PDA

View Full Version : Truyện ngắn Phan Đức Nam: Chuyện ở bến Bà Lụa



BigBoy
26-12-2020, 23:16
VHSG- Tôi sinh ra, lớn lên và sống ở đây đă lâu mà cũng không biết bà Lụa là ai và có từ bao giờ? Nghe nhiều người già kể th́ ngày xưa, không xa lắm, ở cửa con rạch lớn chảy ra khúc Sông Bé đó, thuở c̣n sấu lội cọp đua, có một bà tên Lụa – tôi nghĩ cô Lụa th́ đúng hơn, làm nghề chèo đ̣ chở khách qua sông. Nghe nói cô thôn nữ tên Lụa đó đẹp lắm, có mái tóc dài đen mun phủ quá eo thon. Những đêm chèo đ̣ chở khách, mái tóc dài của cô bay bay theo gió như dải lụa mềm óng ả dưới trăng, những lọn tóc người đẹp quất vào tim óc đám đàn ông con trai làm họ khó ngủ.

Một chàng trai sau những đêm không ngủ đă nhiều lần qua sông, anh trở thành chồng cô Lụa, họ có một đứa con trai kháu khỉnh, gia đ́nh sống hạnh phúc dưới túp lều tranh.

Một ngày, người chồng đi theo tiếng gọi bên kia sông, măi không thấy trở về. Đứa trẻ tên Lực nhờ t́nh thương của mẹ lớn lên khỏe mạnh gan dạ, bắt sấu bẫy cọp không hề sợ. Lực thường hỏi mẹ về cha ḿnh, không ít lần anh bơi qua sông t́m tin tức ông. Những cuộc đi ngày một dài thêm, đến một ngày, Lực đi t́m cha rồi không thấy về. Bên kia sông bom đạn vẫn đ́ đùng, bà Lụa lo sợ mỏi ṃn chờ đợi.


Năm tháng qua đi, sức khỏe bà Lụa ngày càng yếu dần, bà không chèo đ̣ được nữa mà ṃ cua bắt ốc sống qua ngày, vẫn kiên tŕ chờ đợi ở bến sông.

Bẵng đi một thời gian dài bến ấy vắng bóng bà, nhiều người nghĩ chắc bà đi t́m chồng con, có người nghĩ bà mất rồi.

Nhưng sau lại thấy bà xuất hiện, và thật bất ngờ, nhiều người hoang mang ngơ ngác khi thấy bà Lụa lúc th́ già, lúc th́ trẻ, cứ như cải lăo hoàn đồng.

Sau họ mới biết cô gái trẻ thay bà Lụa chèo đ̣ là con nuôi mà bà đem về. Cô đó cũng để tóc dài. Người ta không biết cô tên ǵ nhưng cứ gọi là cô Lụa, cô chỉ mỉm cười.

Bến xưa lại rộn ràng, nhiều chàng trai lại t́m cách qua sông để có dịp ướm lời với người đẹp, người đẹp khéo léo chối từ: “Tui mồ côi. Má nuôi tui, thương tui. Sau này con trai má về, tui sẽ là con dâu má..”

Đó, chuyện kể về bà Lụa hay cô Lụa cứ mông lung bảng lảng như vậy. Hỏi cô Lụa sau này ra sao? Có gặp được chàng trai tên Lực để thành chồng vợ không? Người kể chỉ lắc đầu: Th́… cô Lụa sau già thành bà Lụa đó. Thời chiến tranh, bến sông nào mà chẳng có phụ nữ chờ chồng chờ con…

Sau, tôi được nghe một vài người – h́nh như cha ông họ trước có làm việc cho Pháp – họ ra vẻ sành sơi, suy luận giải thích rằng tên Lụa xuất phát từ Lucie, do phát âm tiếng Việt mà thành. Lucie là tên vợ hai của quan ba Pháp trước đây cai trị vùng này. Bà Lucie đẹp nhưng tham ác gớm ghê. Bọn lâu la dưới tay bà cực kỳ hung dữ. Những ai chống cự lại chúng dễ bị làm mồi cho sấu ăn. Mụ Lucie lại có vẻ thích cảnh dă man đó mới quái! Nhiều người che miệng gọi mụ là Luxiphère – tên một quỷ vương cực kỳ hung ác.

Vợ chồng mụ Lucie có hàng chục đồn điền cao su, trải dài từ những cánh rừng Sông Bé đến giáp Đồng Nai. Những đồn điền bạt ngàn đó được phân cho tay chân của quan ba trông coi, hàng năm thu về không biết bao nhiêu mà kể những tấn mủ cao su, sau đó nấu ép thành từng bánh cao su lớn để chở về Pháp.

Mực nước ở ngă ba rạch Bà Lụa sâu, khi nước lên thuyền lớn có thể cập sát bờ. Vợ chồng quan ba cho xây dăy kho lớn ở bến sông đó để tập kết bánh mủ cao su, từ kho sẽ đóng kiện chuyển lên thuyền lớn xuôi con nước về cảng Sài G̣n.

Thấy quang cảnh bến sông thoáng đăng mát mẻ, bà Lucie cho làm thêm một biệt thự nhỏ toàn bằng gỗ quư để có chỗ nghỉ dưỡng, luôn tiện trông coi kho băi.

Thời đó, quan ba Pháp đă lên kế hoạch nạo vét khúc sông này, xây dựng thành cảng sông lớn của đất Thủ, bỏ tên Bà Lụa đi mà lấy ngay tên vợ là cảng Bà Lucie. Mặc kệ Pháp muốn đặt cảng sông mới là ǵ, dân ở đó vẫn gọi là Rạch Bà Lụa, bến Bà Lụa. Bà Lụa nghe dân dă dịu dàng, thuần Việt, dễ đọc hơn là Lucie hay Luciphère.

Dự tính xây cảng của quan Pháp không thành v́ ông ta bị quân của Huỳnh Văn Cù phục bắn chết. Sau đó du kích đốt tiêu luôn dăy kho cao su và căn biệt thự gỗ ở bến Bà Lụa. Trận cháy đó ba bốn ngày đêm không ai tới cứu. Sức cháy nóng tới nỗi những viên gạch thẻ to dày xây tường cũng nứt toát bể tung.

Không biết những chuyện về bà Lụa người Việt hay bà Lucie người Pháp có thực hay không? Và thực tới cỡ nào? Dẫu sao th́ những câu chuyện quá khứ đan xen đó đă làm phong phú thêm vùng đất quê hương tôi.

Nhưng những chuyện tiếp sau đây ở bến xưa này tôi có tham gia và chứng kiến:

Khi tôi mới tới ở rạch Bà Lụa th́ nơi đó chỉ có hai túp lều tranh nằm gần nhau. Túp lều cũ là của vợ chồng già không con cháu. Ông Bảy đă gần bảy mươi là lao động chính, có khách gọi th́ ông chèo đ̣ kiếm tiền mua gạo. Bà vợ bị ḷa đă lâu, thơ thẩn làm lụng quanh nhà. Túp lều kế bên rộng hơn, của đôi uyên ương trẻ từ miền Tây trốn nhà tới nơi xa xôi này để được sống với nhau. Cô vợ hay hát vọng cổ, rảnh là chạy qua phụ bà Bảy nấu cơm. Anh chồng thua vợ một tuổi, khỏe mạnh nhanh nhẹn, hồ hởi nói với người mới tới là tôi: “Ờ, tới đây ở cho vui. Nhậu được không?” Tôi gật, nghĩ: Gặp bợm rồi. Nhưng anh Tư biết nhậu chớ không bợm, có ǵ ngon hay vui vui, hai người cưa một xị thôi. Anh Tư ăn sáu bảy tô cơm, nhiều gấp hai tôi.

“Nói thiệt đi? Tới đây trốn lính phải không em?” – Anh Tư hỏi. Tôi gật. Anh cười: “Anh em ḿnh cùng cảnh ngộ. C̣n trẻ mà chui vô đây buồn muốn chết!” Anh nói vậy nhưng không buồn, nhờ cô vợ trẻ hay hát. Hứng lên anh Tư cũng hát ồm ồm: May mà có em, đời c̣n dễ thương… Lâu lâu anh thay chữ em bằng Mai – Mai là tên vợ anh.

Anh Tư tính phụ tôi đốn cây về dựng lều, ông Bảy bàn: “Làm thêm cái chái bên nhà tao thôi, tao c̣n dư cái chơng tre. Nó có một ḿnh ở với vợ chồng tao cho vui, chớ làm thêm lều, lỡ tụi xă kéo lính tới hỏi người th́ sao?” Anh Tư và tôi ngẩn ra. Ông Bảy nói tiếp: “Hai đứa đào thêm cái hầm nữa ngoài vườn, có ǵ mày và nó có chỗ trốn, chỗ thoát.”

Chị Mai vợ anh Tư nuôi một đàn vịt bầu, năm sáu con ngỗng, thêm hai con chó giữ nhà. Hễ có bóng người từ xa, có tiếng máy cô-le x́nh xịch tấp vô, là chó sủa ngỗng la, dư thời gian cho tôi và anh Tư chui xuống hầm, nếu có bị phát giác miệng hầm, th́ từ trong hầm đó vẫn có đường thông để thoát ra ruộng. Tụi tui đă tính kỹ rồi.

Năm sau, vợ chồng anh Tư có con gái, bé mới được ba tháng tuổi th́ một sáng, anh Tư biểu vợ làm mâm cơm đáp tạ trời đất, rồi mời vợ chồng ông Bảy và tôi qua. Anh nói với ông Bảy: “Vợ chồng con phải đi hai bác à. Ở đây mát mẻ, làm ăn cũng được, nhưng trốn chui trốn nhủi hoài con tức quá! V́ thương vợ thương con thôi, chớ không phát triển được. Tụi con về quê để cháu nhỏ lớn lên có chỗ học hành. Ba má con chắc cũng nguôi nguôi rồi. C̣n con th́ sợ ǵ. Về đó rồi tính sau.”

Anh quay qua tôi: “Mày ở lại phụ giúp hai bác nghe. Phải hết sức cẩn thận. Cùng lắm th́ dông.”
Ông Bảy ngồi im không nói ǵ, bà Bảy quờ quạng run run giơ hai tay: “Tụi bây đi thiệt hả? Cho tao ẵm hun con nhỏ một chút…”

Anh Tư đă nói giùm suy nghĩ bức bách của tôi. Tôi cũng đang tính đường của ḿnh.

Tôi thanh niên 18 tuổi, lây bịnh từ những chàng trai xưa, tôi yêu cô lái đ̣ ngày nay, cô tên Na – người bên kia đất Củ Chi.

Tôi gặp Na trong một đêm cô chèo đ̣ đưa du kích sang sông. Tôi xin họ được theo, một anh lớn tuổi suy nghĩ rồi nói: “Em chưa bị lộ, nên trụ đây phụ giúp ông Bảy. Anh sẽ nói với anh Tư xă đội trưởng bên này, ảnh sẽ liên lạc với em.”

Vậy là tôi vô du kích, coi như đồng đội với Na, tôi sẽ có dịp được gặp và nói chuyện với cô.

Lạ thiệt! Mỗi khi nh́n Na chèo đ̣, tôi lại nghĩ nếu cô để tóc dài, th́ Na chính là hiện thân của cô Lụa ngày xưa. Khi quen thân tôi nói với Na vậy, Na tṛn mắt vặn: “Lụa nào? Người yêu anh tên Lụa phải không?” Tôi lắc đầu. Na không tin. Tôi kể cho Na nghe chuyện về bà Lụa, cô Lụa – toàn những chuyện người ta kể lại, tôi phịa thêm một chút để được ngồi gần Na lâu hơn. Na thích thú ngồi nghe, rồi nói: “Hổng được ví em với cô Lụa ngày xưa nghe? Sợ sau này em cứ phải chờ chồng chờ con. Buồn lắm!” Tôi cười: “Anh chờ em th́ có.” Na bẽn lẽn cúi đầu, tôi mạnh dạn nói nhanh: “Anh sửa lại căn lều. Em về sống với anh nghe?” Na phát vào vai tôi một cái thiệt đau, rồi đỏ mặt quay đi.

Chuyện t́nh tôi ở bến Bà Lụa này đó, cũng đẹp chớ bộ.

Khi tôi nghĩ ḿnh sắp cưới được Na th́ bỗng cô bặt tin.

Tôi chờ đợi ngơ ngẩn mấy tháng trời. Quá sốt ruột và thắc mắc, tôi mượn ghe ông Tư qua sông. Mấy lần qua đó hỏi thăm, tôi mới được một bạn du kích cho biết là cô Na con bà Tư ở chợ B́nh Mỹ đă lấy chồng, đám cưới tổ chức trong bưng, nên bà con làng xóm ở địa phương ít ai biết.

Tôi gần như sụp xuống, đau đớn! Mới biết thất t́nh nó đau tới cỡ nào?

Tôi trách Na, hận Na. Dẫu Na chưa hứa nhưng sao cô không chối từ những lời ướm hỏi cầu hôn của tôi? Để tôi khỏi phải hy vọng, để tôi khỏi phải lên rừng đốn cây, ra đồng cắt tranh, về sửa sang lại căn lều…

Đau buồn thất vọng quá, có lúc tôi muốn cắm đầu xuống sông luôn.

Rồi tôi nghĩ: Na có yêu thương ǵ ḿnh đâu! Na chỉ thương hại ḿnh, nên không nỡ chối từ…

Nửa năm sau, khi vết thương ḷng tôi tạm nguôi, th́ một đêm bên kia sông có hai cán bộ về hoạt động – anh Tư xă đội trưởng đă báo trước để tôi chuẩn bị.

Anh Huân tổ trưởng đặc công chuyên về chất nổ là người nhanh nhẹn tháo vát. Chiến sĩ theo anh Huân hiền lành ít nói, coi bộ ĺ lắm. Ban ngày họ núp dưới hầm bí mật ngoài vườn. Tôi lẫn trong rẫy bắp cao quá đầu người, vừa sạc cỏ vừa để ư canh chừng. Bảy tám giờ tối không có động tĩnh ǵ, hai người mới lên khỏi hầm để tắm rửa, ăn cơm và nghỉ ngơi. Anh Huân bày tôi cách ráp ḿn, nối dây điện, kỹ thuật đặc công…

Dẫu có hai con chó và đàn ngỗng tinh khôn, ông Bảy vẫn mắc vơng sau chái bếp nằm đu đưa.
Anh Huân ngắm căn lều tôi ở, có ngăn buồng… tân hôn, mỉm cười hỏi: “Tính rủ em nào về sống chung phải không?” Tôi thực t́nh nói rủ rồi nhưng cổ không ưng. Huân toét miệng cười: “Thiệt hông?” Tôi gật. Huân gật gù: “Trước đây tui cũng rủ vài cô nhưng thất bại. Vậy mà vợ tui không rủ lại tới – đúng là duyên số. Tui đâu có quen cổ trước, mà cưới thiệt nhanh ở trong bưng – điều này cả hai đứa tui cũng không nghĩ tới.”

Tôi nghi nghi, t́m cách hỏi tới, Huân hồn nhiên kể:

– Một sáng, tui rảo rảo vô chợ B́nh Mỹ t́m người liên lạc, th́ thấy cô bán trái cây ngoắc lại, tưởng người đẹp mời mua hàng, tui tấp vô, ai ngờ cổ níu tui, hấp tấp nói: “Anh làm ơn cứu tui.” Tui giựt ḿnh: “Cứu ǵ?…” Cô ấy nói: “Lúc năy tụi lính tới giả bộ mua hàng để chọc ghẹo tui. Một thằng say xỉn lải nhải hoài! Tụi lính kéo hắn đi. Tên xỉn bỏ quên cây súng dựa góc sạp. Tui ghét quá đem giấu dưới này… Không ngờ tụi nó đang quay lại t́m ḱa! Đó đó!… Anh làm ơn giấu cây súng dưới gầm giùm tui. Mau mau anh ơi!…”

Tui nghe xong cũng bối rối, đám lính chỉ c̣n cách tui và cô gái chừng mươi mét, lấy súng ra là chúng thấy liền. Chúng tới xét th́ cô gái nguy, tui cũng nguy. Tui là lính đặc công, phản xạ cũng lẹ, tui cúi xuống chụp súng lên đạn lia luôn nửa tràng, rồi kéo cô gái chạy. Nhờ thuộc địa bàn và bà con phụ che giấu, tụi tui thoát được. Cô gái sau đó không dám về nhà, đành theo tui vô rừng luôn.”
Tôi ngơ ngẩn hỏi: “Vợ anh tên ǵ?…” Huân trả lời: “Tên Na. Vô đó tui mới biết cổ là con gái bà Tư ở chợ B́nh Mỹ – cơ sở mà tui đang muốn liên lạc.”

Tôi nghe mà phân vân… Huân kể tiếp: “Cô Na nói: Em tính chôm súng địch về đưa má, để má chuyển cho mấy anh.” Vậy là đồng đội rồi, duyên trời rồi, anh em đơn vị thúc vô, tụi tui cưới nhau luôn. Giờ vợ tui có bầu, tui tính đưa vợ về sanh, sợ trong rừng không đủ điều kiện. Nhưng vợ tui chưa dám về. Chắc chắn tụi lính c̣n canh, vụ đó ba thằng chết hai thằng bị thương lận mà. Mẹ vợ tui sau đó bị tụi nó bắt lên bắt xuống nhiều lần.”

Tôi buột miệng nói: “Hổng nên về Củ Chi. Nếu anh không chê… Anh và vợ có thể qua đây tá túc ở căn lều này. Từ đây về chợ Thủ cũng không xa, có nhà bảo sanh…”

Anh Huân mừng rỡ nh́n tôi, nhưng c̣n ngần ngại, tôi nói tiếp: “Tui cũng như anh đi về thất thường. Căn lều này không phải của tui đâu. Tui một ḿnh ở đâu cũng được. Nếu anh chị tới đây ở th́ tui qua bên bác Tư – lúc trước tui cũng ở bên đó mà.” Huân nghe hợp lư.

Thấy tôi thực sự muốn giúp, khi về căn cứ, anh bàn với vợ, nói đă t́m được chỗ tá túc, vừa xa vừa kín đáo. Qua câu chuyện Na đoán là căn lều tôi đang ở nên cô ngại, không nói cho chồng biết lư do mà t́m cách chần chừ. Tới tháng cuối sắp sanh, thấy bụng ḿnh lớn quá, thêm nhiều người khuyên, Na mới chịu lên ghe theo chồng qua bến Bà Lụa.

Khi hiểu chuyện, tôi không c̣n buồn giận Na mà thực sự muốn giúp cô, giúp đồng đội ḿnh là Huân. Khi không có Huân tôi đă nói với Na vậy. Gặp lại Na tôi mừng lắm. Na cảm động nói em xin lỗi anh, em đă nghĩ tới việc sống chung với anh. Nhưng vợ chồng là duyên số phải không anh. Trước sau ǵ ḿnh cũng phải gặp nhau để nói về chuyện này. Giờ vợ chồng em rất đội ơn anh.

Chính ông Tư đưa Na tới nhà bảo sanh gần chợ Thủ, ông nói với bà đỡ: Nhờ mấy chị giúp con gái tui, chồng nó đi lính xa…

Bên ngoài, Huân và một đồng đội bí mật theo bảo vệ. Cũng đêm đó tôi chèo thuyền sang Củ Chi, bí mật tới nhà mẹ Na để rước bà qua chăm sóc con gái. Bà Tư nói chỉ ở lại đôi ba ngày, sợ vắng mặt lâu tụi địch để ư.

Tối đó Na sinh bé trai nặng bốn kư rưỡi, thằng bé bụ bẫm, có vết chàm sau cổ giống hệt Huân.
Huân hoạt động bí mật nên anh thường vắng nhà, dù ở đó vắng vẻ và tương đối an toàn. Từ khi vợ chồng Na tới ở tôi ít về hơn. Có đêm tôi lặng lẽ chui vô chái nhà ông Bảy nằm. Ông Bảy tỉnh ngủ, nghe động hỏi: “Mày về đó hả Hai?” Tôi dạ rồi trùm chăn, sáng tranh thủ đi sớm.

Na nghe ông Bảy nói mới biết tôi về. Tới khi gặp được tôi, cô trách: “Sao anh về không cho em hay? Để em nấu cái ǵ cho anh ăn. Bữa trước má em qua, có mang chút lương khô chờ mấy anh về.”
Khi con trai Na được 4 tháng tuổi th́ bến sông đó xảy ra biến cố lớn.

Huân lâu lâu về, phối hợp với vợ và tôi nghiên cứu đánh đồn Cây Dầu – cách bến Bà Lụa hơn cây số. Na là gái một con trông ṃn con mắt, dưới lớp vỏ bị chồng bỏ về sống với cha mẹ nuôi, cô bị đám lính trong đồn đó bám theo ve văn. Na cũng lợi dụng chúng để nắm nội t́nh địch. Buổi sáng, Na giao con cho ông bà Tư rồi ra chợ Thủ mua rau củ trái cây gánh bán dạo, vừa nắm t́nh h́nh vừa có thêm tiền nuôi con, trưa cô về lo việc nhà.

Gă trung úy đồn trưởng Cây Dầu mê mệt Na, hắn chạy xe Jeep tới tận nhà, mua sữa cho em bé, ẵm bồng nó gọi là “cục cưng”. Hắn mua dầu thơm Mỹ tặng Na, mua sâm Cao-Ly biếu ông bà Tư. Dần dà, hắn dẫn Na vào trong đồn chơi, ư muốn khoe “người đẹp của tao”. Na vào đó hai lần, về nhà vẽ lại sơ đồ trong đồn địch.

Nhờ vậy, một tháng sau, tổ đặc công của Huân phối hợp với du kích bên tôi đánh sập đồn Cây Dầu. Gă trung úy đồn trưởng bữa đó đi phép nên may mắn thoát nạn.

Sau vụ đánh dồn, Pḥng nh́ địch nghi ngờ Na, chúng bí mật theo dơi từ xa, cả đường đi nước bước của mẹ Na bên kia sông.

Để một đêm, tôi và Na không thể nào quên cái đêm thê thảm đó.

Chiếc ghe chở Huân và hai cán bộ qua sông bị địch theo dơi từ bên kia Củ Chi, địch đón bắt họ ở bến Bà Lụa. Ba chiến sĩ thà chết không chịu hàng.

Na đang ôm con ngủ, nghe tiếng súng nổ liền chạy ra. Tôi nằm bên chái lều ông Bảy cũng vùng chạy theo, thấy Na nhảy xuống ghe hối hả chèo ra cửa sông. Tôi và cô đều linh tính có Huân ngoài đó.

Địch phát hiện có thêm ghe nhỏ liền soi đèn bắn đuổi, Na ngă ùm xuống sông. Không kịp nghĩ và không sợ ǵ nữa, tôi lao ḿnh xuống rạch bơi lẹ tới cứu Na. Tôi hụp lặn khá sâu để tránh những lằn đạn của địch bắn sát rạt, cắm líu chíu xuống mặt nước. Trong ánh đèn thấp thoáng, tôi thấy Na chới với, liền nín thở lặn một hơi tới gần, thấy máu và nước chan bờ vai Na, cô c̣n tỉnh táo nhận ra tôi.
Chợt sườn tôi đau xé! Mặc kệ! Tôi nhịn đau quơ lấy cây chèo nổi gần đó. Tôi và Na không dám leo lên ghe mà bơi tránh xa, địch đang soi đèn bắn xối xả vào chiếc ghe.

Tôi bơi giỏi, Na cũng biết bơi, dù cả hai bị thương nhưng may không nặng, nhờ cây chèo nổi ĺnh ph́nh, tôi và Na bám vào, b́nh tĩnh xuôi theo ḍng nước bơi qua bên kia Củ Chi.

Gần tới bờ, tôi quay lại, hốt hoảng thấy bên kia bến Bà Lụa, một đám cháy bốc cao rừng rực!
Na ôm ngực khóc ằng ặc: “Trời ơi con ơi!…”

Địch đă đốt tiêu hai căn lều đó, khi chúng biết là lều cộng sản.

Tôi và Na không dám về nhà, cũng không dám về chợ B́nh Mỹ. Nhờ cơ sở và đồng đội bên đó, chúng tôi được sơ cứu, rồi được chuyển vào Trạm quân y trong chiến khu.

Một tuần sau, chúng tôi liên tiếp nhận được những tin đau xót từ các cơ sở, tôi biết là chính xác tới 90 phần trăm: Ba xác vici gộc bị địch phơi ở bến Bà Lụa để làm gương – trong đó có Huân. Hôm sau, người ta vớt được một xác phụ nữ bị trúng 2 viên đạn, đó là bà Tư mẹ Na. Tội nghiệp chưa! Ra đêm đó bà theo ghe qua thăm con thăm cháu.

Thêm những tin đau đớn nữa là trong đám tro tàn của hai căn lều ở bến Bà Lụa, người ta t́m thấy xác bà Bảy bị cháy nám cả phần lưng, gục ngay miệng hầm – đây là hầm công khai địch cũng biết, để người dân tránh pháo.

Xác bà Bảy bị tấm phản gỗ dày đă cháy phân nửa găy sụp đè lên, máu ứa ra ở miệng bà đă khô, trông thê thảm lắm! C̣n xác ông Tư th́ bị cháy c̣ng queo nằm gần cửa. Bà con t́m măi không thấy xác đứa trẻ bốn tháng tuổi, chắc bị cháy tiêu, thân thể nhỏ bé quá mà!

Nhận được những tin dữ đó, Na chỉ biết khóc, khóc tới nỗi nước mắt dường như không c̣n để chảy – nước mắt khô.

Na bỏ cả ăn uống và khô héo dần, tôi và đồng đội phải năn nỉ khuyên nhủ măi.


***

Sau giải phóng 1975, tôi và Na nhiều lần tới bến Bà Lụa. Đă hơn hai chục năm rồi, cảnh cũ không c̣n, nền cũ của hai căn lều cũng không thể t́m ra v́ một con đường lớn đă băng ngang, hai bên đường mới tráng nhựa đó có nhiều nhà tôn nhà gạch, lác đác vài biệt thự vườn.

Vợ chồng tôi vào những nhà đó hỏi thăm, nhiều người không biết. Có đôi ba người biết, th́ họ cũng không biết nhiều bằng tôi với Na.

Chỉ có bờ sông là cũ. Nước sông vẫn trôi.

Na bày trái cây ra dĩa, nước mắt rưng rưng. Tôi thành kính thắp nhang rồi cắm bên bờ sông, hai chúng tôi im lặng, nh́n về kỷ niệm đau xót.

Tôi và Na không nói ra, nhưng có lúc nghĩ: Thôi ḿnh tránh về nơi này, v́ mỗi lần về, nh́n cảnh mới nhớ cảnh cũ, nh́n sông rồi lại khóc. Chỉ cần đi ngang qua xa xa bến Bà Lụa thôi, những kỷ niệm đau xót lại ùa về, nghẹn ngào, chất ngất!

Nghĩ vậy nhưng hai vợ chồng tôi lâu lâu vẫn rủ nhau về chốn cũ, để được nhớ, để được đau buồn. Chúng tôi muốn quên nhưng không được.


***

Cho tới một sáng, Na đánh thức tôi dậy, nói: “Đêm qua em mơ thấy Huân về, gương mặt sáng rỡ, vui lắm anh à.” Tôi ngước nh́n tờ lịch, gật đầu: “Ờ… Ảnh về nhắc đó. Mốt giỗ ảnh rồi. Em chuẩn bị, mai gia đ́nh ḿnh đi.”

Sớm hôm sau, tôi chở Na bằng xe honda, hai đứa con gái sinh đôi của chúng tôi cũng chở con nhỏ của chúng theo. Gia đ́nh chúng tôi có mặt ở bến Bà Lụa sớm, mới hơn 6 giờ. Từ xa, chúng tôi thấy một chiếc xe hơi bóng lộn đậu sát đường bờ sông, có ba bốn người đang lúi húi thắp hương phía dưới.

Gió sông thổi cuộn lên làm tôi chợt rùng ḿnh! Có ǵ đó trùng hợp? Linh tính, tôi xuống xe bước lại gần phía họ…

Một thanh niên trên dưới ba mươi đang đốt nhang, một ông tóc bạc và một cô gái vận đầm chắp tay đứng bên, thêm một thanh niên nữa trẻ hơn – chắc là tài xế đang rảo quanh. Tôi giật ḿnh khi thấy người thanh niên cúi xuống, để lộ vết chàm sau cổ phía bên trái…

Tôi hồi hộp bước nhanh lại, người thanh niên cao lớn cũng quay lại. Trời ơi! Gương mặt giống hệt Huân ngày xưa.

Tôi xin kể nhanh tóm tắt đoạn kết xúc động này: Đứa bé 4 tháng tuổi đêm đó không chết, nó được cứu sống một cách thần kỳ. Ông đại úy chỉ huy sau đó ra lịnh đốt hai căn lều cộng sản, đám lính hăng máu c̣n xả súng bắn vô. Viên trung úy bỗng nghe tiếng trẻ nít khóc liền liều ḿnh lao vào. Trong khói lửa mù mịt, anh ta thấy một bà già nằm gục trên miệng hầm, phía trên là tấm phản đang cháy, có tiếng trẻ khóc thét dưới hầm…

Đứa nhỏ có vết chàm sau cổ đó là chàng thanh niên bây giờ. Cha nuôi anh là trung úy An ngày xưa. Sau giải phóng 1975, trung úy An đi học tập cải tạo, 5 năm sau về được sang Mỹ theo diện HO, gia đ́nh được đi theo.

Viên trung úy xưa giờ tóc bạc trắng, hơn tôi vài tuổi, ông ta tiến tới bắt tay tôi, nh́n vợ tôi đăm đăm: “Na… Có phải bà Na không?…” Vợ tôi run run gật. Ông ta thốt lên: “Trời ơi! Tôi cứ tưởng bà mất rồi! C̣n ông đây?…”

Tôi lúc đó đứng như trời trồng, hỏi ǵ trả lời đó, rồi cứ để họ khóc, họ nói, họ kể…

Ông An nói như reo: “Cuộc hội ngộ không thể ngờ! Trời thương! Sung sướng quá! Tôi về là đúng. Đúng quá! Tôi trả lại con cho ông bà đó…”

Rồi ông ta giăi bày: “Tôi quyết định về nước để thăm lại nơi này, nơi tôi đă gây ra tội lỗi. Suốt bao năm nay tôi cứ áy náy, cắn rứt. Tôi đă cố giấu nhưng cuối cùng cũng phải kể lại sự thật cho con nuôi nghe. Tôi thương nó c̣n hơn con ruột.”

Sau đó, trong cuộc rượu tại nhà vợ chồng tôi, ông An đă say say, kéo riêng tôi ra, tâm sự:

– Ông biết không? Tôi thoát chết nhờ đi phép. Chính điều này làm Pḥng nh́ nghi ngờ tôi có móc nối với cô Na. Họ âm thầm điều tra thử thách tôi, bằng cách phân công tôi phục kích chồng cô Na – dĩ nhiên sếp tôi là đại úy chỉ huy trực tiếp giám sát – Lúc đó tôi nào có biết. Tới khi gặp lại ông đại úy đó nói tôi mới biết. Chiến tranh ghê gớm thiệt! Ông và tôi đều được dạy phải bắn nhau. Nhưng t́nh người mà, làm sao bắn được người ḿnh thương, ḿnh quen, phải không ông?

Đêm đó, khi thấy chiếc ghe nhỏ ra, nh́n dáng phụ nữ trên ghe tôi đoán là cô Na. Đại úy sếp tôi hô bắn, th́ tôi bắn, nhưng chếch mủi súng xuống sông hoặc hướng lên trời…

Rồi tôi cứu thằng nhỏ cũng v́ t́nh người. Tôi từng ôm hun nó mà. Ông đại úy sau đó có hỏi th́ tôi cũng nói vậy. Tới đâu th́ tới. Cha mẹ nó mất rồi, tôi cũng thấy ḿnh có lỗi. Ông ta nghe rồi lặng im.
Ông uống thêm ly nữa với tôi đi. Tôi sẽ nói tiếp ông nghe, nói cho bằng hết, rồi ông suy nghĩ tiếp giùm tôi… Ḿnh già rồi!…

Nếu bữa đó tôi không đi phép, tôi bị bắn chết th́ ai có lỗi? Ai cứu đứa nhỏ tội nghiệp sau này?… Tôi cứ suy nghĩ lung tung như vậy… Cuối cùng là bế tắc, tôi đổ cho số mệnh…

Ông uống thêm ly nữa không?… Không uống th́ tôi uống nghe?…

Tới hôm nay may mắn gặp được ông, được ông bà cho phép thắp nhang trước vong linh ông Huân, tôi thấy ḷng ḿnh có chút thanh thản ông à…

Thằng Tuấn con nuôi tui đó… Con ông bà đó… Nó giỏi lắm!… Hiền lắm!…

Ông An nói tới đó rồi gục gặt đầu, gục luôn xuống bàn, ông uống say v́ vui. Tôi cũng vui.

Làm sao tôi trả lời được câu hỏi từ những suy nghĩ lung tung của ông? Từ trường hợp tôi, trường hợp ông, và nhiều người khác nữa, tôi nghiệm ra rằng: Con người ta không thể đoạn tuyệt với quá khứ của ḿnh, dù quá khứ có đen tối hay đau đớn.

Chính điều đó thúc giục vợ chồng tôi, thúc giục ông An phải về đây mà cúi lạy mảnh đất này.


PHAN ĐỨC NAM