BigBoy
11-07-2021, 04:06
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2021/06/dai-le-phat-dan-2020.jpg (https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2021/06/dai-le-phat-dan-2020.jpg)
Nhân đọc bài viết về tiểu sử và sự nghiệp hoằng pháp của Tôn Giả Ca Chiên Diên (Maha Katyayana) một trong mười đại đệ tử của Đức Phật nổi tiếng là “biện luận đệ nhất” đăng trên trang mạng Hoằng Pháp Hà Nội tôi không nén được xúc động và không thể không bày tỏ ḷng tôn kính tột độ đối với một vị bồ tát, một đạo sư thật vĩ đại đă đi đúng mạch sống của Phật Giáo, đi đúng giáo lư của Đức Phật và xứng đáng đại diện Phật nói trước đại chúng trong một số pháp hội. Bằng lư luận đanh thép, bằng chứng nghiệm bản thân, Tôn Giả Ca Chiên Diên đă dùng ánh sáng trí tuệ chiếu rọi vào tận cùng của sự vật, những khúc mắc của chuyện đời, cội nguồn khổ đau của nhân thế, đâu là thánh thiện, đâu là bợn nhơ, đâu là đạo giải thoát rốt ráo và đâu là con đường phải theo. Và những điều đó đă thuyết phục và chuyển hóa ḷng người.
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2021/06/dai-le-phat-dan-2020.jpg
Trước đây qua giáo lư của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lư trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xă hội mà không dựa vào Thần Linh. Đây là sự kiện lạ lùng và chấn động v́ khi đó Bà La Môn Giáo đang thời cực thịnh mà Brahma (Thượng Đế) là điểm tựa duy nhất để giải quyết mọi vấn đề. Trong quá tŕnh tu chứng 49 ngày cuối cùng, Đức Phật không dựa vào thần quyền, không cầu nguyện van vái. Mà Ngài đă trải qua những chặng đường chuyển hóa nội tâm “ chứng được quả Túc Mệnh Thông tức thấy rơ tất cả khoảng đời quá khứ của ḿnh trong tam giới. Đến nửa đêm Ngài chứng được quả Thiên Nhăn Minh, thấy được bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó. Đến canh tư Ngài chứng được quả Lậu Tận Minh, rơ biết nguồn gốc của khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử, luân hồi.” (1) Và cuối cùng Ngài vẫn c̣n phải chiến đấu với những níu kéo ghê gớm của Ái – Dục vốn gắn chặt với kiếp người, biểu hiện qua cuộc chiến đấu với Ma Vương.
Trong suốt 45 năm hành đạo, thu nhận, dạy dỗ đệ tử, Đức Phật chỉ nói về những ǵ Ngài trải qua và chứng đắc, không thêm, không bớt và không giữ lại cho ḿnh bất cứ điều ǵ. Giáo pháp của Ngài là một kho tàng tư tưởng nhân bản, lư luận phong phú, dùng ẩn dụ, dùng toán học, khúc triết, có dẫn chứng, có so sánh để khai mở trí tuệ. Ngoài danh hiệu “ Đấng Từ Phụ”, Đức Phật c̣n là một triết gia, một nhà giáo dục, một tâm lư gia vĩ đại mổ xẻ những khúc mắc tâm lư của con người.
Từ những điểm thù thắng và hi hữu nói trên, qua cuộc đời bằng xương bằng thịt của Đức Phật, qua công hạnh và việc hoằng pháp của các đệ tử của Ngài, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của Phật Giáo như sau:
a) Đạo Phật không dựa vào Thần Linh, phép mầu nhiệm để xây dựng nền tảng giáo lư của ḿnh. Đạo Phật trực chỉ nhân tâm, lấy con người làm gốc, lấy sức mạnh của con người – tức bộ óc – tức trí tuệ của con người – để giải quyết những vấn đề của con người. Hạnh phúc do con người kiến tạo. Khổ đau do con người tự gây ra cho nhau và cho chính ḿnh. Khi dùng trí tuệ làm nền tảng th́ ai cũng như ai, mọi người đều b́nh đẳng v́ ai cũng đều có trí tuệ, ai cũng có Phật tánh. Khi dùng Thần Linh làm nền tảng th́ con người trở thành tôi tớ cho Thần Linh. Tầng lớp trung gian với Thần Linh sẽ trở thành Thánh và có quyền sinh sát, có quyền quyết định vận mệnh của con người bởi v́ chỉ có tầng lớp trung gian này mới có khả năng tiếp cận hoặc là đại diện chân chính của Thần Linh mà thôi.
Trước khi gặp Phật, nhờ sự thông thái đặc biệt mà Tôn Giả Ca Chiên Diên đă có thể đọc được tấm bia đá viết bằng cổ ngữ do vua của Thành Ba La Nại đào được mà người đời cho rằng đó là văn tự của Đấng Phạm Thiên (Thượng Đế). Dù đọc được nhưng Tôn Giả không sao t́m ra lời giải đáp. Tấm bia viết như sau:
Vua của các vị vua là ai?
Thánh của các bậc thánh là ai?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là người trí?
Làm sao xa ĺa được dơ bẩn?
Làm sao chứng đạt được niết bàn?
Ai ch́m đắm trong biển sinh tử?
Ai tiêu dao tự tại trong cơi giải thoát?
Dù đă đi vấn hỏi Nhóm Lục Sư là những nhà thông thái nhất lúc bấy giờ, họ cũng không t́m ra lời giải đáp. Cuối cùng, nhớ lời dặn của người cậu là Đạo Sĩ A Tư Đà (Asita) trước khi qua đời, Tôn Giả đă phải tới thỉnh hỏi Đấng Đại Giác và sau đây là giải đáp của Đức Phật:
Vua của các vua là vị thiên vương cung trời thứ sáu.
Thánh của các bậc thánh là đức đại giác Phật Đà.
Để cho vô minh làm ô nhiễm là người ngu.
Có khả năng tiêu diệt mọi phiền năo là người trí.
Dứt bỏ được tham sân si th́ ĺa được dơ bẩn.
Hoàn thành được giới định tuệ th́ chứng niết bàn.
C̣n vướng mắc vào ngă và pháp là c̣n ch́m đắm trong biển sinh tử.
Thấy rơ được pháp tánh duyên khởi th́ tiêu dao tự tại trong cơi giải thoát. (2)
Lời giải đáp không hề dựa vào bóng dáng của thần quyền, không huyền hoặc, hoàn toàn thuần lư, rơ ràng và bày tỏ sự chứng đắc rốt ráo của đấng Đại Giác, khiến cho “những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông từ bấy lâu nay đều bị ánh sáng trí tuệ quét sạch.” (3) Và đây là nguyên do khiến Tôn Giả tới đảnh lễ qui y và trở thành đệ tử của Đức Phật, từ bỏ danh vọng, quyền thế cao tột của ḍng dơi Bà La Môn.
b) Đạo Phật không dựa vào những thiên tai dịch họa như núi lửa, động đất, sóng thần, hạn hán, lụt lội, bệnh tật hoặc những tai họa do chính con người gây ra như chiến tranh v.v…để minh chứng cho sự hiện hữu của Thần Linh để rồi từ đó hù dọa, khuyến dụ con người tôn thờ Thần Linh và đi theo đạo tôn thờ Thần Linh. Đạo Phật đi lên từ những khổ đau của con người trong đó thiên tai, dịch họa chỉ là một trong những khổ đau của con người. Chính bản thân Đức Phật khi c̣n là thái tử đă phải đối đầu với những khổ đau như Sinh, Lăo, Bệnh, Tử mà giáo lư của thần giáo đương thời, thậm chí thân phụ ngài, dù là một quốc vương cũng không sao giải quyết được. Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc ra đi không phải đi t́m thiên đàng, không phải để tu luyện phép mầu mà chỉ để giải quyết những khổ đau của chính ḿnh và của nhân thế. Do đó Đạo Phật là đạo diệt khổ. Khổ Đế là khởi nguyên của Đạo Phật. Cứu cánh của Phật Giáo là giải thoát khỏi khổ đau, giải thoát khỏi sự thống ngự của thần quyền, giải thóat khỏi Tham-Sân-Si là nguyên do của bao thảm họa xảy ra trên cơi đời này. Dĩ nhiên khi đă diệt hết khổ th́ chúng ta hạnh phúc. Niết Bàn chỉ là trạng thái mà con người đă xa ĺa tất cả các phiền năo chứ không phải là cuộc sống ở một cung trời nào đó. Do đó, trong Đạo Phật, bất cứ ai tự xưng ḿnh là thánh thần mà c̣n nhăn nhó, khổ đau, van nài, kêu cứu…th́ đó là chỉ là phàm phu chứ không phải thánh thần. V́ không tôn thờ Thần Linh, không tôn thờ Tự Ngă cho nên cứu cánh của Phật Giáo không phải là sự thờ phượng. Nếu chúng ta có thờ Phật cũng chỉ để tôn thờ một bậc thầy vĩ đại để từ đó đi theo giáo lư của Phật, để được hạnh phúc như chính Phật. Truyện về quăng đời hoằng pháp của Ngài Ca Chiên Diên kể rằng: (4)
“Một lần nọ, khi Đức Phật trở về quê hương Ca Tỳ La Vệ để giáo hóa. Trong số tăng chúng đi theo có Tôn Giả Ca Chiên Diên. Phật và đại chúng tạm trú tại thôn Hạ Lỵ. Trong thời gian lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một vị trưởng giả lâm trọng bệnh. Ca Chiên Diên muốn đích thân đến dùng Phật pháp để tiêu trừ bệnh khổ cho ông ta.
Tôn Giả đến trong lúc vị trưởng giả đang nằm trên giường bệnh. Tôn Giả hỏi thăm:
– Thưa trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói trưởng giả không được khỏe nên sai tôi đến thăm. Chẳng hay trưởng giả đă cho mời thầy thuốc đến chữa trị chưa?
Vị trưởng rất cảm động trả lời:
– Con xin cám ơn Đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh của con đă đến lúc quá nặng rồi, không c̣n hi vọng ǵ chữa được. Rất nhiều thầy thuốc đều đă bảo như vậy.
– Vậy xin trưởng giả hăy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong nhờ uy đức lớn lao của Tam Bảo mà tâm ư của trưởng giả được thanh tịnh, rồi bịnh sẽ thuyên giảm.
– Thưa đại đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng được hộ tŕ Tam Bảo để đam lại lợi lạc cho nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam Bảo những ǵ ḿnh có chứ đâu dám yêu cầu này nọ nơi Tam Bảo!
– Trưởng giả nói rất đúng! Cơi thế gian là vô thường, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta được thường trú măi măi. Thân thể phải bị bịnh tật, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. Người có đức tin vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân để xây dựng cuộc sống chung. Bịnh hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hăy biết tự lo lấy chứ đâu có dám làm phiền đến Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả, sức người th́ có giới hạn mà ánh từ quang của Tam Bảo th́ trải khắp mọi nơi, nếu chúng ta thành tâm cần cầu th́ ánh từ quang ấy sẽ rọi chiếu đến.
Nghe lời khuyên của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên niệm Tam Bảo. Ông cảm thấy thân tâm dần dần trở nên an lạc và bệnh t́nh cũng ngày càng thuyên giảm.”
Lời khuyên của Tôn Giả thật nhân bản, hợp t́nh, hợp lư. Dĩ nhiên Tam Bảo không thể chữa lành bệnh cho ai. Ai nói rằng Phật Pháp Tăng có thể chữa lành bệnh cho tất cả mọi người th́ đó là sự lừa mị. Thế nhưng nếu chúng ta chú tâm nhiếp niệm Tam Bảo th́ thân tâm chúng ta thanh tịnh, nghị lực tăng trưởng. Có thể v́ thế mà chúng ta lướt qua được bệnh tật. Đó cũng là phương pháp tâm lư trị liệu của thời đại ngày hôm nay.
c) Đạo Phật không dùng t́nh cảm để thuyết phục ai. V́ Đạo Phật nhằm khai mở trí tuệ cho con người cho nên Đạo Phật không lợi dụng t́nh cảm yếu đuối, không lợi dụng những hoàn cảnh khốn khó của người để truyền đạo. Đạo Phật luôn luôn đến với con người khi con người sáng suốt nhất. Đạo Phật là sự bừng nở hoa tâm, giă từ sự ích kỷ, giă từ gian tham, giă từ tật đố, giă từ bóng tối, giă từ kiêu mạn, giă từ cái hữu hạn để t́m về nơi vô hạn. Do đó có thể nói “Nếu bạn mở cánh cửa Trí Tuệ ra, bạn sẽ thấy Đạo Phật. Nếu bạn khép cánh cửa Trí Tuệ lại, bạn sẽ không thấy Đạo Phật.” Đạo Phật không dùng ơn nghĩa để truyền đạo. Trong khi người ta đói khát ḿnh cho người ta một bát cơm đó là cử chỉ đẹp, nhưng lợi dụng bát cơm đó để dụ người ta vào đạo là một hành vi cưỡng ép và ngay trong cử chỉ “cho” đó đó đă ngầm chứa một âm mưu, một thủ đoạn bất chính. Đạo Phật là đạo “phá tà hiển chính”. Chúng ta có thể cam đoan rằng không một tu sĩ Phật Giáo nào có can đảm làm thế. Nếu họ làm thế th́ họ là tín đồ của “Ma Giáo” chứ không phải Phật Giáo và họ nên cửi áo của Như Lai để đi theo một tôn giáo khác. Chúng ta hăy xem Tôn Giả Ca Chiên Diên hóa độ một người đàn bà nô lệ bất hạnh:
“Một hôm, sau khi hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường trở về Tịnh Xá Kỳ Viên ở Thành Xá Vệ. Giữa đường, tôn giả trông thấy một thiếu phụ ôm một ṿ nước, ngồi khóc lóc thảm thiết bên bờ sông, t́nh cảnh có vẻ rất thương tâm. Sợ người thiếu phụ v́ quá thất ư mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn giả vội vàng đến hỏi thăm:
– Thưa bà! Có chuyện ǵ làm bà đau khổ đến nỗi khóc lóc thảm năo như vậy?
Nghe có người hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:
– Thôi ông hỏi han làm ǵ, dù có nói cũng vô ích thôi!
– Thưa bà! Xin bà cứ nói! Tôi là đệ tử của đức Phật. Tôi có thể giúp bà giải quyết được bất cứ vấn đề khó khăn nào.
– Ông không có cách nào giúp tôi đâu! Ông thấy không? Trên thế gian đầy dẫy những hoàn cảnh không b́nh đẳng, người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời một vực! Tôi là một kẻ nghèo mạt rệp, suốt đời chịu khổ, và cũng v́ cái nghèo đă đem đến cho tôi quá nhiều đau khổ nên hiện giờ tôi không c̣n muốn sống làm ǵ trên cơi đời này nữa!
Nói xong mấy lời ấy th́ thiếu phụ vật vă lăn lộn như có ư muốn liều ḿnh. Tôn giả hoảng hốt, vội nhanh chân đứng chận trước mặt thiếu phụ, rồi thương xót an ủi:
– Thưa bà! Xin bà đừng quá thất vọng như vậy! Bà hăy b́nh tâm nh́n lại thử xem, trên đời này người nghèo nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một ḿnh bà! Lại nữa, người nghèo không hẳn là bất hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh phúc. Bà thấy không! Có những người giàu có, nhà cao cửa rộng, ruộng đất thênh thang, kẻ ăn người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày cứ bị các tính xấu như tham lam, sân hận, ganh ghét giày ṿ, đó mới là đau khổ, đó mới là bất hạnh. Cho nên làm người, chỉ cần có được cuộc sống b́nh an là tốt nhất, c̣n cái nghèo đâu đáng để cho ta đau buồn!'
– Bởi v́ ông là một vị sa môn nên cứ dửng dưng với sự thế, chứ kẻ tục như tôi th́ đâu được như vậy. Ông biết không? Tôi nguyên là kẻ nô lệ của một nhà đại phú hào ở vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô dịch cho người, không có một chút th́ giờ rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại c̣n bị người chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng chửi đánh đập, khiến cho bọn tôi tớ chúng tôi, muốn sống cũng không được mà muốn chết cũng không xong! Tôi nghĩ, sở dĩ tôi bị hành hạ như vậy là chỉ v́ cái nghèo mà ra, sao ông lại bảo cái nghèo không đáng để làm cho người ta đau khổ?
– Thôi th́ cứ cho là bà có lư, nhưng dù sao th́ tôi cũng khuyên bà đừng đau buồn nữa. Tôi sẽ chỉ cho bà cách thức chẳng những thoát được cái nghèo mà c̣n phát tài nữa.
Nghe vậy, thiếu phụ lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:
– Cách ǵ, thưa đại đức?
– Giản dị lắm! Bà đă bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem cái nghèo ấy bán cho người khác đi?
– Đại đức nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán được th́ hóa ra trên đời này chẳng c̣n ai nghèo cả? Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái nghèo!
– Tôi chịu mua, bà hăy bán cho tôi đi!
– Cái nghèo lại có thể bán được, và cũng có người như đại đức chịu mua, nhưng rất tiếc là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!
– Bằng cách bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo của mọi người đều có nguyên nhân. Sở dĩ người ta nghèo là v́ kiếp trước người ta tham lam keo kiệt, không biết bố thí và tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là v́ kiếp trước người ta biết bố thí và tu phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách tốt nhất để bán nghèo mua giàu.
Nghe mấy lời khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng cảm thấy như tâm trí ḿnh vừa được khai sáng, dù vậy, bà vẫn c̣n có điều thắc mắc:
– Thưa đại đức! Bây giờ th́ con thấy tâm trí con đă được sáng tỏ. Con hiểu được lời dạy của đại đức rồi, nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ vật ǵ gọi là của riêng; ngay cả cái ṿ nước này cũng là của người chủ tham lam độc ác ấy, con đâu biết lấy ǵ để cúng dường cho đại đức!
Ca Chiên Diên đưa cái b́nh bát của ḿnh ra trước mặt thiếu phụ:
– Không nhất thiết phải có tiền bạc hay của cải mới bố thí được. Mỗi khi thấy người khác bố thí mà ḿnh khởi niệm hoan hỷ, đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà có thể trút nước trong cái ṿ bà đang có sang b́nh bát này cho tôi. Thế tức là bà bố thí cho tôi đó!
Tới đây th́ thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà nguyện luôn luôn y theo lời dạy của tôn giả mà thực hành, và không c̣n thấy bị đau khổ v́ cảnh nghèo nữa.” (5)
Thưa quư vị, làm sao một vị sa môn đi chân đất, ôm b́nh bát khất thực, dù trí tuệ siêu việt như thế nào đi nữa, lại có thể chuyển hóa một cấu trúc xă hội bất công chằng chịt từ trên xuống dưới trùm phủ cả ngàn năm rồi? Và người đàn bàn bất hạnh này chỉ là nạn nhân của cấu trúc xă hội bất công đó. Nhưng chẳng lẽ thấy chết, thấy người ta khổ mà không cứu? Nhưng cứu làm sao đây? Do sự linh hoạt và minh mẫn khác thường, Tôn Giả đă nảy ra ư nghĩ “mua nghèo” tức rước lấy cái nghèo cho người đàn bà bất hạnh. Có thể đề nghị này đă làm cho người đàn bà ph́ cười. Nhưng cũng nhờ cái tức cười đó mà tâm trí bà bừng sáng, như nở tâm hoa và một thứ ánh sáng chiếu rọi vào đầu óc và chuyển hóa tâm thức. Bà không c̣n cảm thấy nghèo hèn và khốn khổ nữa: Một chuyển hóa tâm thức trong ḥa b́nh, không làm khổ ḿnh và khổ người, không cần sự trợ lực hay quyền phép của thần linh.
d) Đạo Phật không dùng quyền lợi vật chất trước mắt, cũng như ảo tưởng về một cuộc sống bất tử để dụ dỗ con người. Những người đi theo Phật đều vứt bỏ quyền lợi, danh vọng tột đỉnh của thế gian như bao bậc vua chúa, đại thần, tỉ phú, những nhà tiên tri, các vị Bà-la-môn tăm tiếng thời Đức Phật c̣n tại thế. Theo Phật hay theo Đạo Phật không phải để được thăng quan tiến chức, đặc quyền đặc lợi kinh tế, ăn trên ngồi trước, hoặc là cái mộc che, cái vỏ đạo đức để vênh vang trong xă hội. Đạo Phật lại càng không phải là cái “mode”hay phong trào để theo. Mode hay phong trào giống như kiểu cọ đầu tóc, quần áo, vẽ môi vẽ mắt ồn ào đó rồi quăng bỏ đó. Theo Phật hay theo Đạo Phật là mong muốn trở thành Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, bơi lội trong biển Trí Tuệ, tắm mát trong suối Từ Bi và rong chơi trong vườn Giải Thoát, là người nhưng biết thương người và b́nh đẳng với muôn loài. Đạo Phật là như thế đó.
e) Đạo Phật không dựa vào lời sấm truyền, huyền thoại, lời tiên tri để xây dựng giáo lư của ḿnh. Trong suốt cuộc đời hành đạo, Đức Phật không hề để lại một lời tiên tri, phỏng đoán nào về vận mệnh của con người và trái đất…mà Đức Phật chỉ nói về nhân duyên và pháp vô thường của vạn hữu, thể hiện qua bốn giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Diệt mà ai cũng có thể chứng ngộ và thấy được qua bao ngàn năm. Tương lai của trái đất tốt xấu thế nào xin để cho các khoa học gia, các nhà bác học cho ư kiến. Mới đây Stephen Hawking – lư thuyết gia lừng danh về vật lư của Anh đă tuyên bố trong cuốn sách mới của ông là Thượng Đế không sáng tạo ra vũ trụ mà “Sự Nổ Lớn” (Big Bang) là hậu quả tất yếu của định luật vật lư. Nếu năm xưa Đức Phật nói rằng vũ trụ này do Thượng Đế (Brahma) tạo lập, ngày nay chắc chắn giáo lư của Đức Phật bị suy giảm nghiêm trọng.
g) Đạo Phật không dùng bạo lực, giết hại, kỳ thị để ép buộc con người đi theo. Khi tôn thờ Thần Linh th́ có yêu ghét, cao thấp, sang hèn, đúng sai, phẫn nộ, trừng phạt…do đó có đe dọa, ra oai, trả thù, đàn áp, giết hại. Khi dùng trí tuệ chiếu vào th́ vạn pháp “ bất bần bất phú, bất cao bất đê, bất phàm bất thánh, bất ái bất ố, bất tịnh bất cấu, bất tăng bất giảm..” khiến Trí Tuệ lắng yên và Tâm Đại Bi hiển lộ. Chúng ta hăy đọc một giai thoại hoằng pháp của Tôn Giả Ca Chiên Diên:
“Một lần nọ, khi đức Phật ngự tại Tịnh Xá Kỳ Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đă một ḿnh vượt rừng rậm đi về hướng Tây, đến du hóa ở Vương Quốc Ma Du La. Khi đến nơi, trước hết tôn giả t́m hiểu dân t́nh và học hỏi phong tục, tập quán cùng cách thức sinh hoạt của dân địa phương. Sau đó tôn giả mới t́m vào kinh thành để yết kiến quốc vương. Trông thấy tôn giả, quốc vương hỏi:
– Đại đức! Trẫm nghe nói đại đức vốn thuộc ḍng giống Bà La Môn cao quí, nhưng lại đi qui y làm đồ đệ của Sa Môn Cồ Đàm vốn thuộc ḍng giống Sát Đế Lợi; như vậy chẳng hóa ra là đại đức đă tự hạ thấp ḿnh quá sao?
– Thưa đại vương! Làm đệ tử Phật, chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ thấp ḿnh, trái lại đó là điều vinh quang cùng tột của đời tôi.
– Lạ lùng thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra từ miệng Phạm Thiên của ḿnh để làm đệ tử của ông Phật ḍng Sát Đế Lợi th́ có ai mà hiểu nổi!
Dù vị quốc vương tỏ rơ thái độ kinh rẻ như vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm khó chịu, vẫn ôn ḥa đáp lại:
– Thưa đại vương! Trước đây, khi c̣n là một đạo sĩ Bà La Môn, tôi cũng đă từng có cái nh́n giống hệt như đại vương vậy, nhưng từ khi nghe được những lời chỉ dạy của Đức Phật, tôi mới biết là ḿnh đă có những nhận thức đầy sai lầm. Xă hội phân ra có bốn giai cấp khác nhau chẳng qua là v́ có các chứng nghiệp khác nhau, đại khái như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công nông v.v… Đó chỉ là vấn đề phân công làm việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y cứ vào đó để lập thành các giai cấp cao thấp, phân chia chủng tộc sang hèn th́ hoàn toàn là những lợi dụng vô lư và phi pháp. Bất cứ ở giới nào cũng có người tốt kẻ xấu. Ngày nay, ngay trong ḍng Bà La Môn cũng đầy dẫy những phần tử làm nhiều việc xấu xa như tà dâm, giết người, và hầu hết đều là những người bảo thủ, tà kiến. Vậy có thể bảo đó là những người tôn quí bậc nhất hay sao. Bởi thế, sự tôn quí hay thấp hèn của con người không phải do chủng tộc hay giai cấp cao thấp sinh ra. Bất luận là ở chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có công phu tu học, có giác ngộ và chứng quả th́ đều là người trong sạch, cao thượng, đáng tôn quí.
Quốc vương nghe xong mấy lời này th́ bừng tỉnh ngộ, tự nói với ḿnh: “Đúng rồi, ta thật quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ trước đến giờ chỉ dành để giam cầm hạng Thủ Đà La, c̣n hạng Bà La Môn phạm tội th́ không hề hấn ǵ cả. Thật chẳng lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân chúng!”
Ḷng hối cải đă lộ rơ trên nét mặt quốc vương. Thấy thế, tôn giả thuyết phục thêm:
– Thưa đại vương! V́ vậy mà đại vương nên tin phụng và thực hành chánh pháp. Phật là bậc đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời. Chúng ta qui y làm đệ tử của Người để t́m thấy con đường tự do giải thoát. Đó là hạnh phúc và vinh quang tột của đời chúng ta.” (6)
Sáng suốt và linh hoạt thay lời giải đáp của Tôn Giả Ca Chiên Diên. Chính sự phân tích có tính khách quan và hợp lư đó đă đem lại công lư, b́nh đẳng cho Vương Quốc Ma Du La và xác định rơ một khuôn thước thẩm định giá trị của con người qua phẩm hạnh đạo đức, qua những ǵ tốt lành cống hiến cho đời…vẫn c̣n xác quyết cho tới ngày hôm nay.
h) Theo Đạo Phật, tôn giáo là nhằm giải thóat tâm linh cho con người, san bằng bất công xă hội, giải trừ giai cấp. Tôn giáo không phải là một nghề nghiệp sinh sống, không phải là một chức vụ để trả lương, không phải là một vị thế để hưởng thụ. Tu sĩ phải là biểu tượng sống động của giáo lư cao thượng. Tu sĩ không phải là một đẳng cấp siêu vượt trong xă hội. Tu sĩ phạm giới ngoại trừ sự trừng phạt của giáo đoàn (nay là giáo hội), nếu phạm tội, phải chịu sự chi phối của luật pháp không một miễn trừ nào. Nếu người đời xâm phạm tiết hạnh, hăm hiếp phụ nữ trẻ em, bị trừng phạt như thế nào th́ tu sĩ cũng bị trừng phạt như thế. Sở dĩ tu sĩ được cúng dường và kính trọng là v́ phẩm hạnh chứ không phải v́ địa vị, phẩm trật trong giáo hội. Tu sĩ chân chính không thể cười nói nhởn nhơ, ăn mặc diêm dúa, nhảy múa, hớn hở bên rượu thịt…bởi v́ những cái đó thuộc về thế tục, không phải thánh đạo để mọi người sùng bái, quỳ lạy, dựng tháp miếu để kính ngưỡng. Chúng ta hăy nghe một đoạn đối đáp của Tôn Giả Ca Chiên Diên với người bạn Lỗ Ê Giá – một trưởng giả của ḍng Bà La Môn:
“Này người bạn hiền, xin hăy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và sự tu hành của chúng ta là nhằm mục đích giải thoát khỏi ṿng sinh tử, để cho cuộc sống đạt được an lạc, tự tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ nghề nghiệp để sinh sống. Hiện nay, những tu sĩ Bà La Môn ĺa bỏ gia đ́nh để sống theo nếp sống phạm hạnh của người tu hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần đông họ đều chỉ có cái h́nh tướng trá ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho người giống như việc kinh doanh để sinh nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành đoạt lợi, cốt thỏa măn cái tư dục của ḿnh; thật là đáng buồn! Tu sĩ Bà La Môn ngày nay đều lo t́m những thứ ǵ ở ngoài Tâm, cũng chẳng phải mong cầu phước báo ở cơi Trời hay cơi Người, mà chỉ toàn nói hươu nói vượn về những hiện tượng này nọ của vũ trụ, nào có mấy người biết chính ḿnh là ai! “ (7)
i) Sau hết, Đạo Phật là đạo duy nhất hoan nghênh mọi sự cật vấn, tranh luận mà không sợ bị sa hỏa ngục hay can tội “phạm thánh”. Phạm trù của lư trí là phạm trù cần tranh luận, bàn căi cho ra lẽ. Nếu vấn đề đă thuộc về lư trí th́ con người có thể hội, có thể hiểu và lư giải được. Phạm trù của lư trí không có ngằn mé, không cấm kỵ, không biên giới, không phân biệt tuổi tác, vị thế, màu da, chủng tộc. Chính v́ tôn trọng trí tuệ cho nên một trong ba lời nguyện mà chư tăng/ni và Phật tử đọc tụng hằng ngày có câu:
Tự quy ư Pháp
Đương nguyện chúng sinh
Thấu rơ kinh tạng
Trí tuệ như biển
Như vậy theo tinh thần của Phật Giáo, đọc tụng, nghiên cứu kinh điển là để mở mang trí tuệ rộng lớn như biển cả, chứ kinh điển Phật Giáo không phải là một thứ bùa mê làm lu mờ trí tuệ, lú lẫn con người.
C̣n phạm trù thần linh th́ không có tranh luận, lư giải mà chỉ là sự tuân phục và tin theo – dù rất phi lư và phi trí tuệ. Hễ không tin th́ phải sa hỏa ngục. Trong Đạo Phật, không hề có lời hăm dọa nào buộc tín đồ phải tuân theo lời Phật dạy. Lời Phật dạy giống như một viên thuốc trị bệnh, không uống th́ không hết bệnh, chỉ có thế. Đức Phật luôn luôn nhắn nhủ hàng đệ tử cùng ngoại đạo đến vấn hỏi là phải suy nghĩ cho thật kỹ những ǵ Phật nói. Nếu những điều đó tốt lành cho ḿnh, cho người th́ mới tuân theo chứ đừng vội tin một cách mù quáng. Trong những giờ phút cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt tại rừng Sa La Song Thụ, dù sức khỏe của Ngài rất suy yếu nhưng Ngài vẫn dành nhưng giây phút cuối để cho các hàng đệ tử thưa thỉnh nhiều vấn đề chưa hiểu rơ hoặc c̣n hồ nghi. Thậm chí có rất nhiều vị bồ tát đă vặn hỏi, cật vấn, đặt ngược vấn đề với Phật mà Phật vẫn vui vẻ giải đáp thỏa đáng. Hăy cứ xem Kinh Đại Bát Niết Bàn th́ rơ.
Từ những nhận định trên chúng ta có thể kết luận rằng Đạo Phật được xây dựng trên nền tảng Trí Tuệ và Phật Giáo là đạo của Trí Tuệ. Cũng giống như Mặt Trời chính là ánh sáng. Nền tảng Trí Tuệ chính là sinh mệnh của Phật Giáo. Khi Mặt Trời tắt th́ ánh sánh không c̣n. Xa ĺa trí tuệ, bám víu vào hiện tượng trăng sao, mưa gió của trời đất, khấn nguyện phép mầu, van vái Thần Linh, mê hoặc bởi những lời sấm truyền vu vơ…hướng ngoại mà không hướng nội… là giết chết Phật Giáo trên tự thân của nó. Thế nhưng nói Trí Tuệ th́ phải hiểu đó là Trí Tuệ Rốt Ráo, Trí Tuệ Bát Nhă, Trí Vô Sai Biệt hay Đại Viên Cảnh Trí. Khi đạt tới loại Trí Tuệ này rồi th́ Tâm Đại Bi hiển lộ. Trong Đạo Phật, Trí Tuệ và Từ Bi như h́nh với bóng. Bi là Trí mà Trí cũng là Bi. Mất Trí Tuệ th́ mất Đại Bi. Mất Đại Bi th́ cũng mất Trí Tuệ.
Vậy th́ bạn ơi,
Hăy tôn thờ trí tuệ của con người
Nó như ngọn đuốc soi đường
Nó như b́nh minh trong đêm tối
Nó là nền ḥa b́nh trong tương lai của nhân loại
Nó là nơi mà chúng ta có thể kết t́nh huynh đệ
Vậy hăy tin nơi sáng suốt của chính ḿnh
Sự sáng suốt do nhận thức những ǵ chung quanh ta
Do cuộc sống này nảy sinh
Do kinh nghiệm học hỏi từ quá khứ
Từ những bậc thày giác ngộ (8)
Đừng tin những ǵ ở thần quyền
Qua sự diễn dịch của tầng lớp trung gian
Đừng tin những ǵ nơi thần linh, ma quỷ
Đừng vội tin những ǵ người ta nói
Đừng vội tin những lời truyền tụng vu vơ.
Đào Văn B́nh
(Trích Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh xb năm 2017 do Amazon phát hành)
(1) Phật Học Phổ Thông
(2), (3),(4), (5),(6) &(7) Bài “Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật” đăng trên mạng lưới Hoằng Pháp
(8) Đức Phật là một vị đă giác ngộ và sau này tất cả những ai liễu ngộ được chân lư của Đức Phật và tin theo cũng đều là các bậc giác ngộ
Nhân đọc bài viết về tiểu sử và sự nghiệp hoằng pháp của Tôn Giả Ca Chiên Diên (Maha Katyayana) một trong mười đại đệ tử của Đức Phật nổi tiếng là “biện luận đệ nhất” đăng trên trang mạng Hoằng Pháp Hà Nội tôi không nén được xúc động và không thể không bày tỏ ḷng tôn kính tột độ đối với một vị bồ tát, một đạo sư thật vĩ đại đă đi đúng mạch sống của Phật Giáo, đi đúng giáo lư của Đức Phật và xứng đáng đại diện Phật nói trước đại chúng trong một số pháp hội. Bằng lư luận đanh thép, bằng chứng nghiệm bản thân, Tôn Giả Ca Chiên Diên đă dùng ánh sáng trí tuệ chiếu rọi vào tận cùng của sự vật, những khúc mắc của chuyện đời, cội nguồn khổ đau của nhân thế, đâu là thánh thiện, đâu là bợn nhơ, đâu là đạo giải thoát rốt ráo và đâu là con đường phải theo. Và những điều đó đă thuyết phục và chuyển hóa ḷng người.
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2021/06/dai-le-phat-dan-2020.jpg
Trước đây qua giáo lư của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lư trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xă hội mà không dựa vào Thần Linh. Đây là sự kiện lạ lùng và chấn động v́ khi đó Bà La Môn Giáo đang thời cực thịnh mà Brahma (Thượng Đế) là điểm tựa duy nhất để giải quyết mọi vấn đề. Trong quá tŕnh tu chứng 49 ngày cuối cùng, Đức Phật không dựa vào thần quyền, không cầu nguyện van vái. Mà Ngài đă trải qua những chặng đường chuyển hóa nội tâm “ chứng được quả Túc Mệnh Thông tức thấy rơ tất cả khoảng đời quá khứ của ḿnh trong tam giới. Đến nửa đêm Ngài chứng được quả Thiên Nhăn Minh, thấy được bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó. Đến canh tư Ngài chứng được quả Lậu Tận Minh, rơ biết nguồn gốc của khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử, luân hồi.” (1) Và cuối cùng Ngài vẫn c̣n phải chiến đấu với những níu kéo ghê gớm của Ái – Dục vốn gắn chặt với kiếp người, biểu hiện qua cuộc chiến đấu với Ma Vương.
Trong suốt 45 năm hành đạo, thu nhận, dạy dỗ đệ tử, Đức Phật chỉ nói về những ǵ Ngài trải qua và chứng đắc, không thêm, không bớt và không giữ lại cho ḿnh bất cứ điều ǵ. Giáo pháp của Ngài là một kho tàng tư tưởng nhân bản, lư luận phong phú, dùng ẩn dụ, dùng toán học, khúc triết, có dẫn chứng, có so sánh để khai mở trí tuệ. Ngoài danh hiệu “ Đấng Từ Phụ”, Đức Phật c̣n là một triết gia, một nhà giáo dục, một tâm lư gia vĩ đại mổ xẻ những khúc mắc tâm lư của con người.
Từ những điểm thù thắng và hi hữu nói trên, qua cuộc đời bằng xương bằng thịt của Đức Phật, qua công hạnh và việc hoằng pháp của các đệ tử của Ngài, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của Phật Giáo như sau:
a) Đạo Phật không dựa vào Thần Linh, phép mầu nhiệm để xây dựng nền tảng giáo lư của ḿnh. Đạo Phật trực chỉ nhân tâm, lấy con người làm gốc, lấy sức mạnh của con người – tức bộ óc – tức trí tuệ của con người – để giải quyết những vấn đề của con người. Hạnh phúc do con người kiến tạo. Khổ đau do con người tự gây ra cho nhau và cho chính ḿnh. Khi dùng trí tuệ làm nền tảng th́ ai cũng như ai, mọi người đều b́nh đẳng v́ ai cũng đều có trí tuệ, ai cũng có Phật tánh. Khi dùng Thần Linh làm nền tảng th́ con người trở thành tôi tớ cho Thần Linh. Tầng lớp trung gian với Thần Linh sẽ trở thành Thánh và có quyền sinh sát, có quyền quyết định vận mệnh của con người bởi v́ chỉ có tầng lớp trung gian này mới có khả năng tiếp cận hoặc là đại diện chân chính của Thần Linh mà thôi.
Trước khi gặp Phật, nhờ sự thông thái đặc biệt mà Tôn Giả Ca Chiên Diên đă có thể đọc được tấm bia đá viết bằng cổ ngữ do vua của Thành Ba La Nại đào được mà người đời cho rằng đó là văn tự của Đấng Phạm Thiên (Thượng Đế). Dù đọc được nhưng Tôn Giả không sao t́m ra lời giải đáp. Tấm bia viết như sau:
Vua của các vị vua là ai?
Thánh của các bậc thánh là ai?
Thế nào là người ngu?
Thế nào là người trí?
Làm sao xa ĺa được dơ bẩn?
Làm sao chứng đạt được niết bàn?
Ai ch́m đắm trong biển sinh tử?
Ai tiêu dao tự tại trong cơi giải thoát?
Dù đă đi vấn hỏi Nhóm Lục Sư là những nhà thông thái nhất lúc bấy giờ, họ cũng không t́m ra lời giải đáp. Cuối cùng, nhớ lời dặn của người cậu là Đạo Sĩ A Tư Đà (Asita) trước khi qua đời, Tôn Giả đă phải tới thỉnh hỏi Đấng Đại Giác và sau đây là giải đáp của Đức Phật:
Vua của các vua là vị thiên vương cung trời thứ sáu.
Thánh của các bậc thánh là đức đại giác Phật Đà.
Để cho vô minh làm ô nhiễm là người ngu.
Có khả năng tiêu diệt mọi phiền năo là người trí.
Dứt bỏ được tham sân si th́ ĺa được dơ bẩn.
Hoàn thành được giới định tuệ th́ chứng niết bàn.
C̣n vướng mắc vào ngă và pháp là c̣n ch́m đắm trong biển sinh tử.
Thấy rơ được pháp tánh duyên khởi th́ tiêu dao tự tại trong cơi giải thoát. (2)
Lời giải đáp không hề dựa vào bóng dáng của thần quyền, không huyền hoặc, hoàn toàn thuần lư, rơ ràng và bày tỏ sự chứng đắc rốt ráo của đấng Đại Giác, khiến cho “những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông từ bấy lâu nay đều bị ánh sáng trí tuệ quét sạch.” (3) Và đây là nguyên do khiến Tôn Giả tới đảnh lễ qui y và trở thành đệ tử của Đức Phật, từ bỏ danh vọng, quyền thế cao tột của ḍng dơi Bà La Môn.
b) Đạo Phật không dựa vào những thiên tai dịch họa như núi lửa, động đất, sóng thần, hạn hán, lụt lội, bệnh tật hoặc những tai họa do chính con người gây ra như chiến tranh v.v…để minh chứng cho sự hiện hữu của Thần Linh để rồi từ đó hù dọa, khuyến dụ con người tôn thờ Thần Linh và đi theo đạo tôn thờ Thần Linh. Đạo Phật đi lên từ những khổ đau của con người trong đó thiên tai, dịch họa chỉ là một trong những khổ đau của con người. Chính bản thân Đức Phật khi c̣n là thái tử đă phải đối đầu với những khổ đau như Sinh, Lăo, Bệnh, Tử mà giáo lư của thần giáo đương thời, thậm chí thân phụ ngài, dù là một quốc vương cũng không sao giải quyết được. Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc ra đi không phải đi t́m thiên đàng, không phải để tu luyện phép mầu mà chỉ để giải quyết những khổ đau của chính ḿnh và của nhân thế. Do đó Đạo Phật là đạo diệt khổ. Khổ Đế là khởi nguyên của Đạo Phật. Cứu cánh của Phật Giáo là giải thoát khỏi khổ đau, giải thoát khỏi sự thống ngự của thần quyền, giải thóat khỏi Tham-Sân-Si là nguyên do của bao thảm họa xảy ra trên cơi đời này. Dĩ nhiên khi đă diệt hết khổ th́ chúng ta hạnh phúc. Niết Bàn chỉ là trạng thái mà con người đă xa ĺa tất cả các phiền năo chứ không phải là cuộc sống ở một cung trời nào đó. Do đó, trong Đạo Phật, bất cứ ai tự xưng ḿnh là thánh thần mà c̣n nhăn nhó, khổ đau, van nài, kêu cứu…th́ đó là chỉ là phàm phu chứ không phải thánh thần. V́ không tôn thờ Thần Linh, không tôn thờ Tự Ngă cho nên cứu cánh của Phật Giáo không phải là sự thờ phượng. Nếu chúng ta có thờ Phật cũng chỉ để tôn thờ một bậc thầy vĩ đại để từ đó đi theo giáo lư của Phật, để được hạnh phúc như chính Phật. Truyện về quăng đời hoằng pháp của Ngài Ca Chiên Diên kể rằng: (4)
“Một lần nọ, khi Đức Phật trở về quê hương Ca Tỳ La Vệ để giáo hóa. Trong số tăng chúng đi theo có Tôn Giả Ca Chiên Diên. Phật và đại chúng tạm trú tại thôn Hạ Lỵ. Trong thời gian lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một vị trưởng giả lâm trọng bệnh. Ca Chiên Diên muốn đích thân đến dùng Phật pháp để tiêu trừ bệnh khổ cho ông ta.
Tôn Giả đến trong lúc vị trưởng giả đang nằm trên giường bệnh. Tôn Giả hỏi thăm:
– Thưa trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói trưởng giả không được khỏe nên sai tôi đến thăm. Chẳng hay trưởng giả đă cho mời thầy thuốc đến chữa trị chưa?
Vị trưởng rất cảm động trả lời:
– Con xin cám ơn Đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh của con đă đến lúc quá nặng rồi, không c̣n hi vọng ǵ chữa được. Rất nhiều thầy thuốc đều đă bảo như vậy.
– Vậy xin trưởng giả hăy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong nhờ uy đức lớn lao của Tam Bảo mà tâm ư của trưởng giả được thanh tịnh, rồi bịnh sẽ thuyên giảm.
– Thưa đại đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng được hộ tŕ Tam Bảo để đam lại lợi lạc cho nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam Bảo những ǵ ḿnh có chứ đâu dám yêu cầu này nọ nơi Tam Bảo!
– Trưởng giả nói rất đúng! Cơi thế gian là vô thường, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta được thường trú măi măi. Thân thể phải bị bịnh tật, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. Người có đức tin vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân để xây dựng cuộc sống chung. Bịnh hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hăy biết tự lo lấy chứ đâu có dám làm phiền đến Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả, sức người th́ có giới hạn mà ánh từ quang của Tam Bảo th́ trải khắp mọi nơi, nếu chúng ta thành tâm cần cầu th́ ánh từ quang ấy sẽ rọi chiếu đến.
Nghe lời khuyên của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên niệm Tam Bảo. Ông cảm thấy thân tâm dần dần trở nên an lạc và bệnh t́nh cũng ngày càng thuyên giảm.”
Lời khuyên của Tôn Giả thật nhân bản, hợp t́nh, hợp lư. Dĩ nhiên Tam Bảo không thể chữa lành bệnh cho ai. Ai nói rằng Phật Pháp Tăng có thể chữa lành bệnh cho tất cả mọi người th́ đó là sự lừa mị. Thế nhưng nếu chúng ta chú tâm nhiếp niệm Tam Bảo th́ thân tâm chúng ta thanh tịnh, nghị lực tăng trưởng. Có thể v́ thế mà chúng ta lướt qua được bệnh tật. Đó cũng là phương pháp tâm lư trị liệu của thời đại ngày hôm nay.
c) Đạo Phật không dùng t́nh cảm để thuyết phục ai. V́ Đạo Phật nhằm khai mở trí tuệ cho con người cho nên Đạo Phật không lợi dụng t́nh cảm yếu đuối, không lợi dụng những hoàn cảnh khốn khó của người để truyền đạo. Đạo Phật luôn luôn đến với con người khi con người sáng suốt nhất. Đạo Phật là sự bừng nở hoa tâm, giă từ sự ích kỷ, giă từ gian tham, giă từ tật đố, giă từ bóng tối, giă từ kiêu mạn, giă từ cái hữu hạn để t́m về nơi vô hạn. Do đó có thể nói “Nếu bạn mở cánh cửa Trí Tuệ ra, bạn sẽ thấy Đạo Phật. Nếu bạn khép cánh cửa Trí Tuệ lại, bạn sẽ không thấy Đạo Phật.” Đạo Phật không dùng ơn nghĩa để truyền đạo. Trong khi người ta đói khát ḿnh cho người ta một bát cơm đó là cử chỉ đẹp, nhưng lợi dụng bát cơm đó để dụ người ta vào đạo là một hành vi cưỡng ép và ngay trong cử chỉ “cho” đó đó đă ngầm chứa một âm mưu, một thủ đoạn bất chính. Đạo Phật là đạo “phá tà hiển chính”. Chúng ta có thể cam đoan rằng không một tu sĩ Phật Giáo nào có can đảm làm thế. Nếu họ làm thế th́ họ là tín đồ của “Ma Giáo” chứ không phải Phật Giáo và họ nên cửi áo của Như Lai để đi theo một tôn giáo khác. Chúng ta hăy xem Tôn Giả Ca Chiên Diên hóa độ một người đàn bà nô lệ bất hạnh:
“Một hôm, sau khi hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường trở về Tịnh Xá Kỳ Viên ở Thành Xá Vệ. Giữa đường, tôn giả trông thấy một thiếu phụ ôm một ṿ nước, ngồi khóc lóc thảm thiết bên bờ sông, t́nh cảnh có vẻ rất thương tâm. Sợ người thiếu phụ v́ quá thất ư mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn giả vội vàng đến hỏi thăm:
– Thưa bà! Có chuyện ǵ làm bà đau khổ đến nỗi khóc lóc thảm năo như vậy?
Nghe có người hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:
– Thôi ông hỏi han làm ǵ, dù có nói cũng vô ích thôi!
– Thưa bà! Xin bà cứ nói! Tôi là đệ tử của đức Phật. Tôi có thể giúp bà giải quyết được bất cứ vấn đề khó khăn nào.
– Ông không có cách nào giúp tôi đâu! Ông thấy không? Trên thế gian đầy dẫy những hoàn cảnh không b́nh đẳng, người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời một vực! Tôi là một kẻ nghèo mạt rệp, suốt đời chịu khổ, và cũng v́ cái nghèo đă đem đến cho tôi quá nhiều đau khổ nên hiện giờ tôi không c̣n muốn sống làm ǵ trên cơi đời này nữa!
Nói xong mấy lời ấy th́ thiếu phụ vật vă lăn lộn như có ư muốn liều ḿnh. Tôn giả hoảng hốt, vội nhanh chân đứng chận trước mặt thiếu phụ, rồi thương xót an ủi:
– Thưa bà! Xin bà đừng quá thất vọng như vậy! Bà hăy b́nh tâm nh́n lại thử xem, trên đời này người nghèo nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một ḿnh bà! Lại nữa, người nghèo không hẳn là bất hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh phúc. Bà thấy không! Có những người giàu có, nhà cao cửa rộng, ruộng đất thênh thang, kẻ ăn người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày cứ bị các tính xấu như tham lam, sân hận, ganh ghét giày ṿ, đó mới là đau khổ, đó mới là bất hạnh. Cho nên làm người, chỉ cần có được cuộc sống b́nh an là tốt nhất, c̣n cái nghèo đâu đáng để cho ta đau buồn!'
– Bởi v́ ông là một vị sa môn nên cứ dửng dưng với sự thế, chứ kẻ tục như tôi th́ đâu được như vậy. Ông biết không? Tôi nguyên là kẻ nô lệ của một nhà đại phú hào ở vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô dịch cho người, không có một chút th́ giờ rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại c̣n bị người chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng chửi đánh đập, khiến cho bọn tôi tớ chúng tôi, muốn sống cũng không được mà muốn chết cũng không xong! Tôi nghĩ, sở dĩ tôi bị hành hạ như vậy là chỉ v́ cái nghèo mà ra, sao ông lại bảo cái nghèo không đáng để làm cho người ta đau khổ?
– Thôi th́ cứ cho là bà có lư, nhưng dù sao th́ tôi cũng khuyên bà đừng đau buồn nữa. Tôi sẽ chỉ cho bà cách thức chẳng những thoát được cái nghèo mà c̣n phát tài nữa.
Nghe vậy, thiếu phụ lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:
– Cách ǵ, thưa đại đức?
– Giản dị lắm! Bà đă bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem cái nghèo ấy bán cho người khác đi?
– Đại đức nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán được th́ hóa ra trên đời này chẳng c̣n ai nghèo cả? Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái nghèo!
– Tôi chịu mua, bà hăy bán cho tôi đi!
– Cái nghèo lại có thể bán được, và cũng có người như đại đức chịu mua, nhưng rất tiếc là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!
– Bằng cách bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo của mọi người đều có nguyên nhân. Sở dĩ người ta nghèo là v́ kiếp trước người ta tham lam keo kiệt, không biết bố thí và tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là v́ kiếp trước người ta biết bố thí và tu phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách tốt nhất để bán nghèo mua giàu.
Nghe mấy lời khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng cảm thấy như tâm trí ḿnh vừa được khai sáng, dù vậy, bà vẫn c̣n có điều thắc mắc:
– Thưa đại đức! Bây giờ th́ con thấy tâm trí con đă được sáng tỏ. Con hiểu được lời dạy của đại đức rồi, nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ vật ǵ gọi là của riêng; ngay cả cái ṿ nước này cũng là của người chủ tham lam độc ác ấy, con đâu biết lấy ǵ để cúng dường cho đại đức!
Ca Chiên Diên đưa cái b́nh bát của ḿnh ra trước mặt thiếu phụ:
– Không nhất thiết phải có tiền bạc hay của cải mới bố thí được. Mỗi khi thấy người khác bố thí mà ḿnh khởi niệm hoan hỷ, đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà có thể trút nước trong cái ṿ bà đang có sang b́nh bát này cho tôi. Thế tức là bà bố thí cho tôi đó!
Tới đây th́ thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà nguyện luôn luôn y theo lời dạy của tôn giả mà thực hành, và không c̣n thấy bị đau khổ v́ cảnh nghèo nữa.” (5)
Thưa quư vị, làm sao một vị sa môn đi chân đất, ôm b́nh bát khất thực, dù trí tuệ siêu việt như thế nào đi nữa, lại có thể chuyển hóa một cấu trúc xă hội bất công chằng chịt từ trên xuống dưới trùm phủ cả ngàn năm rồi? Và người đàn bàn bất hạnh này chỉ là nạn nhân của cấu trúc xă hội bất công đó. Nhưng chẳng lẽ thấy chết, thấy người ta khổ mà không cứu? Nhưng cứu làm sao đây? Do sự linh hoạt và minh mẫn khác thường, Tôn Giả đă nảy ra ư nghĩ “mua nghèo” tức rước lấy cái nghèo cho người đàn bà bất hạnh. Có thể đề nghị này đă làm cho người đàn bà ph́ cười. Nhưng cũng nhờ cái tức cười đó mà tâm trí bà bừng sáng, như nở tâm hoa và một thứ ánh sáng chiếu rọi vào đầu óc và chuyển hóa tâm thức. Bà không c̣n cảm thấy nghèo hèn và khốn khổ nữa: Một chuyển hóa tâm thức trong ḥa b́nh, không làm khổ ḿnh và khổ người, không cần sự trợ lực hay quyền phép của thần linh.
d) Đạo Phật không dùng quyền lợi vật chất trước mắt, cũng như ảo tưởng về một cuộc sống bất tử để dụ dỗ con người. Những người đi theo Phật đều vứt bỏ quyền lợi, danh vọng tột đỉnh của thế gian như bao bậc vua chúa, đại thần, tỉ phú, những nhà tiên tri, các vị Bà-la-môn tăm tiếng thời Đức Phật c̣n tại thế. Theo Phật hay theo Đạo Phật không phải để được thăng quan tiến chức, đặc quyền đặc lợi kinh tế, ăn trên ngồi trước, hoặc là cái mộc che, cái vỏ đạo đức để vênh vang trong xă hội. Đạo Phật lại càng không phải là cái “mode”hay phong trào để theo. Mode hay phong trào giống như kiểu cọ đầu tóc, quần áo, vẽ môi vẽ mắt ồn ào đó rồi quăng bỏ đó. Theo Phật hay theo Đạo Phật là mong muốn trở thành Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, bơi lội trong biển Trí Tuệ, tắm mát trong suối Từ Bi và rong chơi trong vườn Giải Thoát, là người nhưng biết thương người và b́nh đẳng với muôn loài. Đạo Phật là như thế đó.
e) Đạo Phật không dựa vào lời sấm truyền, huyền thoại, lời tiên tri để xây dựng giáo lư của ḿnh. Trong suốt cuộc đời hành đạo, Đức Phật không hề để lại một lời tiên tri, phỏng đoán nào về vận mệnh của con người và trái đất…mà Đức Phật chỉ nói về nhân duyên và pháp vô thường của vạn hữu, thể hiện qua bốn giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Diệt mà ai cũng có thể chứng ngộ và thấy được qua bao ngàn năm. Tương lai của trái đất tốt xấu thế nào xin để cho các khoa học gia, các nhà bác học cho ư kiến. Mới đây Stephen Hawking – lư thuyết gia lừng danh về vật lư của Anh đă tuyên bố trong cuốn sách mới của ông là Thượng Đế không sáng tạo ra vũ trụ mà “Sự Nổ Lớn” (Big Bang) là hậu quả tất yếu của định luật vật lư. Nếu năm xưa Đức Phật nói rằng vũ trụ này do Thượng Đế (Brahma) tạo lập, ngày nay chắc chắn giáo lư của Đức Phật bị suy giảm nghiêm trọng.
g) Đạo Phật không dùng bạo lực, giết hại, kỳ thị để ép buộc con người đi theo. Khi tôn thờ Thần Linh th́ có yêu ghét, cao thấp, sang hèn, đúng sai, phẫn nộ, trừng phạt…do đó có đe dọa, ra oai, trả thù, đàn áp, giết hại. Khi dùng trí tuệ chiếu vào th́ vạn pháp “ bất bần bất phú, bất cao bất đê, bất phàm bất thánh, bất ái bất ố, bất tịnh bất cấu, bất tăng bất giảm..” khiến Trí Tuệ lắng yên và Tâm Đại Bi hiển lộ. Chúng ta hăy đọc một giai thoại hoằng pháp của Tôn Giả Ca Chiên Diên:
“Một lần nọ, khi đức Phật ngự tại Tịnh Xá Kỳ Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đă một ḿnh vượt rừng rậm đi về hướng Tây, đến du hóa ở Vương Quốc Ma Du La. Khi đến nơi, trước hết tôn giả t́m hiểu dân t́nh và học hỏi phong tục, tập quán cùng cách thức sinh hoạt của dân địa phương. Sau đó tôn giả mới t́m vào kinh thành để yết kiến quốc vương. Trông thấy tôn giả, quốc vương hỏi:
– Đại đức! Trẫm nghe nói đại đức vốn thuộc ḍng giống Bà La Môn cao quí, nhưng lại đi qui y làm đồ đệ của Sa Môn Cồ Đàm vốn thuộc ḍng giống Sát Đế Lợi; như vậy chẳng hóa ra là đại đức đă tự hạ thấp ḿnh quá sao?
– Thưa đại vương! Làm đệ tử Phật, chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ thấp ḿnh, trái lại đó là điều vinh quang cùng tột của đời tôi.
– Lạ lùng thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra từ miệng Phạm Thiên của ḿnh để làm đệ tử của ông Phật ḍng Sát Đế Lợi th́ có ai mà hiểu nổi!
Dù vị quốc vương tỏ rơ thái độ kinh rẻ như vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm khó chịu, vẫn ôn ḥa đáp lại:
– Thưa đại vương! Trước đây, khi c̣n là một đạo sĩ Bà La Môn, tôi cũng đă từng có cái nh́n giống hệt như đại vương vậy, nhưng từ khi nghe được những lời chỉ dạy của Đức Phật, tôi mới biết là ḿnh đă có những nhận thức đầy sai lầm. Xă hội phân ra có bốn giai cấp khác nhau chẳng qua là v́ có các chứng nghiệp khác nhau, đại khái như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công nông v.v… Đó chỉ là vấn đề phân công làm việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y cứ vào đó để lập thành các giai cấp cao thấp, phân chia chủng tộc sang hèn th́ hoàn toàn là những lợi dụng vô lư và phi pháp. Bất cứ ở giới nào cũng có người tốt kẻ xấu. Ngày nay, ngay trong ḍng Bà La Môn cũng đầy dẫy những phần tử làm nhiều việc xấu xa như tà dâm, giết người, và hầu hết đều là những người bảo thủ, tà kiến. Vậy có thể bảo đó là những người tôn quí bậc nhất hay sao. Bởi thế, sự tôn quí hay thấp hèn của con người không phải do chủng tộc hay giai cấp cao thấp sinh ra. Bất luận là ở chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có công phu tu học, có giác ngộ và chứng quả th́ đều là người trong sạch, cao thượng, đáng tôn quí.
Quốc vương nghe xong mấy lời này th́ bừng tỉnh ngộ, tự nói với ḿnh: “Đúng rồi, ta thật quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ trước đến giờ chỉ dành để giam cầm hạng Thủ Đà La, c̣n hạng Bà La Môn phạm tội th́ không hề hấn ǵ cả. Thật chẳng lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân chúng!”
Ḷng hối cải đă lộ rơ trên nét mặt quốc vương. Thấy thế, tôn giả thuyết phục thêm:
– Thưa đại vương! V́ vậy mà đại vương nên tin phụng và thực hành chánh pháp. Phật là bậc đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời. Chúng ta qui y làm đệ tử của Người để t́m thấy con đường tự do giải thoát. Đó là hạnh phúc và vinh quang tột của đời chúng ta.” (6)
Sáng suốt và linh hoạt thay lời giải đáp của Tôn Giả Ca Chiên Diên. Chính sự phân tích có tính khách quan và hợp lư đó đă đem lại công lư, b́nh đẳng cho Vương Quốc Ma Du La và xác định rơ một khuôn thước thẩm định giá trị của con người qua phẩm hạnh đạo đức, qua những ǵ tốt lành cống hiến cho đời…vẫn c̣n xác quyết cho tới ngày hôm nay.
h) Theo Đạo Phật, tôn giáo là nhằm giải thóat tâm linh cho con người, san bằng bất công xă hội, giải trừ giai cấp. Tôn giáo không phải là một nghề nghiệp sinh sống, không phải là một chức vụ để trả lương, không phải là một vị thế để hưởng thụ. Tu sĩ phải là biểu tượng sống động của giáo lư cao thượng. Tu sĩ không phải là một đẳng cấp siêu vượt trong xă hội. Tu sĩ phạm giới ngoại trừ sự trừng phạt của giáo đoàn (nay là giáo hội), nếu phạm tội, phải chịu sự chi phối của luật pháp không một miễn trừ nào. Nếu người đời xâm phạm tiết hạnh, hăm hiếp phụ nữ trẻ em, bị trừng phạt như thế nào th́ tu sĩ cũng bị trừng phạt như thế. Sở dĩ tu sĩ được cúng dường và kính trọng là v́ phẩm hạnh chứ không phải v́ địa vị, phẩm trật trong giáo hội. Tu sĩ chân chính không thể cười nói nhởn nhơ, ăn mặc diêm dúa, nhảy múa, hớn hở bên rượu thịt…bởi v́ những cái đó thuộc về thế tục, không phải thánh đạo để mọi người sùng bái, quỳ lạy, dựng tháp miếu để kính ngưỡng. Chúng ta hăy nghe một đoạn đối đáp của Tôn Giả Ca Chiên Diên với người bạn Lỗ Ê Giá – một trưởng giả của ḍng Bà La Môn:
“Này người bạn hiền, xin hăy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và sự tu hành của chúng ta là nhằm mục đích giải thoát khỏi ṿng sinh tử, để cho cuộc sống đạt được an lạc, tự tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ nghề nghiệp để sinh sống. Hiện nay, những tu sĩ Bà La Môn ĺa bỏ gia đ́nh để sống theo nếp sống phạm hạnh của người tu hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần đông họ đều chỉ có cái h́nh tướng trá ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho người giống như việc kinh doanh để sinh nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành đoạt lợi, cốt thỏa măn cái tư dục của ḿnh; thật là đáng buồn! Tu sĩ Bà La Môn ngày nay đều lo t́m những thứ ǵ ở ngoài Tâm, cũng chẳng phải mong cầu phước báo ở cơi Trời hay cơi Người, mà chỉ toàn nói hươu nói vượn về những hiện tượng này nọ của vũ trụ, nào có mấy người biết chính ḿnh là ai! “ (7)
i) Sau hết, Đạo Phật là đạo duy nhất hoan nghênh mọi sự cật vấn, tranh luận mà không sợ bị sa hỏa ngục hay can tội “phạm thánh”. Phạm trù của lư trí là phạm trù cần tranh luận, bàn căi cho ra lẽ. Nếu vấn đề đă thuộc về lư trí th́ con người có thể hội, có thể hiểu và lư giải được. Phạm trù của lư trí không có ngằn mé, không cấm kỵ, không biên giới, không phân biệt tuổi tác, vị thế, màu da, chủng tộc. Chính v́ tôn trọng trí tuệ cho nên một trong ba lời nguyện mà chư tăng/ni và Phật tử đọc tụng hằng ngày có câu:
Tự quy ư Pháp
Đương nguyện chúng sinh
Thấu rơ kinh tạng
Trí tuệ như biển
Như vậy theo tinh thần của Phật Giáo, đọc tụng, nghiên cứu kinh điển là để mở mang trí tuệ rộng lớn như biển cả, chứ kinh điển Phật Giáo không phải là một thứ bùa mê làm lu mờ trí tuệ, lú lẫn con người.
C̣n phạm trù thần linh th́ không có tranh luận, lư giải mà chỉ là sự tuân phục và tin theo – dù rất phi lư và phi trí tuệ. Hễ không tin th́ phải sa hỏa ngục. Trong Đạo Phật, không hề có lời hăm dọa nào buộc tín đồ phải tuân theo lời Phật dạy. Lời Phật dạy giống như một viên thuốc trị bệnh, không uống th́ không hết bệnh, chỉ có thế. Đức Phật luôn luôn nhắn nhủ hàng đệ tử cùng ngoại đạo đến vấn hỏi là phải suy nghĩ cho thật kỹ những ǵ Phật nói. Nếu những điều đó tốt lành cho ḿnh, cho người th́ mới tuân theo chứ đừng vội tin một cách mù quáng. Trong những giờ phút cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt tại rừng Sa La Song Thụ, dù sức khỏe của Ngài rất suy yếu nhưng Ngài vẫn dành nhưng giây phút cuối để cho các hàng đệ tử thưa thỉnh nhiều vấn đề chưa hiểu rơ hoặc c̣n hồ nghi. Thậm chí có rất nhiều vị bồ tát đă vặn hỏi, cật vấn, đặt ngược vấn đề với Phật mà Phật vẫn vui vẻ giải đáp thỏa đáng. Hăy cứ xem Kinh Đại Bát Niết Bàn th́ rơ.
Từ những nhận định trên chúng ta có thể kết luận rằng Đạo Phật được xây dựng trên nền tảng Trí Tuệ và Phật Giáo là đạo của Trí Tuệ. Cũng giống như Mặt Trời chính là ánh sáng. Nền tảng Trí Tuệ chính là sinh mệnh của Phật Giáo. Khi Mặt Trời tắt th́ ánh sánh không c̣n. Xa ĺa trí tuệ, bám víu vào hiện tượng trăng sao, mưa gió của trời đất, khấn nguyện phép mầu, van vái Thần Linh, mê hoặc bởi những lời sấm truyền vu vơ…hướng ngoại mà không hướng nội… là giết chết Phật Giáo trên tự thân của nó. Thế nhưng nói Trí Tuệ th́ phải hiểu đó là Trí Tuệ Rốt Ráo, Trí Tuệ Bát Nhă, Trí Vô Sai Biệt hay Đại Viên Cảnh Trí. Khi đạt tới loại Trí Tuệ này rồi th́ Tâm Đại Bi hiển lộ. Trong Đạo Phật, Trí Tuệ và Từ Bi như h́nh với bóng. Bi là Trí mà Trí cũng là Bi. Mất Trí Tuệ th́ mất Đại Bi. Mất Đại Bi th́ cũng mất Trí Tuệ.
Vậy th́ bạn ơi,
Hăy tôn thờ trí tuệ của con người
Nó như ngọn đuốc soi đường
Nó như b́nh minh trong đêm tối
Nó là nền ḥa b́nh trong tương lai của nhân loại
Nó là nơi mà chúng ta có thể kết t́nh huynh đệ
Vậy hăy tin nơi sáng suốt của chính ḿnh
Sự sáng suốt do nhận thức những ǵ chung quanh ta
Do cuộc sống này nảy sinh
Do kinh nghiệm học hỏi từ quá khứ
Từ những bậc thày giác ngộ (8)
Đừng tin những ǵ ở thần quyền
Qua sự diễn dịch của tầng lớp trung gian
Đừng tin những ǵ nơi thần linh, ma quỷ
Đừng vội tin những ǵ người ta nói
Đừng vội tin những lời truyền tụng vu vơ.
Đào Văn B́nh
(Trích Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh xb năm 2017 do Amazon phát hành)
(1) Phật Học Phổ Thông
(2), (3),(4), (5),(6) &(7) Bài “Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật” đăng trên mạng lưới Hoằng Pháp
(8) Đức Phật là một vị đă giác ngộ và sau này tất cả những ai liễu ngộ được chân lư của Đức Phật và tin theo cũng đều là các bậc giác ngộ