnh hưởng chính trị của Phật giáo ở miền Trung Việt Nam và sự chia rẽ nghiêm trọng trong giới lănh đạo Phật giáo ở Sài G̣n. Các nhà lănh đạo chính phủ, trong khi kỷ niệm ngày đầu tiên nhậm chức, đang giải quyết những khó khăn của họ với các Phật tử và chuyển sự chú ư của họ sang các vấn đề khác.




Tiến triển tại Quân Đoàn I



Hầu hết các biểu hiện công khai của phong trào “đấu tranh” hiện đă bị loại bỏ ở Huế. Tuy nhiên, sau khi chính phủ “tái quan tâm” thành phố bắt đầu vào ngày 16 tháng 6, các quan sát viên Hoa Kỳ đă báo cáo rằng nhiều hoạt động chính trị, tâm lư và hành chính cần phải được thực hiện ở đó trước khi quyền lực của chính phủ có thể được củng cố. Chính phủ đang có kế hoạch giữ lực lượng cảnh sát tại thành phố khoảng vài tháng, trong khi đó cảnh sát địa phương được tổ chức lại. Một số người bị bắt có thể bị xét xử và kết án v́ các hoạt động chống chính phủ của họ. Một số văn pḥng khu vực của chính phủ hiện ở Huế có thể được chuyển đến Đà Nẵng trong tương lai gần.
Nhà sư Trí Quang được cảnh sát chính quyền chở từ Huế vào Sài G̣n trong tuần. Ông ta được đưa vào một bệnh xá nơi ông ta được cho là sẽ tiếp tục tuyệt thực kể từ ngày 26 tháng 6. Cảnh sát khẳng định rằng Quang không bị bắt, nhưng đă sàng lọc những vị khách đến thăm ông ta. Sau khi tiếp xúc với một số tu sĩ Viện Hóa Đạo trong đó có Tâm Châu, Quang được báo cáo là sẽ duy tŕ thái độ chống đối chính phủ. Tuy nhiên, cơ hội hành động của ông ta dường như khá hạn chế.
Trong một đợt thanh lọc các tướng lănh bất đồng chính kiến, các tướng Đính và Nhuận đă được chính phủ di chuyển từ Huế vào Sài G̣n. Cựu Tư lệnh Quân đoàn I, Tướng Thi cũng được cho là sẽ tự nguyện đến thủ đô sớm. Mặc dù tương lai của những người này và có thể là hai vị tướng khác – Chuân và Cao – vẫn chưa rơ ràng, nhưng một sĩ quan cấp cao của Việt Nam khẳng định rằng họ sẽ bị nghỉ hưu hoặc bị trừng phạt nặng hơn.
Ngoài việc bắt bớ và thuyên chuyển các quan chức dân sự và quân sự tham gia vào phong trào “đấu tranh”, chính phủ c̣n làm giảm ảnh hưởng chính trị của Phật giáo ở miền Trung Việt Nam bằng cách di chuyển lực lượng từ các tỉnh Quảng Trị và B́nh Định đến thủ phủ vào tuần trước để dập tắt những người chống chính phủ. Tuy nhiên, các cuộc tuyệt thực, biểu t́nh lẻ tẻ và một vụ tự thiêu khác đă xảy ra ở các thị trấn khác nhau trong Quân đoàn I và II.



Đột Kích Viện Hóa Đạo Sài G̣n



Sau khi kẻ t́nh nghi giết một cảnh sát trú ẩn trong Viện Hóa Đạo, vào ngày 18 tháng 6, cảnh sát phong tỏa cơ sở, và cuối cùng vào ngày 23 tháng 6 đă đột kích vào Viện. Hầu hết trong số 500 người bị tạm giữ đă được trả tự do trong ngày sau khi kiểm tra giấy tờ tùy thân; một số trai tráng tham gia vào lực lượng vũ trang sẽ bị xét xử sau này về các hoạt động chống chính phủ. Nghi phạm đă bị bắt và được báo cáo đă thú nhận hành vi giết người.
Mặc dù rơ ràng chính phủ đă lên kế hoạch trao lại quyền kiểm soát Viện cho Thượng Tọa Tâm Châu sau khi việc thanh lọc hoàn thành, Châu trong một thông cáo công khai đă lên án cuộc đột kích của chính phủ. Ông cho rằng sự tôn nghiêm của ngôi chùa đă bị xâm phạm và yêu cầu chính phủ chịu trách nhiệm việc duy tŕ các ṭa nhà và khuôn viên của Viện.
Vào ngày 26 tháng 6, một ngôi chùa Phật giáo thứ hai bị công an chính phủ và lực lượng an ninh của QLVNCH đột kích, tịch thu một khẩu súng và 15 thanh niên trong độ tuổi quân dịch bị bắt. Không có nhà sư nào được báo cáo là đă bị ngược đăi và không có phản ứng nào từ các nhà lănh đạo Phật giáo.



Sự Khác Biệt Chính Sách Trong Giới Lănh Đạo Phật Giáo



Sự chỉ trích mạnh mẽ của Tâm Châu sau nhiều ngày mà ông đă cố gắng chấm dứt một lần và măi măi về cuộc đối đầu giữa các Phật tử và chính phủ, bằng cách cam kết ân xá từ chính phủ cho tất cả những người có liên quan đến việc kích động Phật giáo. Tuy nhiên, lời nói của ông có thể chỉ là một động thái nhằm tăng cường sự ủng hộ của ông với các tu sĩ khác trong viện. Châu đă mất quyền kiểm soát của Viện vào tay phe chủ chiến trong tuần trước và dường như ông ta chưa lấy lại được nó.
Bất chấp sự chia rẽ về chính sách hiện nay giữa các nhà lănh đạo Phật giáo và phong trào “đấu tranh” bị dập tắt, ảnh hưởng chính trị của Phật giáo sẽ khó ở mức thấp như hiện nay chừng nào các nhà lănh đạo tầm cỡ như Trí Quang, Tâm Châu, và Thiên Minh vẫn hoạt động. Ngoài ra, sự phẫn nộ kéo dài đối với chính quyền Kỳ ở các thị trấn phía Bắc và sự thiếu hỗ trợ tích cực đối với chính quyền Sài G̣n có thể tạo cơ hội cho việc hoạt động của Phật giáo trong tương lai.



Chính phủ Kỳ chọn ngày 19.6 kỷ niệm 1 năm thành lập UBHPTƯ



Tuyên bố một cách chung chung rằng vấn đề chống chính phủ đă được “giải quyết”, Thủ tướng Kỳ và các nhà lănh đạo chính phủ khác hướng sự chú ư của họ đến lễ kỷ niệm một năm thành lập chính phủ vào ngày 19 tháng 6. Phấn khích nhờ thành công trong việc khắc phục phong trào “đấu tranh”, chính phủ hiện tại có vẻ tương đối thống nhất, mặc dù động lực dẫn đến sự chống lại bởi những người bất đồng chính kiến đến từ một phe tương đối nhỏ nhưng cứng rắn trong các lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, sự lắng dịu trong một khoảng thời gian có thể khơi lại sự chia rẽ giữa các phe nhóm quân sự đă xảy ra trước đây.[2]

✱ CIA: Khác biệt đối xử với Phật Giáo giữa 1963 và 1966

Năm 1963 – Theo bản văn của CIA thực hiện ngày 27.9.1963. Được phép loan tải ngày 6.11.2006, nhưng 10 năm sau, vào ngày 19.12.2016 mới phổ biến trên thư viện online của cơ quan CIA.


Trí Quang, một Phật tử châm ng̣i cho phong trào phản đối của Phật giáo tại Huế vào ngày 8 tháng 5 (sparked the eruption of the Buddhist protest movement in Hué on 8 May), đă thừa nhận khi lánh nạn tại Đại sứ quán Mỹ vào ngày 1 tháng 9 rằng ông đă lên kế hoạch từ lâu cho một chiến dịch như vậy (has admitted since taking refuge in the American Embassy on 1 September that he had long been planning such a campaign). Tuy nhiên, ông đă phủ nhận việc cố t́nh xúi giục vụ bạo động xảy ra vào ngày 8 tháng 5, dẫn đến cái chết của 8 người trong khi lực lượng an ninh nỗ lực giải tán một đám đông.”…”

Cho dù ngay từ đầu hay do sự thất vọng trong chiến dịch, hầu như không có ǵ nghi ngờ rằng Trí Quang và những người khác đă tích cực tổ chức một phong trào để lật đổ chính phủ (There is almost no question that Tri Quang and others were actively organizing – a vehicle to bring about the government’s overthrow) – mặc dù họ dường như không hợp tác với các đối thủ chính trị truyền thống của Diệm.[3]

Năm 1966 – Với trích dẫn trên, vào năm 1963 cho dù “tích cực tổ chức một phong trào để lật đổ chính phủ” phía Mỹ đă CUNG CẤP nơi cư trú cho TT Thích Trí Quang lánh nạn tại sứ quán Mỹ để tránh cuộc bố ráp của chính phủ Đẹ I VNCH. Nhưng 3 năm sau, 1966 phía Mỹ làm ngược lại không hậu thuẫn các đ̣i hỏi của phong trào đấu tranh, CUNG CẤP phương tiện cho chính phủ Đệ II VNCH để chống lại phong trào chống đối của Phật Giáo… Phải chăng Mỹ thay đổi cách đối xử với Phong trào v́ mục tiêu “CHIẾN LƯỢC” của Mỹ?




Mục tiêu CHIẾN LƯỢC của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam do Tướng Westmoreland tiết lộ …


Theo báo Hồn Việt 10.1995 – Tướng Westmoreland đến Nam Cali Năm 1995, và dành cho đài Radio Little Saigon phỏng vấn V/v Tết Mậu Thân 1968 – và v/v tiến quân ra Bắc, do Việt Dũng phỏng vấn tháng 9/1995 và bài phỏng vấn loan trên báo Hồn Việt 10/1995:

Tướng Westmoreland: Chúng tôi đă biết trước cuộc tổng công kích sẽ xảy ra. Và tôi sẽ thú tội với mọi người khi nghĩ lại, là tôi đáng lư ra đă phải loan báo những tin tức này đến mọi người. Và tôi biết rất rơ ràng những chi tiết. Tôi biết biết rơ ràng khi nào họ sẽ tấn công, và tôi cũng có đầy đủ những chi tiết để tiên đoán hậu quả của cuộc tấn công này.

Đây là con đường tiếp tế huyết mạch của miền Bắc vào Miền Nam. Không may cho chúng ta Ông Averell Harriman là một người rất có uy tín trong thời gian đó, và có thời gian từng giữ chức vụ phụ tá Tổng Trưởng Ngoại giao, và là cố vấn của Tổng Thống. Ông Averell rất là cứng rắn khi cho rằng cuộc chiến không được lan rộng ra khỏi lănh thổ miền Nam và điều này đă trở thành chủ trương của Hoa Kỳ trong suốt thời gian tham gia cuộc chiến tại miền Nam, là chúng ta không phát triển cuộc chiến ra ngoài phạm vi lănh thổ này. Chúng tôi đă có những cuộc xâm nhập bí mật vào đường ṃn HCM và tấn công những đơn vị Bắc Việt dùng con đường này để tiếp tế cho Miền Nam, nhưng chúng tôi không bao giờ được quyền đế cắt đứt con đường này dù chúng tôi dư sức làm điều đó, v́ con đường này là mạch sống của địch quân và việc cắt đứt con đường này sẽ giảm thiểu các chiến lược của chúng tôi rất nhiều.


✱ Khác biệt về việc gửi quân Mỹ đến Việt Nam giữa 1963 và 1966

Ngoài khác biệt nêu trên đối với các phe phái, phong trào chống đối, c̣n về việc cho phép quân đội Mỹ đến tham chiến tại Việt Nam cũng có sự khác biệt…




Năm 1961-1963 – Theo NARA – Chính phủ Đê I VNCH từ chối không cho quân đội Mỹ vào tham chiến tại Việt Nam – Theo The Pentagon Papers, được NARA giải mật tài liệu và phổ biến trên Văn Khố Quốc Gia online năm 2011

‣THE KENNEDY PROGRAM AND COMMITMENTS: 1961

Ngày 8-24 tháng 10 năm 1961- Taylor Mission to Vietnam – Vào ngày 18, ông Diệm nói rằng “Tôi không muốn quân đội Mỹ tham gia vào bất kỳ nhiệm vụ nào” (Diem said he wanted no U. S. combat troops for any mission). Anh ta lặp lại yêu cầu kư kết hiệp ước pḥng thủ hỗ tương , muốn Mỹ yểm trợ nhiều hơn cho QLVNCH” , cung cấp thiết bị hỗ trợ cho cuộc chiến (trực thăng, máy bay, v.v.). Theo Văn khố quốc gia NARA, trang 26/197: Pentagon-Papers-Part-IV-B-1.pdf (https://nara-media-001.s3.amazonaws.com/arcmedia/research/pentagon-papers/Pentagon-Papers-Part-IV-B-1.pdf)

‣PHASED WITHDRAWAL OF U.S. FORCES 1962-1964

Ngày 5 tháng 10 1963 – Mcnamara -Taylor met with President and NSC– Tổng thống đă phê duyệt các điều khoản về quân sự do Bộ Trưởng Quốc Pḥng và Chủ Tịch TMLQ … – Bộ Quốc Pḥng thông báo kế hoạch rút 1.000 người vào cuối năm 1963 (announce plans to withdraw 1,000 men by the end of 1963). Theo Văn khố quốc gia NARA, trang 15/65: Pentagon-Papers-Part-IV-B-4.pdf (https://nara-media-001.s3.amazonaws.com/arcmedia/research/pentagon-papers/Pentagon-Papers-Part-IV-B-4.pdf)




Năm 1966 – Chính phủ Đệ II VNCH ” MỜI – invite” Mỹ đem quân đến Việt Nam…


Theo History-com ngày 08.03.1965 : “Vào ngày 08.03.1965 một con số 3.500 lính thủy quân lục chiến đổ bộ vào Đà Nẵng để bảo vệ căn cứ không quân của Hoa Kỳ. Vào ngày 1 tháng 3, Đại sứ Maxwell Taylor đă thông báo cho Thủ tướng Nam Việt Nam Phan Huy Quát rằng Hoa Kỳ đang chuẩn bị gửi Thủy quân lục chiến đến Việt Nam – (had informed South Vietnamese Premier Phan Huy Quat that the United States was preparing to send the Marines to Vietnam). Ba ngày sau, Đại sứ quán Hoa Kỳ gửi văn thư chính thức, yêu cầu chính phủ Nam Việt Nam [B]“mời” Hoa Kỳ gửi Thủy quân lục chiến đến- asking the South Vietnamese government to “invite” the United States to send the Marines. Thủ tướng Quát phải được sự đồng ư của người có thực quyền là Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Thiệu chấp thuận …”.Theo History: U S Marines Land-at-Da-Nang (https://www.history.com/this-day-in-history/u-s-marines-land-at-da-nang)

Phải chăng nhằm hoàn thành mục tiêu chiến lược của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, nên năm 1966 Mỹ cung cấp phương tiện cho chính phủ Đệ II VNCH chống lại Phong trào chống đối ? Và 7 năm sau, vào ngày 20 tháng 1 năm 1973, TT Nixon gửi tối hậu thư buộc tổng thống Thiệu phải kư tắt vào bản Hiệp định Paris vào 12:00 trưa ngày 23.1.1973. (bản chính thức kư ngày 27.1.1973). Vậy mục tiêu CHIẾN LƯỢC của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là ǵ?

Để trả lời cho câu hỏi nêu trên, người viết sẽ dựa vào các tài liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam đă được Văn khố quốc gia giải mật (NARA) thuộc chính phủ Kennedy, chính phủ Nixon, chính phủ Johnson, cộng với tài liệu của cơ quan CIA giải mật và phổ biến từ năm 2015 -2019 liên quan đến cuộc chiến Việt Nam để rộng đường dư luận.


Đào Văn


Nguồn:


[1] History.Army.Mil (http://history.army.mil/) p.127-143/588:Revolt in the I Cords.pdf (https://history.army.mil/html/books/091/91-3/CMH_Pub_91-3-B.pdf)
[2] Thư viện CIA, p.10/52:THE SITUATION IN SOUTH VIETNAM (16 June-26 June 1966).pdf (https://www.cia.gov/readingroom/docs/CIA-RDP79T00827A000300070001-7.pdf)
[3] Thư Viện CIA:THE NATURE OF THE BUDDHIST CONFLICT IN SOUTH VIETNAM.pdf (https://www.cia.gov/readingroom/docs/CIA-RDP79-00927A004200040004-0.pdf)