PDA

View Full Version : Cưỡi Ngọn Sấm



Twelve
16-09-2019, 08:27
Cưỡi Ngọn Sấm - Ride The Thunder

Ban Dịch Thuật: Lư Văn Quư - Nguyễn Hiền - Nguyễn Hoàng Diệu - Trịnh B́nh An

https://i.postimg.cc/LhmLZQsZ/cuoingonsam.jpg (https://postimg.cc/LhmLZQsZ)

Một câu chuyện về Danh Dự và Vinh Quang trong cuộc chiến Việt Nam

Richard Botkin
(Bản dịch của Lư Văn Quư & Nguyễn Hiền)

Lời nói đầu của Ban Biên Tập

Được sự ủy thác của Richard Botkins và Trung tá TQLC Lê Bá B́nh, một trong những nhân vật chính trong cuốn sách "Ride The Thunder," Ban Biên Tập Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y đang tiến hành công việc dịch thuật tác phẩm này qua tiếng Việt.

Nhằm cho bản dịch ít bị sai sót và giữ được sự trung thực, chúng tôi xin đón nhận mọi ư kiến đóng góp của quư độc giả. Xin chân thành cảm ơn quư vị.

Vài lời Giới thiệu về “Cưỡi cơn Sấm sét”

Vài lời Giới thiệu về “Cưỡi cơn Sấm sét”
của tác giả Richrad Botkin (2009)


https://i.postimg.cc/PvGwJKN2/Richard-Botkin.jpg (https://postimg.cc/PvGwJKN2)
Richard Botkin

Cuốn sách 652 trang với 42 chương nhỏ liên kết —“Ride the Thunder”— của tác giả Richard Botkin theo như nhận định của bài viết với tựa đề “Finally! A war story the state-run media hate to reveal” (Cuối cùng ! Một câu chuyện về Chiến tranh mà giới Truyền thông của Nhà nước Căm ghét không muốn Tiết lộ”) trên trang mạng WorldNetDaily Exclusive của tác giả Chelsea Schilling vào ngày 5/07/2009, là một phản ảnh tiêu biểu, mạnh mẽ về sự nhận thức mới của dân chúng Mỹ trước những sự thật vốn bị ém nhẹm bởi chính quyền Nixon lúc bấy giờ. Và tác giả bài viết trên đă nhấn mạnh thêm sau tựa đề với ngay câu đầu: “Forget what you think you know, here’s the real Vietnam account” (“Hăy quên đi điều ǵ bạn nghĩ là bạn biết, đây là bài tường thuật thật sự về vấn đề Việt Nam”).
Qua đó, người ta có thể h́nh dung ra rằng chắc chắn có những ǵ rất bí ẩn trong cuốn sách đó của tác giả Botkin. Từ phần đầu, tác giả đi một ṿng lịch sử sơ lược về miền Nam Việt Nam, cũng như những ảnh hưởng phổ biến từ Hoa Kỳ lan tràn vào miền Nam lúc đó qua phong trào hippie và những loại âm nhạc khác lạ, kỳ quái nhưng được ưu chuộng theo hoàn cảnh thời đại lúc bấy giờ. Tác giả cũng phát họa khá nhiều về nền văn hóa Mỹ để cho đọc giả có cái nh́n đúng từ nguyên nhân gốc của sự kiện chống chiến tranh hay c̣n gọi là phong trào phản chiến. Và nó không chỉ thu hút giới trẻ Hoa Kỳ, mà c̣n lan tỏa khắp thế giới, ngay cả miền Nam Việt Nam. Từ mục đích ban đầu là phản chiến –mang tính chất kêu gọi ḥa b́nh, chấm dứt Chiến tranh Việt Nam giữa hai miền– nhưng sau nầy trở thành mủi giáo cho Cộng sản dung túng tuyên truyền thêm hầu đẩy Mỹ ra khỏi cuộc chiến để họ dễ bề chiếm lấy miền Nam Việt Nam hơn là một nền “ḥa b́nh” đích thực giữa hai miền.
Tuy là thế, với hiệp định Paris vào năm 1973 đă kết án tử cho chính quyền miền Nam Việt Nam qua chính bàn tay của một nước từng là đồng minh theo cam kết, Hoa Kỳ và của một nước đầy nham hiểm, ḷng tham, Trung Cộng, những binh lính của Việt Nam Cộng ḥa cũng đă chiến đấu tận lực, hy sinh xương máu từ những vùng xa xôi cực bắc của miền Nam Việt Nam –nhưng ít mấy ai để ư đến, nói chi đến hiểu biết, ngoại trừ vài tờ báo nhỏ chạy tít hàng đầu giữa biển sa mạc truyền thông to lớn, đầy uy thế, nhưng không bao giờ quan tâm đến. Bởi lẻ, những sự kiện đó không được xem là thích ứng với t́nh h́nh “nóng bỏng” ở quê nhà của họ. Có nghĩa là không đáng quan trọng ! Mà c̣n bị hạ thấp hơn mức quan trọng tối thiểu của sự kiện. Họ chỉ muốn một điều là phải chấm dứt chiến tranh dù là bỏ cả miền Nam Việt Nam, cả những ǵ mà chính phủ Hoa Kỳ từng tuyên bố cam kết, bỏ mặc Quân đội VNCH có đủ vũ khí hay không. Những điều đó, bấy giờ là chuyện của miền Nam Việt Nam, chẳng dính líu ǵ đến Hoa Kỳ nữa. V́ họ muốn và rất muốt rút hết tất cả quân nhân chiến đấu của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt.
Nhưng cuộc chiến có thực sự đă chấm dứt đối với Mỹ hay không, là điều mà tác giả muốn gởi ư tưởng đến đọc giả. Bởi v́ vết thương đó ăn đă quá sâu vào da thịt những sĩ quan VNCH sau những cuộc cải tạo trả thù của Cộng sản kéo dài những đến hơn 10, 12, 15 năm, sau khi cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam. Những vết thương sống động đó gợi lại những vết thương vốn tưởng đă lành mặt, tiềm ẩn trong những cựu quân nhân Hoa Kỳ, bao gồm cả những cựu quân nhân từng là thành viên trong phong trào phản chiến ở Mỹ.
Một cuốn sách có khả năng đánh đổ những ư tưởng quá hời hợt của quần chúng Mỹ mà qua đó tạo nên sức ép nặng nề cho cuộc rút quân ào ạt của Hoa Kỳ. Thậm chí, xoa tay sạch sẽ trước vấn nạn viện trợ về vũ khí của chính quyền ông Thiệu để chống lại mưu đồ của kẻ thù chung của thế giới tự do là Cộng sản quốc tế. Và trong đó, tác giả nêu cao những tinh thần chiến đấu của một số quân nhân TQLC tiêu biểu của Hoa Kỳ, những người dám hy sinh v́ chính nghĩa và những quân nhân TQLC Việt Nam nói riêng, những người chấp nhận gian khổ và sẵn sàn hy sinh cho đất nước ḿnh v́ họ luôn tin tưởng rằng cơ hội giành được chiến thắng cũng không xa trừ khi Hoa Kỳ vẫn giữ được sự kiên nhẩn trong sự hỗ trợ cho họ.

Những suy tư đó được phản ảnh qua 3 nhân vật chính là Đại úy John Ripley, Trung tá Gerry Turley, và Thiếu tá Lê Bá B́nh thuộc Quân đoàn TQLC. Ḷng vào những khoảng thời gian sôi động đó là những h́nh ảnh gia đ́nh thân yêu của họ, những cuộc sống thật, những nền văn hóa khác nhau. Và cuối cùng là những sự thật về một nước Việt Nam sau ngày được gọi là “thống nhất” mà những người Mỹ phái tả cũng phải im hơi lặn tiếng hay nói đúng hơn là những gi mà họ cổ vũ trước đây hoàn toàn không mang chút ǵ là “Danh dự và Ḥa b́nh” cho Hoa Kỳ hơn là sự cay đắng kéo dài, khắc sâu trên Bức tường Đen tưởng niệm cho những chiến binh Mỹ đă hy sinh cho Chiến tranh Việt Nam mà qua đó khiến cho những quân nhân Mỹ c̣n sống luôn măi cảm thấy một sự ân hận khó tả nào đó. Và điều đó càng ngày càng gia tăng hơn khi làn sóng “Thuyền nhân” Việt Nam vượt biên t́m tự do với khoảng hơn phân nửa số người không bao giờ đến được bến bờ, và tiếp theo sau là làn sóng “H.O.” của những cựu sĩ quan, nhân viên chính quyền xưa kia của miền Nam Việt Nam mang thêm làn gió sự thật xua đuổi đám mầy mù luôn bám lấy trong đầu những người dân Mỹ về cái nh́n quá sai lạc trong Chiến tranh Việt Nam.
Dù là thế nào khi kết cuộc, th́ những lỗi lầm nào đó mà chính quyền Hoa Kỳ gây ra cho miền Nam Việt Nam cũng sẽ là một hiện t́nh khốn nạn nhất mà nó chỉ muốn lăng quên. Nhưng lịch sử không cho phép dân chúng Mỹ luôn bám lấy những cái nh́n sai lầm về Chiến tranh Việt Nam và v́ thế cuốn sách “Cưỡi cơn Sấm sét“ như là một vị thẩm phán đang chất vấn chính lương tâm của họ.

MNYN


CƯỠI NGỌN SẤM
Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam

Trịnh B́nh An


https://i.postimg.cc/ZCWDN5fg/cuoingonsam2.jpg (https://postimg.cc/ZCWDN5fg)


Cưỡi Ngọn Sấm kể lại câu chuyện có thật về t́nh “huynh đệ chi binh” hiếm có của một toán nhỏ cố vấn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Ḥa trên một mặt trận hết sức đặt biệt của Chiến Tranh Việt Nam: Quảng Trị – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ của cả hai bên nên dù bị đẩy vào một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt họ vẫn làm nên một chiến tích lẫy lừng: chặn đứng bước tiến của Cộng quân tại cầu Đông Hà.
Tinh thần chiến đấu dũng cảm của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trong trận đánh 1972 đă thể hiện trọn vẹn trên khắp các vùng bị Cộng quân tấn công. V́ thế phải cần nhiều cuốn sách mới có thể ghi nhận đầy đủ về t́nh h́nh chiến sự cũng như về nhân cách của các chiến sĩ đă tham gia trận đánh.
Riêng tác phẩm “Ride The Thunder” của Richard Botkin chú trọng tới mặt trận Quảng Trị – Đông Hà trong đó câu chuyện xoay quanh ba nhân vật chính: Trung Tá Gerry Turley, Đại Úy John Ripley và Thiếu Tá Lê Bá B́nh.

https://i.postimg.cc/pyJnBfS5/cpt-John-Ripley-Lt-Col-Gerald-Turley.jpg (https://postimg.cc/pyJnBfS5)

Trung Tá Gerry Turley có mặt trong Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật Ái Tử hai ngày trước cuộc tấn công trong một cuộc viếng thăm b́nh thường dự tính chỉ chừng vài ngày. Nhưng khi cuộc chiến nổ ra, ông được cấp chỉ huy gọi riêng và trao cho quyền tạm thời đảm trách toàn bộ hoạt động tại trung tâm này.
Đại Úy John Ripley vốn là một “skipper”- sĩ quan chỉ huy, của Đại Đội Lima 6 TQLC Hoa Kỳ tại VN. Ông trở thành cố vấn cho Tiểu Đoàn 3-Sói Biển TQLC cuối năm 1971. Ông đă sát cánh với hơn 700 chiến sĩ VNCH đồn trú tại căn cứ Alpha 2 nằm trong tỉnh lỵ Đông Hà.

https://i.postimg.cc/gw1BNFns/ttlebadinh.jpg (https://postimg.cc/gw1BNFns)
Trung Tá Lê Bá B́nh

Trung Tá Lê Bá B́nh tŕnh diện Tiểu Đoàn 3 TQLC cuối năm 1962 với chức vụ thiếu úy và đă tham dự nhiều trận đánh trên khắp các vùng chiến thuật. Ông từng được huấn luyện tại Trường Căn Bản Quantico tại Virginia năm 1964. Năm 1972, ông giữ chức vụ Thiếu Tá -Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 3 TQLC.
Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” (tên tiếng Anh: Eastern Offensive) là một kế hoạch táo bạo của Bắc Việt nhằm đánh một trận quyết định để tiêu diệt nền Cộng Ḥa miền Nam đang mất dần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Giữa trưa ngày 30 tháng Ba 1972, quân đội Bắc Việt đă phối hợp bộ binh, thiết giáp, pháo binh cộng thêm hệ thống pḥng không tối tân nhất của Liên Xô đă viện trợ, đồng loạt tấn công 12 căn cứ quân sự VNCH trải dài từ Đông sang Tây trong vùng phi quân sự và từ Bắc xuống Nam sát với biên giới Lào. Những đợt pháo kích đầu tiên nhắm vào các vị trí pháo binh VNCH mà chúng đă rơ. Đàng sau những cuộc pháo kích là hơn 30.000 lính Bắc Việt và – lần đầu tiên tại VN – xuất hiện hàng trăm chiến xa T-54 và PT-76 do Liên Xô cung cấp. Không chỉ hạn chế ở các mục tiêu quân sự, Cộng quân c̣n pháo kích vào các khu đông dân cư nhằm gieo rắc hoảng loạn và phá chặn các mạng lưới giao thông quan trọng, từ đó làm chậm thêm phản ứng của Quân Lực VNCH.

https://i.postimg.cc/cCsVkZ99/mtmuahe72-Quang-Tri.jpg (https://postimages.org/)

Với t́nh h́nh chiến sự thảm hại diễn ra khắp phía Bắc Vùng I Chiến Thuật, Tướng Vũ Văn Giai ra lệnh cho những người Mỹ phải rút ra khỏi TTHQCT Ái Tử. Riêng Trung Tá Gerry Turley, với tư cách là sĩ quan Hoa Kỳ thâm niên nhất, phải ở lại điều hành công việc với một nhóm nhỏ và tiếp tục hướng dẫn các hỏa lực yểm trợ cho đến khi nào tổng hành dinh mới được thiết lập xong. Dĩ nhiên Turley không đồng ư với quyết định ấy với lư do ḿnh chỉ là “một thằng TQLC ghé thăm”. Thế nhưng, cuối cùng “gă TQLC” này vẫn phải nhận lănh trọng trách.
Rạng sáng ngày Chúa Nhật-Lễ Phục Sinh, khi 10 căn cứ hỏa lực lớn đă bị Cộng quân chiếm đoạt, khi xe tăng địch đă tàn phá hết phía bắc sông Cam Lộ-Cửa Việt, khi trong vùng chẳng c̣n mục tiêu nào đáng cho chúng tấn công nữa, Trung Tá Turley nhận ra rằng mũi nhọn tiến công của chiến xa và bộ binh Bắc Việt đang nhắm thẳng tới Đông Hà. Nếu chúng vượt qua được cây cầu này th́ toàn bộ tỉnh Quảng Trị, và rồi Huế, sẽ lọt vào tay bọn chúng. Không cần suy tính lâu, Turley quyết định: bằng mọi giá phải phá nổ cây cầu Đông Hà. Trớ trêu thay, v́ thời tiết xấu không thể xử dụng lực lượng Không Quân để ném bom, do đó cách duy nhất là phải có người trèo lên cầu và đặt chất nổ.


Cầu Đông Hà đă được xây mới bởi “Toán Ong Biển” – một tiểu đoàn Công Binh Hải Quân Hoa Kỳ, vào năm 1967. Đó là một con “mănh long” kiên cố có bộ khung bê tông và thép khổng lồ với những phiến gỗ chắc nịch. Để chống lại sự phá hoại của bọn đặc công, những hàng rào xích sắt và dây kẽm gai được dựng lên dày đặc dưới gầm cầu. Muốn phá hủy cây cầu ấy dù trong lúc b́nh thường cũng không hề là điều dễ dàng, nên khi ra mệnh lệnh cho toán Alpha 2–B́nh/Ripley: “somehow destroy the bridge”, Turley hiểu rơ rằng ông đă kư vào bản khai tử cho họ.
Để đến gần Cầu Đông Hà, toán Alpha 2 đă bắn hư một chiếc xe tăng T-54. Khi thấy Cộng quân không tỏ dấu hiệu tiến lên thêm, John Ripley, Jim Smock và Lê Bá B́nh nhanh chóng chạy tới chân cây cầu. Bộ ba chỉ có chưa đầy 4 tiếng đồng hồ và 500 pound thuốc nổ để thực hiện sứ mạng. Ripley từng được huấn luyện tại trường US Army’s Ranger School. Tại đây, ông đă được học về cách xử dụng chất nổ. Do đó, trong toàn thể binh sĩ nhóm Alpha 2, Ripley là người duy nhất biết cách phá hủy cây cầu. Trước tiên, Ripley đu người qua những hàng rào kẽm gai sắc lẻm. Sau khi nhận khối thuốc nổ do đồng đội chuyển qua rào, ông phải thực hiện công việc khó khăn nhất: leo lên cầu. Với sức mạnh và sự dẻo dai không ngờ, Ripley bám lấy những thanh sắt chữ I, đu người lên, và cuối cùng, ḅ vào trong khoang cầu. Bên dưới cầu là ḍng nước sông chảy xiết, sẵn sàng cuốn phăng đi kẻ nào không may tuột tay rớt xuống. Phải mất 12 lần “đánh đu tử thần”, Đại Úy John Ripley mới đặt được hết toàn bộ khối thuốc nổ dọc theo cầu. Bốn tiếng đồng hồ tưởng chừng vô tận! Và rồi đất trời rung chuyển với một tiếng nổ vang dội. Ngày 2 tháng Tư năm 1972, Cầu Đông Hà bị phá hủy.
“Cưỡi Ngọn Sấm”, tuy nhiên, không phải là câu chuyện chỉ có cơ bắp và hành động, cũng không phải là truyện ca ngợi vài đấng anh hùng theo kiểu phim Viễn Tây. Để kể lại thấu đáo“Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam” th́ bên cạnh những nhân vật sáng chói như Turley, Ripley, Bá B́nh, tác giả đă không bỏ quên những con người khác. Họ là những chiến sĩ Mỹ và Việt như Phillip, Eisenstein, Goggin, Lương, Nhă, Lượm,.. Họ cũng chính là vợ con, cha mẹ của các chiến sĩ đang ngày đêm trông ngóng tin xa như Bunny, Moline, Bành Cầm. Họ c̣n là những người dân bất hạnh vô tên vô tuổi bị Cộng quân tàn sát trên đường chạy loạn mà h́nh ảnh thảm khốc của họ đă đập vào mắt những người lính đang cố thủ tiền đồn. Chính t́nh cảm, suy tư, hành động của những nhân vật tưởng chừng không quan trọng ấy đă tạo nên cái nền vững chắc để rồi trên đó những người anh hùng mới có đủ quyết tâm và dũng khí để làm những điều họ phải làm.
“Cưỡi Ngọn Sấm” – qua 700 trang sách, trong khi kể về Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 nhưng không quên nhắc lại Tết Mậu Thân 1968; trong khi kể về sự thành lập lực lượng Thủy Quân Lục Chiến VNCH nhưng vẫn nhắc đến các cuộc huấn luyện TQLC tại Hoa Kỳ, kể chi tiết về các trận đánh và cũng rất tỉ mỉ trong các vấn đề kỹ thuật. Cuộc sống và tâm tư của thân nhân các chiến sĩ được mô tả cặn kẽ dù đó là Bunny-vợ Turley, Moline-vợ Ripley, hay Bành Cầm-vợ Bá B́nh, cho thấy dù Mỹ hay Việt bất kỳ người vợ lính nào cũng đều phải chịu đựng những thiệt tḥi, lo sợ, đau đớn không khác ǵ nhau.
Những ǵ c̣n đọng lại trong tâm trí những người đă từng thấy, từng nghe, về trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa thường là cảnh tượng kinh hoàng của bom đạn, hỗn loạn và xác chết. Thế nhưng, ít ai biết trong thời khắc đau thương tột cùng ấy đă từng có những câu chuyện cảm động về t́nh người, t́nh chiến hữu mà “Cưỡi Ngọn Sấm: Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam” là một.
***
Người viết bài này thuộc một thế hệ lớn lên sau chiến tranh, trong đời chưa từng nghe một tiếng súng nổ, một tiếng bom rơi dù sống ngay trong ḷng nước Việt từ 1962. Cuộc sống hồn nhiên của đứa nhỏ ấy trong nhiều năm dài có được là do đâu? Nếu như năm 1972 miền Nam bị rơi vào tay Cộng quân th́ nó sẽ ra sao? Những câu hỏi ấy chợt bùng lên sau khi đọc những ḍng máu lệ Ride The Thunder, và rồi cứ ở măi trong đầu…
Phải cần bao nhiêu hy sinh mới có được Tự Do?
Câu trả lời ở những chiến sĩ quyết tâm giữ vững bờ cơi thật đơn giản: Chỉ cần duy nhất một hy sinh – Đó là hy sinh mạng sống của chính ḿnh.

Trịnh B́nh An
Những ngày cuối năm 2014


https://i.postimg.cc/Rq3JkWXX/T-c-gi-Richard-Botkin.jpg (https://postimg.cc/Rq3JkWXX)
Tác giả Richard Botkin

Là cựu Thiếu Tá Thúy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (USMC), từng phục vụ suốt 15 năm (kể cả thời gian trừ bị từ 1980 tới 1995). Hiện đang làm việc cho tổ hợp tài chính Morgan Stanley với chức vụ Senior Vice President, phụ trách phân bộ Quản Trị Tài Sản. Tác giả đă bỏ ra hơn năm năm để nghiên cứu về Chiến Tranh Việt Nam, phỏng vấn hàng trăm nhân vật có liên quan đến cuộc chiến, và cũng đă đến tận Việt Nam để nghiên cứu thêm và quan sát thực tế tại những địa danh như Đông Hà, Quảng Trị, Ái Tử, Khe Sanh.
Một phần tiền bán sách “Ride The Thunder” sẽ được tặng cho hội “Injured Marine Semper Fi Fund”.
Mời nghe Richar Botkin ra mắt sách tại Marines’ Memorial Club.
2013 Meet the Author – Richard Botkin – Extended Version
https://www.youtube.com/watch?v=zwnjNoiN1ag
Nhóm dịch thuật

Lư Văn Quư (California), Nguyễn Hiền (Neitherland), Nguyễn Hoàng Diệu (California) là những cựu sĩ quan Quân Y của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, riêng Trịnh B́nh An(Maryland) lớn lên sau chiến tranh.

Ride The Thunder Movie

Bộ phim tài liệu có diễn viên dựa trên tác phẩm “Ride The Thunder” đă được hăng phim KostersFilms bắt đầu dàn dựng vào tháng Tư 2014 và dự tính sẽ tŕnh chiếu vào cuối tháng Giêng 2015.
Mời ghé thăm trang nhà “Ride The Thunder Movie”
http://www.ridethethundermovie.com/main.html
Mời xem giới thiệu trên YouTube
https://www.youtube.com/watch?v=mWIYPQaGNIw
Cưỡi Ngọn Sấm – Tập I
CreateSpace Independent Publishing – 368 trang – giá 22.26 USD
Mua sách trên trang điện tử: Amazon.com
Hoặc gởi email cho Trịnh B́nh An tại: ustrinhbinhan@gmail.com

https://i.postimg.cc/qhBBp5s8/hinhphim-CNS.jpg (https://postimg.cc/qhBBp5s8)

Chương 1

Hồng Thủy Triều

Bản đồ thế giới đang bị nhuộm đỏ dần. Từ thành tŕ nước Mỹ vào cuối năm 1954 nh́n ra ngoài, t́nh h́nh thế giới không được lạc quan chút nào. Căn bệnh ung thư Cộng sản bất trị đă tấy lên và lây lan với mức độ đáng sợ. Liên Sô, Đông Âu, Trung Cộng, Bắc Hàn và bây giờ là đất nước Việt Nam bị chia cắt với bọn Cộng sản thống trị ở miền Bắc đang thèm khát nḥm ngó xuống miền Nam và có lẽ sang cả Lào và Căm-Pu-Chia nữa. Số lượng các dân tộc bị nô lệ tăng dần lên làm lu mờ đi niềm vinh quang của cuộc chiến thắng toàn diện từ sau Thế Chiến Thứ Hai.

Trong khi chủ nghĩa thực dân cũ bị sụp đổ và biến dần đi th́ khoảng trống về chính trị và kinh tế đă tạo ra một thế giới thứ ba trong chiều hướng thù địch với sự h́nh thành non yếu của nền kinh tế tự do và đối với các chính phủ được bầu lên theo thể thức dân chủ. Dưới quan điểm của người Mỹ, khối liên kết Liên Sô-Trung Cộng tựa như một con quái vật khát máu, dị dạng đang nuốt chửng tất cả những ǵ nằm trên đường đi của nó và đang t́m mọi cách để mở rộng ảnh hưởng bằng cách xuất cảng tràn lan chủ nghĩa Mác-xít, giúp các phong trào nổi dậy và cái gọi là "chiến tranh nhân dân."

Tương tự như sự kiện Trân Châu Cảng đă lay động Hoa Kỳ thức tỉnh để ra khỏi sự cô lập và đă thúc đẩy đất nước này một cách toàn diện, tuy không tự nguyện, vào vai tṛ lănh đạo của Thế Giới Tự Do, t́nh h́nh thực tế sau sự kết thúc của các cuộc xung đột lớn vào tháng 9 năm 1945 là yếu tố buộc anh chàng "khổng lồ" miễn cưỡng này phải thận trọng và đầu tư lâu dài của cải, tài nguyên nhân lực ở những mức độ chưa từng thấy hoặc ở mức cần thiết không tưởng tượng nổi nếu trong thời b́nh.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong Thế Chiến Thứ Hai, quá lớn và ṃn mỏi đối với tất cả các công dân Mỹ trên mọi phương diện rất khó mà xác định hay định lượng nổi toàn bộ, đă tạo ra các tiêu chuẩn mới để từ đó các hoạt động quân sự trong tương lai cũng như các phương cách đo lường thắng bại phải được xem xét lại.

Kinh nghiệm trận chiến Triều Tiên mà nước Mỹ tham dự từ tháng 6/1950 cho đến khi đạt được một cuộc ngưng bắn mong manh vào tháng 7/1953 hết sức khác biệt với niềm vinh quang toàn diện của Thế Chiến Thứ Hai mà người Mỹ vẫn c̣n mang trong ḷng. Với cái giá phải trả là hơn 54 ngàn binh lính bị thiệt mạng, hơn 8 ngàn người mất tích v́ công vụ và hàng trăm ngàn người khác bị thương, người Mỹ b́nh thường không có niềm tự hào v́ không thể tuyên bố đó là một sự chiến thắng được. Người nào lạc quan lắm cũng chỉ có thể quan niệm rằng ít nhất nước Cộng Ḥa Đại Hàn vẫn c̣n đứng vững và sự hiện diện của Hạm đội thứ bẩy tại eo biển Đài Loan đă chận đứng các âm mưu của Cộng sản muốn thôn tính Trung Hoa Quốc Gia và có thể ngay cả Nhật Bản nữa. Trong khi sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản đă tạm bị ngăn chận tại vùng Bắc của lục địa Á Châu th́ căn bệnh ung thư tương tự lại bắt đầu phát triển về phía Nam.

Cha của Lê Bá B́nh là người đă tác động nhiều nhất đến ước muốn của anh là được trở thành một sĩ quan trong Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến mới được thành lập.

Ông tên là Lê Bá Sách, sinh năm 1910 tại một làng gần Hà Đông, một thị trấn nông thôn hơi chệch về hướng Nam và Tây của Hà Nội. Thấy ông là một thanh niên thông minh, gia đ́nh đă lo cho ông đi Pháp vào cuối thập niên 1920 để theo học tại một trường đại học kỹ thuật và nhận được bằng kỹ sư. Sau khi trở về Việt Nam vào đầu thập kỷ 1930 ông gia nhập lực lượng Hải quân Pháp đóng tại vùng Sài G̣n. V́ là người Việt Nam, cho nên mặc dù có học, nhưng các cơ hội thăng cấp của ông đă bị hạn chế, do đó ông phải phục vụ dưới khả năng của ḿnh như một hạ sĩ quan trên những chiếc tàu thuyền nhỏ của Hải quân Pháp đồn trú tại đó.

Năm 1930 mẹ vợ của ông Sách chuyển vào sống tại Sài G̣n để trông nom một quán ăn gần vùng Chợ Lớn. Cùng theo với ông Sách vào Sài G̣n là bà vợ mới cưới tên là Cát Thị Dần sinh trưởng từ tỉnh Sơn Tây gần Hà Nội. B́nh được sinh ra năm 1937 và là người con trưởng trong số bốn người con của một gia đ́nh Phật giáo truyền thống.

Một phần đất của Đông Dương thuộc Pháp sau này trở nên nổi tiếng đối với thế giới với tên gọi Việt Nam được tạo nên bằng ba khu vực riêng biệt. Ở phía Bắc, ngay bên dưới và tiếp giáp với Trung Quốc, là xứ Bắc Kỳ với nét đặc điểm địa lư chính yếu tác động đến dân cư là châu thổ sông Hồng. Về phía cực nam là vùng Nam Kỳ. Giống như miền Bắc, đặc điểm chính yếu của nó là khu vực đồng bằng to lớn hơn và là vựa lúa ph́ nhiêu của gịng sông Cửu Long hùng vĩ. Ở giữa hai vùng là miền Trung Kỳ với cái tên Annam là một vùng khó nhọc nuôi dưỡng dân cư ít hơn nhiều, với các cánh đồng dọc ven biển chật hẹp và chúng nhanh chóng biến thành núi rừng nếu ta di chuyển về hướng Đông qua Lào hay Căm-Pu-Chia.

Những kỷ niệm sớm nhất của Lê Bá B́nh lúc c̣n thiếu thời chắc phải bao gồm các hồi ức về sự chiếm đóng của quân đội Nhật. Trên thực tế th́ cái gọi là Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á chẳng mang lại thịnh vượng ǵ cho người dân sinh sống tại Đông Dương. Rất nhiều lần cậu bé B́nh đă thấy những tên lính Nhật vung kiếm chặt đứt tay một số người dân ngoài phố chợ Sài G̣n chẳng biết v́ lư do ǵ.

Trong những cuộc du hành trong nước, ông Lê Bá Sách đă tận mắt chứng kiến một viên sĩ quan Nhật dùng kiếm chặt chân một ông già phu xe v́ tội không cung kính hoặc v́ đă di chuyển chậm chạp kém nhiệt t́nh. Tại quê nhà Hà Đông của ông có một phụ nữ lớn tuổi vốn đă từng bán gạo cho đạo quân Nhật Hoàng dùng để nuôi ngựa. Khi có một con ngựa trong đám bị chết sau khi ăn gạo do bà bán, bà già bị lôi ra và nhét tươi vào bụng mổ toang của con vật đă chết. Sau khi nhồi nạn nhân vào bụng xác con vật xong, bọn lính khâu lại và đứng chung quanh cười giỡn khi thấy xác con vật quằn quại với nhịp độ yếu dần khi bà già bị chết ngạt bên trong. Người dân xứ Đông Dương đă học một bài học đắt giá là quan thầy thực dân Pháp của họ không phải là siêu nhân. Khi làn sóng chiến tranh chuyển hướng bất lợi cho người Nhật và ṿng vây các tiềm thủy đĩnh Hoa Kỳ chung quanh các ḥn đảo Nhật Bản siết chặt dần, nhu cầu phải nhập cảng lương thực tăng vọt lên. Người Nhật thâu tóm hết ngũ cốc từ những vựa lúa mầu mỡ của sông Hồng và, ở mức độ thấp hơn, từ vùng sông Cửu Long để chuyển về nước. Tuy không có những thống kê chính xác nhưng các ước tính hợp lư cho biết trong giai đoạn 1944-1945 chỉ riêng miền Bắc đă có khoảng hai triệu trong số 10 triệu ngựi dân đă thiệt mạng từ nạn đói gây ra bởi kẻ xâm lược và nạn hạn hán lại c̣n làm cho t́nh h́nh tồi tệ thêm. So với Trung Hoa lúc đó cũng phải chịu đựng cảnh khốn cùng trong tay người Nhật, Việt Nam có lẽ đă phải trả cái giá cao hơn cho việc bị ép buộc gia nhập vào khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á. (Các sự phỏng đoán được chấp nhận cho thấy số lượng người Trung Hoa bị thiệt mạng trong Thế Chiến Thứ Hai vào khoảng 10-12 triệu người kể cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Với một dân số khoảng 500 triệu vào lúc đó, gần 2% người Trung Hoa đă chết. Dân số Việt Nam ước tính cho ba miền Bắc, Trung và Nam vào khoảng gần 30 triệu mà đă có tới từ một đến hai triệu người chết tức từ ba đến sáu phần trăm dân số bị thiệt mạng. [Theo các nguồn tài liệu khác nhau]).

Trong cuộc họp cuối cùng của nhóm Tam Cường tại Postdam vào tháng 7/1945, Truman, Stalin, Churchill và các ban tham mưu của họ đă làm nhiều hơn là chỉ bàn thảo việc t́m kiếm kết quả cuối cùng cho cuộc chiến tại Âu Châu cũng như hoàn thiện chiến lược đánh bại nước Nhật. Trong các vấn đề phụ thuộc đối với các nước khác nhưng lại có ảnh hưởng đối với Đông Dương là thỏa thuận khi cuộc chiến chấm dứt tại vùng Thái B́nh Dương. Quân đội Trung Hoa Quốc Gia sẽ giải giới quân đội Nhật tại miền Bắc xuống tới vĩ tuyến 16. Ở phía Nam, công việc tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật sẽ do các đơn vị của quân đội Anh quốc trong đó có cả binh lính Ấn Độ đảm nhận.

B́nh nhớ lại sự xuất hiện của người Anh và đồng minh người Ấn khi họ đến Sài G̣n. Hai nhóm rất khác biệt với nhau. Nhóm người Anh, mệnh danh là "Tommies" rất vui vẻ, thân thiện và thoải mái trong những lần tiếp xúc với trẻ em Việt Nam. Mặc dù không biết một chữ tiếng Anh nào nhưng B́nh nhận ra ngay một nụ cười và chắc chắn là rất thích thú với cái kẹo mà những người lính trẻ ném cho đám trẻ con đang theo đuôi từng đoàn. Khác với người Anh, và có lẽ v́ họ cũng đến từ một quốc gia nghèo nên người Ấn có vẻ tính toán hơn, tằn tiện, lầm ĺ và chẳng cần biết họ có được cảm t́nh của chủ nhà nghèo hèn người Việt hay không.

Dường như có một yếu tố bất biến trong hơn hai ngàn năm lịch sử được ghi lại của Việt Nam là các cuộc đấu tranh, xung đột, gian khổ và đau buồn quá liên tục đă làm cho con người trở thành quen thuộc luôn với nó. Nước Việt Nam h́nh như lúc nào cũng có chiến tranh, cho dù là chống người Chàm từ Căm-Pu-Chia, người Tầu tràn xuống từ hướng Bắc, hay giữa các bộ tộc Nguyễn và Trịnh trong những trận chiến cốt nhục tương tàn với nhau. Lịch sử dân tộc này suốt hai ngàn năm đầy rẫy các vị anh hùng và anh thư trong cuộc chiến bảo vệ lănh thổ chống giặc ngoại xâm.

Khởi đầu bằng hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn là những người đă chiến đấu và thành lập một vương triều trải dài đến vào tận trong miền Nam nước Tầu vào thập niên 40 trước Công Nguyên, đến Triệu Ẩu vào thế kỷ thứ ba, một phụ nữ Việt Nam tương tự như nữ anh hùng "Jeanne d'Arc" của Pháp, rồi đến Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Lê Thánh Tông cho đến Phan Đ́nh Phùng, văn hóa nước Việt gồm thật nhiều các nhân vật nam và nữ đầy dũng cảm, gan dạ mà gương hy sinh được truyền bá đến tất cả các thế hệ trẻ về sau.

Gần đây hơn cuộc đấu tranh chuyển qua chống lại người Pháp rồi tiếp theo là người Nhật. Nay quân Nhật sửa soạn rút đi, chưa rơ đến lượt kẻ thù nào sẽ thế vào chỗ trống đă được tạo ra. Sự đau khổ, đói kém và chết chóc là những chuyện thường ngày trong chuỗi nhân sinh tại Việt Nam như thể việc sinh ra, niềm vui và sự thỏa măn vậy. Ai có thể khẳng định đời sống dưới thời kỳ Nhật là khổ nhất?

Có thể đúng như vậy thật. Những người không bị mất mạng ngay v́ nạn đói đă trở nên yếu ớt và dễ bị mắc bệnh hơn. Vào năm 1946, một cơn dịch cúm đă cướp đi rất nhiều nạn nhân. Trong số đó có mẹ của B́nh đă chịu đựng căn bệnh trong ba ngày trời trước khi qua đời để lại người chồng, B́nh, đứa em trai và hai em gái của B́nh trong một tương lai không lấy ǵ làm chắc chắn.

Sau khi chịu thất trận nhục nhă dưới tay người Đức trong Thế Chiến Thứ Hai, nước Pháp chỉ lăm le muốn đưa các thuộc địa cũ của ḿnh về lại t́nh trạng tiền chiến. Trong khi nước Anh cùng chia sẻ ư định đó th́ người Mỹ không có khuynh hướng phục hồi lại chế độ thực dân của thế giới cũ. Tuy nhiên v́ làn sóng chủ nghĩa Cộng Sản đang dâng lên trên lục địa châu Á nên dường như không có nhiều sự chọn lựa lắm. Hồ Chí Minh được xem như là một viên gạch nữa đắp thêm vào khối đá Cộng sản đang lớn mạnh dần. Ngoài ra sau khi bị mất Trung Hoa và tiếp theo là trận chiến ở Triều Tiên, sự hỗ trợ của nước Mỹ đối với người Pháp là một sự chọn lựa tất nhiên và khẩn cấp.

Phong trào người Việt Quốc Gia nóng ḷng đấu tranh tháo bỏ ách thực dân trên thực tế đă diễn ra từ trước khi quân đội Nhật nắm quyền hành tại vùng Đông Dương thuộc Pháp. Hồ Chí Minh mà sau này được thế giới coi như là đại diện của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam thực chất chỉ là nhân vật c̣n sót lại sau khi đám lâu la của hắn đă ám sát hết những ai có thể là mối đe dọa cho vai tṛ lănh tụ của hắn ở phía Bắc. Tại miền Bắc, nhất là sau chiến tranh, các phong trào quốc gia không theo Cộng sản hoặc là bị thanh trừng một cách tàn bạo bởi tay sai của Hồ Chí Minh, hoặc phải hợp tác với người Pháp và bị mang tiếng tiếp tay cho ngoại xâm. Cộng sản chẳng khó khăn ǵ tuyên truyền khép tội những người chống đối bọn chúng là họ đánh mất chính nghĩa và không thật ḷng yêu nước. Chúng cho rằng những người này chỉ là công cụ và bị Pháp giật dây, mà trong một vài trường hợp điều đó lại đúng. Những lời kết tội này cũng được áp dụng đối với người Mỹ và những người nhận sự giúp đỡ của Mỹ từ 1954 trở đi.

Người Pháp ít đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao vai tṛ lănh đạo về chính trị và quân sự của người dân Việt Nam thành thử vai tṛ chỉ huy có vẻ đi theo thuyết Darwin tức luật sống c̣n của sự tàn nhẫn, xảo quyệt và tham nhũng trong cả miền Bắc lẫn miền Nam.

Các phong trào quốc gia khắp lục địa Á Châu có vẻ được kích thích từ sau chiến thắng của nước Nhật đối với người Nga vào năm 1905. Không có nơi nào mà dân bản xứ lại nóng ḷng giành độc lập mạnh hơn là Đông Dương. Tuy nhiên ngoại trừ mục đích chung là đánh đuổi người Âu Châu, ít khi có vấn đề nào khác mà các nhóm quốc gia khác nhau lại có thể đồng thuận với nhau. Trong khi người Kinh chiếm khoảng 80% dân số các vùng miền Bắc, Trung và Nam Bộ th́ có vào khoảng 50 nhóm thiểu số khác được phân bổ suốt dải địa dư dài và hẹp của cái quốc gia phôi thai đó. Những người gốc Hoa là nhóm thiểu số lớn nhất. Bao gồm gần 2% dân số, sự tập trung của họ ở những khu vực đô thị và sự thống trị của họ trong ngành buôn bán đă tạo cho họ một sự ảnh hưởng vượt mức tương xứng với dân số. Những người Thượng, H'mông, Nùng, và những sắc tộc thiểu số khác thường thấy nhiều hơn ở những vùng biên giới và núi đồi xa xôi.

Tinh thần quốc gia lên cao nhất tại Việt Nam vào cuối những năm 1920. Giới công nhân Việt Nam từ những người thợ trong kỹ nghệ may mặc đến những người phu xích lô đă tổ chức được các cuộc đ́nh công lớn với một vài thành công nhất định. Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội, với khuynh hướng thiên cộng rơ rệt, đă được thành lập bởi Hồ Chí Minh tại miền Nam Trung Quốc vào năm 1925. Tháng Mười Hai năm 1927 Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) được thành lập. Các thành viên bao gồm hầu hết là những sinh viên, công chức cấp thấp, các binh lính, nông dân, và thậm chí có một số điền chủ cũng tham gia [1]. VNQDĐ được phỏng theo mô h́nh Quốc Dân Đảng của Trung Hoa, và bị Cộng sản cho là một đối thủ trực tiếp nhất. Vào tháng Sáu năm 1929 Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) chính thức ra đời. Cùng với Hồ Chí Minh, những người khác hiện diện ở ngày khởi đầu của đảng bao gồm Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng, là những người vốn sẽ đảm nhận những vai tṛ quan trọng trong các vấn đề của Đảng Cộng Sản trong cuộc đấu tranh sắp tới bên cạnh người đàn ông một thời được biết đến như là Nguyễn Ái Quốc hoặc “Nguyễn Patriot.” (Hồ Chí Minh từ lúc đầu được người ta biết đến bằng nhiều tên họ khác nhau).

ĐCSĐD xuất hiện ngay khi cuộc Đại Khủng Hoảng tàn phá khắp toàn cầu. Tại vùng Đông Dương thuộc Pháp sự suy thoái kinh tế toàn thế giới làm gạo và cao su bị mất giá, cũng như ngành xuất cảng bị suy giảm, làm cho biết bao nhiêu người bị mất công ăn việc làm, mất nguồn thu nhập hoặc phương tiện để nuôi sống gia đ́nh. Chủ nghĩa Cộng sản v́ vậy trở nên hấp dẫn và đà ảnh hưởng tăng nhanh đối với những người bị mất định hướng đó.

Các hoạt động chính trị này đă gây được sự chú ư của giới cầm quyền người Pháp, họ đă đầu tư rất nhiều các phương tiện về cảnh sát và quân đội nhằm đàn áp các nhóm quốc gia mới nổi lên. Ảnh hưởng của ĐCSĐD mạnh nhất tại miền Bắc. Trong khi đó tại miền Nam th́ sự phát triển kém hơn v́ có các nhóm khác chia sẻ ảnh hưởng của họ. Với tinh thần chống Pháp và đ̣i độc lập không kém ǵ đảng Cộng sản, Ḥa Hảo và Cao Đài đă thu hút được một tỷ lệ lớn những người yêu nước muốn dấn thân (*)

Khi Đức Quốc xă và Liên Sô kư kết thỏa hiệp bất tương xâm vào tháng 8 năm 1936, nước Pháp ban hành đạo luật đặt đảng Cộng sản và tất cả các đảng phái chính trị khác tại Đông Dương ra ngoài ṿng pháp luật. Hành động này buộc ĐCSĐD phải rút hoạt động về vùng nông thôn và về lâu về dài đă củng cố được lực lượng, đặc biệt là tại miền Bắc [2].

Trong số những khó khăn mà các lực lượng quốc gia c̣n non yếu ở Đông Dương đang phải đối đầu th́ địa dư là một trong những trở ngại ác độc nhất. Từ mỏm cực Bắc của miền Bắc giáp ranh giới nước Tầu cho đến điểm cực Nam của miền Nam Bộ trải dài gần một ngàn mốt dặm, các địa h́nh thay đổi khác nhau và phân vùng tách biệt nhau. Hà Nội và Sài G̣n là hai thành phố lớn nhất vùng Đông Dương nhưng lại cách nhau đến 750 dặm và chỉ được nối với nhau bằng một đường xe lửa tí hon và quốc lộ 1 với nhiều đoạn chỉ là đường ṃn gấp đôi đường xe ḅ mà thôi. Khoảng cách từ Hà Nội đến Sài G̣n giống như khoảng cách giữa các thành phố Denver và St. Louis, Chicago và Charleston, Omaha và Tuscaloosa, Boston và Grand Rapids, Seattle và Santa Cruz, New York và Nashville, Des Moines và Atlanta, hoặc Minneapolis và Little Rock, nhưng cho đến cuối cuộc chiến, vẫn giống như hai thế giới cách biệt nhau. Sự phân cách về địa dư đă tạo cho Cộng sản có cơ hội củng cố lực lượng tại địa phương và trên một b́nh diện nhỏ hơn đối với các nhóm người quốc gia trong miền Nam cũng vậy.

Những sự xáo trộn bởi sự triệt thoái của quân đội Nhật và khả năng tương đối yếu kém của các lực lượng thuộc địa Pháp đă làm cho Hồ Chí Minh và Việt Minh tin rằng họ đă có một cơ hội bằng vàng để hành động. Ngày 28 tháng 8 năm 1945 họ tuyên bố thành lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Hồ Chí Minh được cử làm chủ tịch thứ nhất. Nhằm mở rộng lời kêu gọi, Cộng sản cũng mời Cựu hoàng Bảo Đại tham gia vào chính phủ lâm thời. Những sự kiện tiếp theo đó là hàng loạt các tác động và phản tác động của người Pháp và Việt Minh cuối cùng đă dẫn đến một cuộc chiến tranh mở rộng.

Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng, vốn tách ra từ VNQDĐ, đều nóng ḷng thiết lập một thể chế Cộng ḥa nhưng đều không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Mặc dù đă từng liên minh, tuy lỏng lẻo với Việt Minh để chống lại sự cai trị của ngoại bang tại Việt Nam nhưng vào đầu năm 1946 các đảng viên cao cấp cùng với gia đ́nh họ đă bị phe Cộng sản thanh trừng một cách có hệ thống bằng một loạt các hành vi nhằm loại trừ mối nguy hiểm cho sự cai trị của Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Trong khi đó th́ họ vẫn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Pháp.

Xáo trộn về chính trị là một điều tất nhiên do khoảng trống quyền lực quân đội Nhật đă để lại sau khi họ đầu hàng và rút đi. Liền theo đó là sự trở lại của các lực lượng người Pháp với toan tính tái lập lại quyền thuộc địa. Trước sự kiện có các xung đột nội bộ giữa các phe phái quốc gia với nhau th́ Việt Minh tỏ ra mạnh hơn ở miền Bắc, tuy có kém hơn ở miền Nam. Người Pháp không hề có ư định chịu thua Hồ Chí Minh. Những cuộc thương thuyết của hai bên đă tỏ ra vô ích. Trong khi đó th́ các cuộc đụng độ giữa các đơn vị quân sự đôi bên tăng dần lên. Đến tháng 11 năm 1946 th́ mọi cố gắng để đoạt một thỏa thuận về chính trị bị đổ vỡ. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất như chúng ta biết đến bắt đầu. Mọi sự trở nên rắc rối hơn khi Việt Minh tổ chức ám sát đức thầy Huỳnh Phú Sổ, thủ lănh của phe Ḥa Hảo ở miền Nam. Tiếp theo cái chết của ông th́ cả hai phái Ḥa Hảo và Cao Đài đều hợp tác với người Pháp.

Theo truyền thống văn hóa của nước Việt Nam, Lê Bá Sách để tang vợ, đồng thời là mẹ của bốn đứa con trong ṿng ba năm. V́ c̣n trẻ nên ông tái giá vào năm 1949. B́nh, đứa em trai và hai em gái của ông trong những năm sau đó đă có thêm bẩy người em tiếp theo cuộc hôn nhân lần thứ hai của cha ḿnh. V́ là một gia đ́nh có nề nếp nên tất cả đều ḥa thuận với ngựi mẹ kế.

Đối với hầu hết các nền văn hóa Á Châu, ảnh hưởng của Khổng giáo rất mạnh mẽ. Ḷng sùng bái đối với các bậc trưởng thượng, đối với gia đ́nh và giáo dục đặc biệt quan trọng. Con trai được coi trọng hơn con gái và đứa con trai đầu ḷng luôn luôn đứng hạng nhất trong mọi gia đ́nh. Với tư cách là anh cả, nhiệm vụ duy nhất của B́nh lúc c̣n là một đứa bé là đi học. Do đó từ lúc c̣n rất nhỏ B́nh đă đảm nhận nhiệm vụ ḿnh và học hành chăm chỉ.

Nhà của gia đ́nh B́nh thuộc xóm Tân Định, một khu vực được coi tương đương như là "phố chính" của Sài G̣n mà họ có thể tậu được. Khá gần trung tâm thành phố, chỉ cách sông Sài G̣n vào khoảng vài con đường, đó là một nơi chốn ấm cúng, an toàn cho ông Lê Bá Sách tạo mái ấm cho bà vợ mới cưới và nuôi nấng 11 người con của họ.

Căn nhà của ông Lê Bá Sách khá điển h́nh theo tiêu chuẩn người Việt Nam. Vào thời gian đó có thể gọi họ thuộc thành phần cao của giai cấp trung lưu. Ở tầng trệt ngó ra một cái hẻm hẹp, xe đạp của cả nhà được dựng ngay bên ngoài, chừa đường đi và nằm trong khuôn viên căn nhà. Giày dép luôn luôn để phía ngoài cửa cái rộng và xếp hàng ngay ngắn. Khu vực mà khách khứa hay bạn bè đến chơi và gian bếp chiếm gần hết cái tầng trệt này. Cả nhà ngủ trên tầng hai và ba, tuy nhiên họ cũng giữ một cái bàn thờ truyền thống phía ngoài trên tầng hai, một loại bàn thờ rất thông dụng trong các gia đ́nh Việt Nam dù giàu hay nghèo. Nhang đèn được thắp thường trực và các di ảnh được sắp xếp tùy theo mức độ quan trọng của những người đă quá cố.

Các con hẻm hẹp dẫn ngược từ lộ chính vào được chia ra nhiều ngơ ngách khác khá tối tăm nhưng mở ra vùng trời bên trên. Khoảng đất trống chỉ được chiếu sáng khi mặt trời lên đỉnh đầu lại là khu vực vui chơi chính cho hàng chục đứa trẻ con từ hơn hai chục căn nhà cùng chung con hẻm này. Lối vào duy nhất có một cái cổng hẹp khá chắc chắn, tuy ít khi nào được đóng lại nhưng có thể khóa lại nếu cần. B́nh và đồng bọn thường có nhiệm vụ canh gác nó để chống lại các băng đảng bên ngoài xâm nhập vào trong những lần chơi đánh lẫn nhau. Chúng không dè rằng chính những cái cổng này, rất thông dụng trong khắp các phố ở mọi nơi trong thành phố lại có một tầm mức chiến thuật quan trọng trong cuộc pḥng thủ thực sự để chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng trong cuộc công kích Tết Mậu Thân năm 1968.

Bàn tay vô h́nh của kinh tế tự do rất rơ ràng tại các đường phố Tân Định cũng giống như ở Denver, Detroit, Paris hay Amsterdam vậy. Cũng được thể hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả. Những người bán hàng rong đủ loại đứng rao bán quần áo, nồi niêu xoong chảo, các loại thức ăn và đồ gia vị, gạo bún, trái cây và rau quả trồng tại chỗ, đủ các loại cá bắt gần đó, cũng như thịt lợn và thịt gà xẻ tại chỗ trong xóm. Nếu có một chiếc xe đạp hay đồ đạc máy móc nhỏ cần sửa chữa th́ có sẵn thợ hàn thợ tiện chữa ngay trên vỉa hè. Nếu có vài đồng trong túi, một đứa bé không bao giờ chịu đứng xa nơi bán nước giải khát hay gánh hàng rong. Những người bán hàng rong trái cây liên tục rảo bước trên các con đường, đẩy những chiếc xe ba gác chứa đầy xoài mới hái, đu đủ, sầu riêng và mít tươi. Nếu khát nước th́ đă có sẵn những người bán nước dừa tươi mát lạnh có thể uống thẳng từ những trái dừa đă gọt vỏ bằng những cái ống hút nhỏ. Trẻ con và cả người lớn dễ tính có thể thưởng thức những ly nước mía được ép từ những thân cây mía nhỏ gọt sạch chạy qua những cái máy ép trên lề đường. Những cái máy này này cô đọng được mùi vị thơm ngọt tự nhiên của mía, nhưng cũng làm cho bệnh sâu răng rắc rối thêm.

Công việc buôn bán quay nhanh theo tốc độ đạp mạnh mẽ của những người đàn ông gân guốc, lực lưỡng già cũng như trẻ. Họ có thể chuyên chở và lèo lái những khối nặng kinh hồn cùng những đồ vật đủ loại h́nh dáng mà bằng cách nào đó họ đă xếp lên được những chiếc xe đạp hay chồng chất trên xe xích lô. Mặc dù không mấy ai thật sự cao lớn khỏe mạnh nhưng đối với tất cả những người tháo vát và chịu khó làm lụng th́ luôn luôn vẫn có cái mà ăn. Các con đường chạy ngang khu Tân Định sống động sinh hoạt buôn bán suốt ngày. Ngay cả về đêm, thành phố cũng không bao giờ ngủ mà sinh hoạt dường như chỉ chùng xuống mà thôi.

Bọn trẻ không màng đến các vấn đề chính trị với tất cả những ǵ đang xảy ra trên khắp nước Việt Nam và tại Sài G̣n mà chỉ chú tâm vào việc học hành và nô đùa với chúng bạn cùng xóm. Người thân thiết nhất với B́nh là đứa em tên An, kém hai tuổi. An và B́nh kết bè với những đứa khác trong xóm thành một trong hai nhóm băng đảng. Với lứa tuổi đó và trong thời kỳ ấy th́ mục đích của bọn chúng chỉ là vui chơi, tranh đua về thể thao và chơi những tṛ trận chiến giả. Nếu có lỡ làm đổ máu th́ chỉ là vô t́nh hay hăng máu quá mức mà thôi. Sự thiếu thốn về vật chất hay không có sẵn những loại đồ chơi được sản xuất trong nhà máy không hề làm giảm bớt tính sáng tạo của trẻ con vùng Tân Định.

B́nh, An và lũ trẻ Tân Định suốt ngày đá banh trong các ngơ hẻm và trên những băi trống dọc theo bờ sông bằng những trái banh cao su được sản xuất trong xóm. Giống như những đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, trẻ con Việt Nam cũng chơi bắn bi không chán nhưng điểm khác biệt là viên bi được giữ bằng ngón tay giữa và kéo ngược lại bằng tay kia để tạo ra sức bật.

Đầy sáng kiến hơn nữa, bọn trẻ Tân Định đi thu nhặt những bao thuốc lá bỏ đi làm bằng giấy cạc tông mỏng nhưng khá cứng. Chồng những cái bao thuốc lá này lên nhau, chúng đứng lui ra sau và cố gắng tạt bằng cục đá hay ḥn sỏi. Tương tự như những viên bi, các bao giấy nhỏ này trở thành những tài sản và sở hữu riêng của những tay xạ thủ lỗi lạc, cũng là một cách để đánh giá mức sắc bén về thể chất và sự khéo tay. Đối với hầu hết bọn trẻ trong nhóm th́ bản năng chơi những tṛ chơi về chiến tranh là điều đương nhiên. Cậu bé B́nh và băng nhóm suốt ngày đi rảo trong xóm mang theo súng giả đẽo từ những khúc gỗ có thể bắn ra những sợi giây thun với độ chính xác khá cao.

Thú vui nghe nhạc thu thanh và radio th́ nằm ngoài tầm tay của hầu hết người dân Đông Dương vào khoảng thời gian cuối thập niên 1940 và đầu 1950. V́ vậy nhà của cái gia đ́nh giàu nhất vùng Tân Định mà ông chủ là một người làm công cho chính phủ Pháp được cả xóm chiếu cố bu lại mỗi khi cái máy nhạc Victorola được lên dây cót hoặc cái radio được vặn lên. Mặc dù âm nhạc là một điều ǵ mới mẻ được du nhập từ Pháp hay Mỹ, và bản nhạc có thể chỉ là một bản nhạc xưa, dân ca, hay t́nh ca khá đặc thù đối với người dân ba miền Bắc Trung hay Nam, nhưng những người lớn tuổi lúc nào cũng say sưa mỗi lần nghe tiếng cót két nổi lên từ cái đĩa xoay màu đen hay cái hộp gỗ sơn bóng.

Đối với người dân không có ngày lễ nào của Việt Nam có thể sánh nổi về mức độ trang nghiêm, ư nghĩa, ḷng háo hức và phấn khởi bằng ngày Tết, ngay cả đối với những người không theo đạo Phật. Tết Nguyên Đán - Năm mới âm lịch - bắt đầu từ ngày đầu của tháng Giêng âm lịch và là mùa đầu tiên trong năm. Thường trùng vào khoảng cuối tháng Giêng hay đầu tháng Hai dương lịch, Tết Nguyên Đán vừa mang vẻ thế tục vừa có tính cách thiêng liêng. Ngày lễ quá lớn thành thử tất cả mọi người Việt Nam đều vui hưởng. Tết là một dịp để gia đ́nh, bạn bè thăm viếng nhau, để thờ phụng những người quá cố và là một thời gian để ôn cố truy tân. Đặc biệt đối với trẻ con đó là một thời điểm thật thú vị được đánh dấu bằng những cuộc vui chơi, được ĺ x́ và mặc quần áo mới, được đốt pháo c̣n đồ ăn ngon lại được dọn ra ăn thả dàn.

B́nh rất thích những món ngon trong ngày Tết. Mẹ cậu và các phụ nữ khác thường nấu các món ăn từ nhiều ngày trước và luôn miệng suỵt đuổi những đám trẻ hau háu bu quanh như ruồi chờ một miếng chỗ này, một hớp chỗ kia, lúc nào cũng nôn nao để được ăn thử một cái ǵ đó mà người lớn có thể ban cho. Ngoài bánh kẹo ra, B́nh rất thích bánh chưng - những chiếc bánh h́nh vuông làm bằng gạo nếp, thịt heo và đậu xanh gói trong những cái lá giong rồi bỏ vào nồi nấu. B́nh cũng thích bánh tét - một loại bánh làm bằng gạo nếp gói h́nh tṛn có vẻ giống bánh kẹp xốp hơn. Cho đến khi trưởng thành, đối với B́nh, Tết vẫn luôn luôn là một thời điểm với nhiều điều mừng vui nhất.

Vào khoảng thời gian giữa các năm 1946 và 1952, ông Lê Bá Sách đă đưa gia đ́nh năm sáu lần về quê miền Bắc để thăm mẹ và các ông cậu cùng cách cháu c̣n ở lại Hà Đông. Từ lâu trước 1952 điều hiển nhiên là Cộng sản đă trở thành một lực lượng đáng kể. Đối với ông Sách, sự nhận thức ra rằng Cộng sản đă thống trị miền Bắc là một viên thuốc đắng khó nuốt trôi. Ông đau đớn thấy được là cuộc chiến giữa Việt Minh và người Pháp sẽ làm cho gia đ́nh ông phải trả một cái giá rất đắt.

Ngay trước khi lực lượng Pháp trở lại Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, bà nội B́nh, một điền chủ nhỏ vùng Hà Đông, đă cảm thấy sự đe dọa trắng trợn và áp lực ngày càng nặng nề của bọn cán bộ Cộng sản và lời lẽ tuyên truyền xảo quyệt của họ. Vài năm sau khi bọn tay sai của Hồ Chí Minh tịch thu đất đai của bà để giao cho "Cách mạng và nhân dân" vào năm 1956, chúng lại c̣n tỏ vẻ nhân đạo và khoan hồng đối với bà. V́ thuộc thành phần tư sản ác ôn, điền chủ hút máu đáng lẽ gia đ́nh bà đă bị giết hết, bằng một phát súng vào sau gáy, hoặc bị trói gô lại, đeo đá và thả từ từ xuống đáy ao hồ hay sông sâu rồi. Thay vào đó, bọn chúng bắt bà phải chịu nỗi ô nhục sống sót trong một phần nhỏ cái tài sản cũ của bà - nay đă thuộc về "Cách mạng" - chỉ c̣n là cái chuồng heo hay chuồng gà trước kia.

=============
* Ḥa Hảo là một giáo phái Phật giáo được cải đổi theo cách riêng của người Việt Nam được thành lập ở miền Nam Việt Nam bởi đức thầy Huỳnh Phú Sổ vào năm 1939. Người Pháp quan niệm giáo phái Ḥa Hảo là một mối đe dọa chính trị, tuy nhiên họ chống cộng một cách mănh liệt, đặc biệt là sau khi đức thầy Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh ám sát chết vào năm 1947.
Cao Đài được thành lập vào thập niên 1920 và giống như Phật giáo Ḥa Hảo, cũng là một giáo phái riêng biệt của người Việt Nam. Phát sinh ở miền Nam Việt Nam, Cao Đài là một sự pha trộn giáo lư của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo, và Ấn Độ giáo. Những người muốn theo đạo được kỳ vọng là họ sẽ từ bỏ vật chất nhằm bồi dưỡng sự phát triển tâm linh. Do mang tính chất tôn giáo nên các tín đồ Cao Đài giống như Ḥa Hảo, cũng chống Cộng sản theo truyền thống. Cao Đài dùng những nhân vật đồng cốt và những người thông công tâm linh để dùng trong những buổi Cơ Bút. Những vị thánh quan trọng của Cao Đài bao gồm Trạng Tŕnh, Tôn Dật Tiên, Jeanne d'Arc, René Descartes, William Shakespeare, Victor Hugo và Louis Pasteur.


(C̣n tiếp)

Nguồn : http://www.svqy.org/

Twelve
24-09-2019, 04:35
(Tiếp theo)


Chương 2

Bức Màn Tre Sụp Xuống

Từ 1946 cho đến giữa 1954, lực lượng Việt Minh và quân đội Pháp đánh nhau khắp các vùng Đông Dương nhưng hầu hết các trận đánh nghiêm trọng đều diễn ra tại Bắc Việt. Khi cuộc chiến kéo dài mà không có triển vọng sớm kết thúc và t́nh h́nh thương vong cao dần, ḷng nhiệt huyết của người Pháp đă bị héo ṃn. Trận đánh quyết định cuối cùng tại Điên Biên Phủ ở vùng Tây Bắc - Bắc Việt gần biên giới Lào là một chiến thắng vang dội cho Cộng quân. Mặc dù quân Pháp bị thất trận một cách nhục nhă nhưng sự chuyển tiếp từ chiến trường qua bàn hội nghị ḥa b́nh đă không mang lại sự hài ḷng cho bất kỳ phe nào có liên quan.

Hiệp định Genève bắt đầu từ tháng 5 năm 1954 có sự hiện diện của bốn quốc gia mới của Đông Dương thuộc Pháp trước đây, nước Pháp, Anh, Liên Sô, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Khi các cuộc đàm phán kết thúc vào tháng bẩy th́ một cuộc ngưng bắn đă được thỏa thuận. Vĩ tuyến 17 giữa Quảng B́nh ở phía Bắc và Quảng Trị ở phía Nam có gịng sông Bến Hải chảy ngang ra Biển Đông được chọn làm đường chia cắt Đông Tây, tách rời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (phía Bắc, Cộng sản) và Việt Nam Cộng Ḥa (phía Nam, không Cộng sản). Vùng ranh giới mà sau này thế giới biết đến như vùng phi-quân-sự trên thực tế chẳng có ǵ là "phi" quân sự cả.

Thỏa hiệp ngưng bắn dành một thời hạn 300 ngày để cho mọi người có thể tự do di chuyển giữa hai miền Nam và Bắc mà không bị giới hạn bởi các chính quyền mới. Đến giữa năm 1955 có hơn 1 triệu người dân, phần lớn là Công giáo, đă quyết định nhặt nhạnh những ǵ mang được, bỏ lại hết mồ mả tổ tiên và bao nhiêu thế hệ truyền thống làng xă để ĺa bỏ miền Bắc c̣n hơn là chịu sống dưới chế độ Cộng sản. Trong khi có một số lượng nhỏ không xác định được gồm các cán bộ Cộng sản Mác-Xít tập kết ra ngoài Bắc th́ không có người dân b́nh thường nào ra theo.

Người Bắc di cư vào Nam bằng đường hàng không, đường xe lửa, đường bộ nhưng hầu hết là bằng tầu vận chuyện đường biển. Rất ít người ngoại cuộc biết đến ảnh hưởng và hậu quả của nhóm cộng đồng di cư này đă tác động đến miền Nam như thế nào. Văn hóa và tính t́nh của người Bắc Kỳ thường nghiêm khắc và khó tính hơn bởi họ phải sinh nhai trên vùng đồng bằng sông Hồng khó nhọc. Với làn da nhạt hơn, cách phát âm hơi khác, cách ăn mặc và truyền thống tương đối khác biệt, họ gặp nhiều điều va chạm với người miền Nam vốn dễ tính và nhàn nhă hơn, bởi có thể sinh kế thoải mái từ một vùng mầu mỡ của đồng bằng sông Cửu Long. Vào năm 1955 có thể so sánh điều này với Mỹ nếu 12 triệu dân New York với lối sống hối hả nhộn nhịp đột nhiên được di chuyển vào vùng nông thôn Georgia hay Mississipi mà chỉ nhận được sự trợ giúp tối thiểu hoặc mạng lưới an toàn từ chính quyền trung ương.

Một điều khoản của Hiệp Định Genève vốn được tất cả các phe chấp thuận ngoại trừ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa, là kêu gọi tổng tuyền cử khắp nước Việt Nam vào tháng 7 năm 1956. Với tương quan dân số vào khoảng 16 triệu ngoài Bắc và 14 triệu trong Nam, Hồ Chí Minh và lực lượng của hắn tin tưởng sẽ loại trừ hết các phe chống đối quan trọng và củng cố được miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở lên nên đă vui vẻ đồng ư với các viễn ảnh đó.

Từ giữa năm 1953, khi chiến tranh chưa kết thúc, cho đến tận năm 1956, bọn Cộng sản đă tiến hành hàng loạt những cuộc thanh trừng đẫm máu nhằm loại trừ tất cả những tàn tích của chế độ tư bản một cách tàn nhẫn. Trong những đợt cải cách ruộng đất vào thời kỳ bọn chúng cho rằng trong mỗi làng mạc có vào khoảng 5% dân chúng thuộc thành phần địa chủ và nhóm "nhà giàu" này đă bóc lột 95% số người c̣n lại. Do đó, tài sản của họ đă bị tước đoạt và phân phối lại cho những người c̣n lại này. Đồng thời những vụ giết hàng loạt người trong nhóm 5% có đồng ra đồng vào này được tiến hành một cách chính xác bởi những đội đặc biệt gọi là cán bộ cải cách ruộng đất.
Không có chi tiết chính xác nào về số lượng người đă bị trừ khử trong giai đoạn này, và cũng không có hồ sơ nào về những người bị mất mạng hay bị đe dọa trong các nỗ lực trốn về phía Nam. Báo chí thông tin rất ít và tin tức về những cuộc thanh trừng qui mô này chỉ đến tai người miền Nam bằng những lời kể lại nên không gây chú ư mấy trên các phương tiện truyền thông Tây phương.

Mặc dù rất phôi thai và c̣n xa mới gọi là hoàn hảo nhưng chính quyền mới thiết lập tại miền Nam c̣n tốt đẹp hơn nhiều đối với những người đă nếm mùi Cộng sản. Trong khi hoàng đế Bảo Đại đă lỗi thời chỉ c̣n đứng đầu quốc gia trên danh nghĩa th́ thực quyền nằm trong tay Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm và tay chân thân cận gồm các thành viên trong gia đ́nh của ông. Quyền uy của ông đă phải trực diện với các thử thách mà nó c̣n lớn hơn ở bên phe đối thủ Bắc Việt, và thật là một điều kỳ diệu là, mặc dù với sự trợ giúp của chính quyền Eishenhower, chính phủ non yếu đó đă xoay sở để vượt qua được hết.

Ngay từ khởi đầu, chính quyền Diệm đă bị tràn ngập bởi các thử thách. Báo chí phương Tây vốn không ưa ông đă không khoan nhượng khi tường thuật những sự cố gắng của chế độ ông Diệm để giải quyết bằng quân sự đối với các sự đe dọa từ các nhóm Ḥa Hảo, Cao Đài và các lực lượng Phật giáo khác. Họ hoàn toàn bất tín nhiệm khuynh hướng thiên Công giáo của Thủ tướng Diệm và nhóm những người di cư của ông. Thêm vào cuộc xung đột tôn giáo và văn hóa, và gánh nặng đầy ắp do việc thu hút quá nhiều công dân mới, chính phủ mới c̣n phải đối phó với ảnh hưởng về tài chính và chính trị của nhóm B́nh Xuyên. Nhóm này thực chất là một nhóm thổ phỉ chuyên cướp bóc tàu bè di chuyển trên sông Sài G̣n vào những thập niên 1930 và 1940. Sau Thế Chiến Thứ Hai, B́nh Xuyên được giao đặc quyền tổ chức cảnh sát và khu ăn chơi trong Chợ Lớn, một vùng của người Hoa tại Sài G̣n. Ông Diệm quan niệm B́nh Xuyên, giống như Ḥa Hảo và Cao Đài là một mối đe dọa đối với khả năng lănh đạo đất nước của ông.

Sự thắng thế của Cộng sản trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Á Châu, đă làm gia tăng mối quan tâm của người Mỹ tại Việt Nam. Ngay từ giữa những năm 1950, nhằm phản ứng lại cuộc xâm lăng của Bắc Hàn, Tổng thống Truman đă ra lệnh thành lập một Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự (Military Assistance Advisory Group MAAG) tại Đông Dương thuộc Pháp. Được sử dụng phần lớn như là một phương tiện tài trợ qua đó các viện trợ được chuyển qua cho người Pháp trong những nỗ lực chống lại Việt Minh, sự ra đời của Việt Nam Cộng Ḥa đă mang lại cho tổ chức này một mục đích mới. Nhóm MAAG của Hoa Kỳ bắt đầu đưa vai chịu lấy gánh nặng trong cuộc chiến chống lại Cộng sản.

Một tổ chức được thành lập thông qua nỗ lực của một nhân viên MAAG chính là binh chủng phôi thai Thủy Quân Lục Chiến của nước Cộng Ḥa mới.

Giới quân sự Hoa Kỳ đă trực tiếp đầu tư những khoản xương máu và tiền của khổng lồ khi tiến hành cuộc chiến tranh lạnh. Một trong những điều không được biết đến và trân trọng đúng mức là công việc huấn luyện và trợ giúp đă cung cấp cho các quốc gia đang chiến đấu có thể duy tŕ nền Tự Do của họ trong một thế giới ngày càng thù nghịch nhiều hơn. Trong những năm ngay sau Thế Chiến Thứ Hai, một món quà khác của binh chủng TQLC Hoa Kỳ cho Thế Giới Tự Do là sự tham gia vào việc h́nh thành bốn Quân đoàn TQLC tại Á Châu.

Đối với các nước Cộng ḥa Đại Hàn, Trung Hoa Quốc Gia và Phi Luật Tân th́ TQLC Hoa Kỳ đă rộng răi gieo những hạt giống về chiến tranh viễn chinh cho các nhóm nhỏ lực lượng đặc biệt trong mỗi xứ sở tương ứng. Trong mỗi quốc gia, các đơn vị TQLC mới sẽ mang dấu ấn của người anh cả Hoa Kỳ. Một chuyện nhỏ nhặt nhất là, giống như ở Mỹ, danh xưng “TQLC” đă trở thành đồng nghĩa với tất cả những ǵ tốt đẹp nhất của tinh thần thượng vơ và đức hạnh của người lính.

Trong bốn tập thể TQLC tân lập, mối liên hệ giữa TQLC Hoa Kỳ và TQLC Việt Nam Cộng Ḥa đă trở thành thân thiết nhất, mănh liệt nhất và cũng tốn kém nhất. Đối với VNCH chỉ có Sư đoàn Nhẩy Dù mới được sánh như tương đương nhờ ở các thành tích chiến đấu và mức độ tin cậy cao của họ. Cái nhóm nhỏ các quân nhân làm ṇng cốt cho TQLC Việt Nam từ 1954 trở về sau đă chứng tỏ niềm hăng say đặc biệt của tổ chức. Đặc điểm này hiển nhiên đă đưa binh chủng TQLC đứng riêng ra trong mọi nền văn hóa.

TQLC Việt Nam có nguồn gốc từ một tổ chức rất nhỏ gồm các đơn vị rải rác theo kiểu biệt kích được thành lập với sự trợ giúp của quân đội Pháp vào năm 1946. Những đại đội xung kích trên sông với biệt danh là “Đoàn Thủy Binh Xung Phong” (Dinassauts), là một sự kết hợp của các đơn vị bộ binh đặc biệt có khả năng chiến đấu trên cạn lẫn dưới nước. Những hoạt động đầu tiên của họ là ở miền Bắc trong vùng đồng bằng sông Hồng Hà. Trong các đơn vị chiến đấu của Việt Nam được sự giúp đỡ của người Pháp th́ những toán Dinassauts có uy tín đặc biệt nhờ ở khả năng chiến đấu và tinh thần đồng đội cao độ.

Sự chia cắt đất nước Việt Nam vào năm 1954 đă có hậu quả là nỗ lực phát triển đầy đủ một cơ cấu lực lượng quân sự quốc gia đủ sức để bảo vệ nền Cộng ḥa mới thành lập đối với hiểm họa từ phương Bắc. Đồng thời với nhu cầu có một lực lượng Hải Lục Không quân tối tân là sự thừa nhận phải có những đơn vị đặc biệt có khả năng tiến hành các cuộc hành quân đổ bộ trên nhiều dặm dài của bờ biển và đường thủy lộ nội địa Việt Nam.

Tuy nhiên Việt Nam cũng không tránh khỏi sự cạnh tranh giữa các quân chủng trong tổ chức quân đội, một t́nh trạng khá phổ biến trong mọi quốc gia. Từ lúc khởi đầu thành lập, TQLC Việt Nam, giống như người anh em Hoa Kỳ đă phải đối phó với những chuyện nhỏ nhặt nhất như tranh đấu cho những nguồn tài lực. Hàng tháng trời bàn căi giữa các nhóm lớn gồm các sĩ quan quân đội Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ vẫn không mang lại một sơ đồ tổ chức có thể chấp nhận được, hay phát triển được vai tṛ và nhiệm vụ mà lực lượng đổ bộ mới mẻ này sẽ đảm trách. Sau cùng đă phải cần đến sự quyết tâm tập thể, nhiệt t́nh và sức mạnh về ư chí của một Thiếu tá Việt Nam, một Đại úy quân đội Pháp và một Trung tá Hoa Kỳ để làm cho chuyện thành lập một tổ chức TQLC Việt Nam riêng biệt trở thành hiện thực.

Với cương vị là người con trưởng, công việc chính của B́nh là đi học. Người cha và bà mẹ kế đồng ḷng quyết tâm cho sự thành công của con và anh đă chăm chỉ để thực hiện điều này.

Nhập học mẫu giáo tại một trường nam sinh nhỏ tại Tân Định trong thời kỳ Nhật chiếm đóng, trạng thái b́nh thường của sự hỗn loạn vẫn tiếp tục không hề suy giảm qua sự kiện đầy tranh căi về việc người Pháp trở lại Việt Nam, cuộc chiến với Việt Minh và sự thành lập đầy trắc trở của một đất nước mới.

Mặc dù những người miền Bắc chống cộng nhất đă di cư toàn bộ từ năm 1954, vẫn c̣n rất nhiều người trong Nam không nhiệt t́nh lắm với chế độ ông Diệm. Sự quyến rũ của chủ nghĩa Cộng sản đối với nhiều người là một sự lựa chọn tốt hơn là ách áp bức của thực dân Pháp, do đó đă được sự chấp nhận của một số người chuyển đổi thuộc thế hệ đầu tiên. Một số th́ bị mê hoặc bởi Cộng sản ban cho họ cái quyền lực được giết các địa chủ hay tất cả những ai mà họ coi như đă bóc lột thành phần vô sản. Những thành phần cốt cán của bất cứ đảng phái nào đều sẵn sàng chấp nhận lời kêu gọi hy sinh của đảng nhằm chống chủ nghĩa tư bản và ngoại xâm. Những gia đ́nh giống như của B́nh, đă từng sống và bị tác động xấu bởi Việt Minh cũng nóng ḷng xóa bỏ vết tích của thực dân. Tuy nhiên họ không hề tán thành những điều dối trá trắng trợn của Cộng Sản hoặc những điều nửa vời mà họ biết được qua kinh nghiệm cay đắng từ trong gia đ́nh.

Một số giáo sư tại trường trung học của B́nh, có thể đă từng là những thành viên thuộc một nhóm nằm vùng cán bộ Cộng sản được gài lại phía sau vào lúc phân vùng đất nước. Họ có thể chỉ đơn giản thuộc vào một nhóm nhỏ nhưng rải rác ở miền Nam vốn là những người có cảm t́nh với Cộng sản. Bằng cách nào cũng vậy, họ không lo ngại bày tỏ những điều mà chàng thanh niên B́nh cho là những lời tuyên truyền không hơn không kém. Khi có thể, cậu ta sẽ trân trọng thách thức quan điểm thế giới của họ về sự vĩ đại của Trung Quốc và Liên Xô. Trong khi các học sinh được học về chiến thắng của Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên và về sự vinh quang của chương tŕnh không gian của Nga với việc phóng thành công phi thuyền Sputnik, Hoa Kỳ ít khi được nhắc đến và nếu có th́ không bao giờ là tích cực cả. Khi cậu B́nh chia sẻ điều này với cha của ḿnh, ông cụ sẽ lấp vào đấy những điều ǵ ông biết về những sự kiện lịch sử mà các giáo viên đă tự tiện bỏ đi.

Chương Hai (2)

Bất kể chiến tranh, cùng sự bất ổn và các âm mưu không dứt về chính trị đă cấu tạo nên đời sống thường ngày tại Việt Nam, cuộc nhân sinh vẫn tiếp diễn như thường lệ. Người Nhật, người Pháp, Việt Minh và cả cuộc nổi loạn của nhóm B́nh Xuyên chống lại chế độ Ngô Đ́nh Diệm vào năm 1955 cũng không ngăn trở B́nh hăng say trong việc học hành mà gia đ́nh đă kỳ vọng rất nhiều vào anh. Măi đến năm 1957, khi anh hoàn tất chương tŕnh Trung học tại trường Petrus Kư th́ những sự khủng hoảng không tên diễn ra gần như hằng ngày cuối cùng mới làm ảnh hưởng đến việc học của anh trong một thời gian ngắn. Thời gian B́nh tốt nghiệp Tú Tài và bước vào Đại học, anh đă chán ứ đến cổ về mối đe dọa độc ác của Cộng sản qua các câu chuyện về cuộc sống tại Hà Đông trước khi Việt Minh cướp chính quyền, anh đă nghe kể hàng trăm lần về những cách đối xử hèn hạ của họ đối với bà nội, các chú bác và anh em họ của anh. Để làm một điều đúng, là trả lại danh dự cho gia đ́nh, thực hiện một chuyện mà bất cứ một thanh niên chân chính đều phải hành động tương tự, anh tham gia vào nỗ lực nhằm giải phóng đất nước khỏi cái mà anh coi là căn bệnh ung thư quái ác của chủ nghĩa Cộng sản đang trên đà phát triển. Đến năm 1957 th́ B́nh biết rằng sự lựa chọn duy nhất là gia nhập quân đội để phục vụ đất nước.

B́nh chỉ là một học sinh trung b́nh. Bất kể theo con đường nào, anh biết chắc là không một ai trong những đội ngũ mà anh sẽ dẫn dắt sẽ hỏi đến bằng cấp của anh. Tuy việc theo đuổi học hành không hẳn là dễ dàng ǵ đối với anh nhưng chuyện anh tốt nghiệp ban Sử Địa vào năm 1961 đă là một thước đo khiêm tốn về sự bền bỉ trong trí tuệ và tính tự giữ ḿnh trong kỷ luật mà không một vị giáo sư hay một kỳ thi nào có thể đánh giá được.

Trong thời kỳ hai nước Việt Nam bị tách riêng từ 1954 đến 1959, cả hai chính phủ đều tập trung nỗ lực vào việc củng cố chính trị nội bộ. Trong khi việc cưỡng bức tập thể hóa toàn bộ dân cư tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và việc giết hại hàng ngàn người mà nhà nước cho là thành phần phản động ít được giới truyền thông tường thuật th́ các thách đố màchế độ Ngô Đ́nh Diệm đang phải đối mặt cùng những khó khăn và thiếu sót của họ lại được phơi bày một cách hết sức rộng răi.

Ngô Đ́nh Diệm, kẻ ngoại cuộc dưới mắt nhiều người và là một tín đồ Công giáo của ṭa thánh La Mă, đă từng sống một thời gian tại Hoa Kỳ, thoạt đầu được giới chống cộng Tây phương chú mục tới. Trong nước th́ nhiều Phật tử và các giáo phái khác lại mất niềm tin trầm trọng vào phe đảng của Ngô Đ́nh Diệm. Việc sử dụng quân đội để đè bẹp các nhóm đối kháng Ḥa Hảo, Cao Đài và B́nh Xuyên chỉ tạm thời dập tắt những mối nguy hại đối với quyền lực của chế độ.

Vào năm 1958 sau khi hoàn tất việc củng cố quyền lực ngoài bắc, Hồ Chí Minh ra lệnh cho cán bộ trở lại miền Nam và năm sau đó, tập họp với đám người đă được cài lại phía sau cũng như những người mới tuyển mộ được sau này, bắt đầu cuộc chiến tranh "nhân dân" chống lại chính quyền Sài G̣n một cách hung hăn nhất. Khoảng từ giữa năm 1954 đến cuối năm 1960, Việt Cộng đă ám sát gần 1.700 người và bắt cóc thêm 2.000 người ủng hộ chế độ Sài G̣n gồm các xă trưởng và những người có chức sắc trong xă. Từ năm 1961 trở đi các nỗ lực khủng bố của chúng có chiều hướng gia tăng. Nhu cầu gia tăng của Cộng sản về nhân sự và tiếp liệu đă khiến chúng khởi công con đường mà sau này toàn thế giới biết đến là đường ṃn Hồ Chí Minh. Đến năm 1965 th́ hệ thống đường ṃn có khả năng vận chuyển được từ năm đến sáu ngàn người hàng tháng cộng với hàng tiếp liệu đuợc đưa xuống hầu "giải phóng" người "anh em ngoan cố."


Những cuộc biểu t́nh lớn của Phật giáo bắt đầu vào năm 1961 sau cùng đă dẫn đến một loạt các những biến cố ngoạn mục được truyền thông rộng răi vào năm 1963. Trong thời kỳ này có những vị sư nhân hậu và trông rất vô hại trong các tấm y màu vàng nghệ đă ngồi thiền và tẩm xăng tự thiêu nhằm thu hút sự chú ư đến nỗi bất công dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm.

Từ lâu trước khi có sự kiện này, Cộng sản đă xâm nhập một cách có hiệu quả vào nhiều nhóm chống đối chính quyền Sài G̣n. Đối với nhiều người, cũng khó mà không cảm thông với phe đối lập khi mà nạn tham nhũng của chế độ Diệm rất dễ nhận ra, c̣n tập thể lănh đạo Sài G̣n th́ kém cỏi và thiếu kinh nghiệm thấy rơ thành thử đă làm mất ḷng dân.

Trong khi người Mỹ có lẽ đang mong sự xuất hiện trở lại của một nhân vật tương tự như phu nhân tướng Tưởng Giới Thạch, một phụ nữ thanh nhă, dịu dàng, tốt nghiệp trường Wellesley th́ bà Ngô Đ́nh Nhu, em dâu của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, với biệt danh "Long Nữ" (Dragon Lady) đă ngang ngược báng bổ và tuyên bố công khai rằng họ đă chứng kiến một màn "nướng thịt" (barbecue) sau một vụ tự thiêu. Bất kể những người có thể không bằng ḷng với quan điểm của bà sẽ có thái độ ra sao nhưng bà vẫn trả lời phỏng vấn rằng: "Cứ để cho họ bị thiêu và chúng ta sẽ vỗ tay hoan nghênh."

Với vai tṛ lănh đạo về chính trị trong các thập niên 1950 và 1960, nước Mỹ phải đối phó hàng ngày trước nguy cơ chiến tranh hạch nhân với Liên Bang Sô Viết cùng với nguy cơ được định nghĩa là "chiến tranh nhân dân" tại một loạt các quốc gia chư hầu ngày càng gia tăng tại Âu Châu và khắp Á Châu. Tuy vậy, nỗi ám ảnh bởi cái mà người Mỹ cho là một cuộc hiệp ước đ́nh chiến mong manh tại Đại Hàn đă khiến cả hai siêu cường t́m cách giảm thiểu nguy cơ xung đột trực tiếp có thể nhanh chóng dẫn đến chiến tranh nguyên tử. Nỗi thất vọng trước sự bất lực trong việc đạt được một chiến thắng toàn diện đă được xoa dịu bằng niềm tin rằng sẽ khó có thể toàn thắng như lần 1945 nữa.

Kinh nghiệm tại Triều Tiên chứ không phải là Thế Chiến Thứ Hai đă hoạch định sự dính líu của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á trong bối cảnh Chiến Tranh Lạnh. T́nh h́nh của Việt Nam Cộng Ḥa có nhiều điểm tương đồng với với bán đảo Triều Tiên. Cả hai quốc gia Cộng sản Bắc Hàn và Bắc Việt đều có chung biên giới với Trung Cộng và được trợ giúp đáng kể từ họ. Cả hai cũng đều nhận được những khối lượng viện trợ khổng lồ từ Liên Sô. Đồng thời cả hai quốc gia cũng đă vừa trải qua kinh nghiệm ngoại xâm của thực dân mà đáng kể nhất là Nhật Bản là kẻ đàn áp tàn bạo nhất.

Chiến tranh Triều Tiên là một cuộc chiến hầu như qui ước diễn ra trên một lănh thổ mà cả hai bên đều không đóng ở các vị trí cố định, do đó cho phép huy động các đại đơn vị chống lại một kẻ thù dễ nhận diện ra. Bắc và Nam Hàn đă bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38 bởi cách lư luận tùy tiện tại Yalta vào năm 1945 giống như trường hợp của Việt Nam vậy. Vùng biên cương dài hơn 150 dặm này là khu vực duy nhất có thể xâm nhập được vào miền Nam hoặc rút ra khỏi đây. Bởi rừng cây thưa thớt, lực lượng địch quân rất khó ẩn tránh máy bay đồng minh bay tuần tiễu, việc cô lập chiến trường được thực hiện tương đối dễ dàng. V́ khả năng hải quân bị hạn hẹp nên cơ hội xâm nhập của Cộng sản bằng đường biển chỉ hạn chế ở các đơn vị nhỏ.

Những khác biệt so với Triều Tiên đă khiến cho việc bảo vệ miền Nam gặp nhiều khó khăn hơn đối với các cố vấn Mỹ và những người miền Nam đang t́m cách tránh sự thống trị của Cộng sản. Trong khi dân tộc Đại Hàn, cả Nam lẫn Bắc gần như là thuần nhất th́ Việt Nam và các nước láng giềng phía tây có chung những đường biên giới lỏng lẻo không được xác định rơ ràng và là nơi trú ngụ của nhiều sắc tộc thiểu số khác nhau. Qua các qui định chiến tranh do họ tự đặt ra và với những sự hạn chế về địa dư, các khu vực rừng rậm, núi non phía Đông Căm-Pu-Chia và Lào đă biến thành những mật khu ẩn núp của Cộng sản. Việc ngăn chặn sự xâm nhập vào Việt Nam hầu như không thể thực hiện được. Do các khó khăn về địa dư và chính trị này, thế chủ động trên chiến trường phần lớn đă phải nhường lại cho phía đối phương.

Bắt đầu bằng cuộc Khủng hoảng Kênh đào Suez vào đầu mùa hè năm 1956, một loạt các hành động gây hấn của phe Cộng sản được tung ra: sự đàn áp tàn bạo các chiến sĩ tranh đấu cho tự do Hungary bởi quân Liên Sô, cuộc xâm lược của Cộng sản Trung Hoa chống lại phe quốc gia trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai vào cuối năm 1958, sự kiện Cuba rơi vào tay du kích quân của Castro ngay tại "cửa sau" của Mỹ vào năm 1959, việc bắn hạ máy bay thám thính U-2 của Gary Power trên đất Nga, sự thất bại vùng vịnh Con Heo, sự kiện bức tường Bá Linh được dựng lên, và những thách thức đối với Tây phương ở Congo từ Patrice Lamumba và nhóm lâu la của ông.

T́nh thế trên bộ tại Đông Nam Châu Á vào đầu năm 1960 cũng không khá hơn các nơi khác bao nhiêu. Cho dù cố vấn quân sự Hoa Kỳ đă hoạt động tích cực trên tất cả các nhiệm vụ không chiến đấu tại Việt Nam từ 1954, nhu cầu phải đưa người Mỹ ra tiền tuyến để mở rộng tầm quan sát và sự hỗ trợ trong việc phát triển khả năng chiến đấu của Việt Nam cuối cùng đă được chấp thuận vào năm 1960 trên một căn bản hạn chế. Các sĩ quan Hoa Kỳ không mấy phấn khởi trong các thời kỳ đầu tiên này.

Binh chủng TQLC Việt Nam, với quân số không bao giờ quá hai phần trăm của toàn bộ quân lực đă được cải thiện liên tục về khả năng tác chiến và binh đoàn nhỏ này đă được liệt vào hàng ưu tú trong Quân Lực VNCH. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa có quân số lớn hơn rất nhiều và cũng không thiếu các chiến sĩ dũng cảm nhưng lại bị thất lợi bởi những vấn đề thường gặp trong các tổ chức quân sự mới được thành lập tại các quốc gia nghèo. Nguồn lực th́ có giới hạn, huấn luyện th́ thiếu sót và các sĩ quan chỉ huy, nhất là các cấp tư lệnh thường gồm những nhân vật được lựa chọn không phải do khả năng tác chiến hay chỉ huy mà chỉ v́ ḷng trung thành về chính trị và sự quen biết. Điều này đă khiến cho các đơn vị của chế độ Sài G̣n bị thất lợi rất nhiều so với các lực lượng Cộng sản nhiều khi lại c̣n được chỉ huy khá cũng như được động viên tốt hơn.

Các sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ được điều đến để giúp thành lập, h́nh thành và hướng dẫn thuộc thành phần quân nhân giỏi và sáng giá nhất. Với thành công tại Triều Tiên trong việc thiết lập quân đội non trẻ của nước đó, sự bổ nhiệm Trung tướng John "Iron Mike" (Mike sắt thép) O'Daniel vào cương vị tư lệnh cơ quan MAAG tượng trưng cho đỉnh cao kỳ vọng của giới lănh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ. Quá tŕnh lâu dài và gian khổ nhằm xây dựng các đơn vị quân sự cần thiết và hỗ trợ tối thiểu cho hạ tầng cơ sở được giao phó cho hàng trăm sĩ quan Hoa Kỳ đầy ḷng nhiệt huyết, một số sĩ quan người Pháp cùng chung lưng hiện đang giảm dần và hàng ngàn sĩ quan Việt Nam đồng một ḷng muốn đất nước được phát triển.

Thành tích ban đầu của QLVNCH ngoài chiến trường chống du kích không được khả quan lắm. Các chiến thắng của họ đối với Cộng sản, nay gọi là Việt Cộng thường chỉ là những biến cố tạm thời v́ chính sách của chế độ Ngô Đ́nh Diệm đă làm suy yếu hành động của họ ngoài mặt trận. Quyết định thay thế các chức sắc xă ấp được dân bầu bằng những cán bộ do chính quyền Sài G̣n bổ nhiệm đă làm mất ḷng người dân địa phương. Chiến dịch đàn áp những người bị nghi ngờ là thân cộng dù vu vơ đă tiếp tay thêm cho sự tuyên truyền phổ biến do Hà Nội đề xướng. Đồng thời những cán bộ được cài lại phía sau được lệnh hoạt động trở lại, công tác tuyển mộ cho lực lượng Việt Cộng tại chỗ được đẩy mạnh một cách hung hăn và sự xâm nhập của các đơn vị chủ lực Bắc Việt vào miền Nam đă làm dài thêm danh sách các khó khăn mà VNCH phải đối mặt. Từ năm 1961 đến 1962 ước tính trên thực tế Cộng sản đă kiểm soát được hơn một nửa miền Nam rồi.

Ở cấp cao nhất của giới lănh đạo Hoa Kỳ tại Sài G̣n và Hoa Thịnh Đốn, các cuộc tranh căi dữ dội đă xảy ra tập trung vào việc phải hành động ra sao và cách nào tốt nhất để đối phó với TT Ngô Đ́nh Diệm mà hành động thường không phù hợp với ư định của người Mỹ. Đường lối cai trị của TT Diệm và nạn tham nhũng rơ rệt của chế độ là một sự bối rối và cản trở những điều mà người Mỹ tự cho là nỗ lực cao thượng nhằm ngăn chận Cộng sản. TT Diệm không được ḷng dân chúng và uy tín của ông đối với quân đội làm càng bị lung lay nhiều hơn nữa.

Đến mùa hè 1963, Hoa Kỳ đă đổ công sức gần chín năm về chính trị nhằm đạt thắng lợi tại Việt Nam. Cùng với sự gia tăng về nỗ lực cố vấn và gần như là yểm trợ quân sự trực tiếp, danh sách thương vong của người Mỹ cũng tăng dần lên. Đánh đổi lại tài nguyên và xương máu đă đổ ra th́ chưa có sự thành công nào đáng kể cả. Nhiều giới chức cao cấp Hoa Kỳ và một vài tướng lănh hàng đầu Việt Nam tin rằng sự lănh đạo của TT Diệm sẽ không mang lại hy vọng cho một chiến thắng của đất nước.

Đến nước này rồi v́ đầu tư quá nhiều mà để Việt Nam bị thất bại vào tay kẻ thù phương Bắc th́ có thể sẽ kích động sự sụp đổ theo thế cờ domino. Một nước Hoa Kỳ thiếu quyết tâm tại Đông Nam Á có thể sẽ khuyến khích sự bành trướng và xâm lược của Liên Sô trên toàn thế giới. Trong giới lănh đạo quân sự Việt Nam, nhóm sĩ quan tin tưởng con đường duy nhất để cứu đất nước là loại bỏ TT Diệm đang dần tăng lên. Sự dính líu của nước Mỹ trong cuộc đảo chánh TT Diệm vẫn c̣n gây tranh căi và là đề tài của nhiều cuộc tranh luận gay gắt. Tuy nhiên điều này ít nhất có thể tin được qua lời khuyên trước đó trong lá thư nổi tiếng của George Kennan gởi cho đồng nghiệp là Bộ trưởng Ngoại Giao Chip Bohlen năm 1948:

"Điều này không có nghĩa là tất cả các chính quyền mà chúng ta giúp chống lại áp lực của Liên Sô sẽ được soi sáng, sẽ là những chính quyền tự do, thực thi dân chủ theo những cách mà chúng ta có thể khen ngợi được. Rất nhiều trong số các chính phủ đó có thể sẽ trở thành những thể chế tham nhũng và độc tài. Tuy nhiên nếu đứng trên quan điểm lợi ích của nước Mỹ th́ điều này vẫn c̣n tốt hơn là những chế độ do Cộng sản kiểm soát v́ họ sẽ không có tham vọng thống trị toàn cầu, cũng như không có đủ phương tiện để cho phép mơ tưởng đến các cuộc gây hấn ở qui mô lớn."

Đối với các tư lệnh quân sự Việt Nam có khả năng thực hiện sự thay đổi th́ điều hiển nhiên là TT Diệm phải ra đi cho VNCH có chút cơ may để sống c̣n.

Thành phần yêu nước của miền Nam Việt Nam có một niềm tin trực giác hợp lư rằng một khi t́nh h́nh đất nước khả quan hơn, nỗ lực về quân sự nhằm giải thoát gia đ́nh họ khỏi ách nô lệ của con quái vật miền Bắc sẽ được tiến hành. Là một người quen thuộc với chiến lược quân sư, đặc biệt là chiến lược hải quân, ông Lê Bá Sách hiểu rằng đơn vị tiên phong chống trả một cuộc xâm lược sẽ phải là TQLC. Ông rất thương yêu con cái nhưng ông cũng yêu đất nước, đồng thời mang một nỗi căm thù Cộng sản tận xương tủy, một mối thù sâu sắc đến nỗi ông sẵn sàng để đứa con trai yêu quư ṭng quân nhằm vào mục đích đó. Ông đă cương quyết khuyên đứa con trai trưởng phục vụ trong binh chủng TQLC.

Sau khi tốt nghiệp Đại học, Lê Bá B́nh lập tức được nhận vào trường sinh viên sĩ quan Thủ Đức ngay bên ngoài Sài G̣n nhằm tham dự một khóa học 10 tháng để trở thành sĩ quan. Do tầm mức tương đối nhỏ của các binh đoàn Việt Nam khác ở bên cạnh quân đội chủ lực, họ phải dùng chung cơ sở đào tạo sinh viên sĩ quan để tiết giảm chi phí và tận dụng các phương tiện huấn luyện c̣n thiếu thốn. Khóa học 10 tháng giúp các sĩ quan trẻ đầy nhiệt huyết tiếp xúc với đường lối chỉ huy quân sự, các tập tục, quân phong quân kỷ, cơ bản thao diễn và một số chiến thuật bộ binh căn bản v́ đa số các khóa sinh nói cho cùng cũng sẽ được bổ sung vào quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. B́nh khi ấy nằm trong một nhóm riêng trong số vài trăm sinh viên sĩ quan, với 60 người đă được tuyển chọn vào binh chủng TQLC hiện đang thiếu trầm trọng các tân sĩ quan chỉ huy trẻ tuổi.

(C̣n tiếp)

Nguồn : http://svqy.org/

Twelve
01-10-2019, 04:35
(tiếp theo)

Chương Hai (3)

Đến năm 1962 th́ binh chủng TQLC với tám năm thành lập ngắn ngủi đă được tăng cường thêm Tiểu đoàn 3. Với Tiểu đoàn pháo binh cơ hữu, một Tiểu đoàn hỗ trợ đổ bộ và một ban tuyển mộ huấn luyện đă đủ lông đủ cánh, TQLC Việt Nam đă có khả năng đưa vào chiến trường cả một Lữ đoàn đầy đủ. Vào thời điểm B́nh được gắn lon Thiếu Úy với vạch vàng lên cầu vai, đă có gần sáu ngàn quân nhân Việt Nam được đặc quyền mặc bộ đồ trận rằn ri riêng biệt của binh chủng với châm ngôn "Danh Dự - Tổ Quốc."

Sau khi tốt nghiệp trường sĩ quan, sáu mươi Thiếu úy TQLC tân khoa được theo khóa thực tập một tháng tại Thủ Đức để học tập thêm về các đường lối của binh chủng, tập trung vào các chiến thuật bộ binh và đổ bộ, đồng thời để chuẩn bị cho họ đảm nhận công tác chỉ huy ngoài mặt trận ở cấp độ Trung đội và Đại đội. B́nh đă tốt nghiệp thủ khoa trong toàn khóa huấn luyện này.

Vào lúc đó, Trung tá Lê Nguyên Khang là một sĩ quan cao cấp của TQLC vừa nhận quyền chỉ huy Tiểu đoàn 3, c̣n được mệnh danh là "Sói Biển." Hănh diện v́ đơn vị cũ của ḿnh, ông muốn đưa các sĩ quan trẻ tuổi đầy triển vọng về Tiểu đoàn "Sói Biển" thân thương của ông. Và đó chính là lư do tại sao B́nh đă được điều về Tiểu đoàn 3 TQLC.

Các sĩ quan TQLC Hoa Kỳ được giao nhiệm vụ cố vấn cho các TQLC Việt Nam thường thấy nhiều điểm tương đồng với họ v́ những người này đă tiếp nhận một cách nhanh chóng tinh thần dẻo dai và niềm tự hào đơn vị mà các cố vấn Mỹ đă truyền bá thành công trong tâm trí họ. Do giá trị quân sự xuất chúng nên các Lữ đoàn TQLC và Nhẩy Dù Việt Nam nổi tiếng đă được chỉ định là lực lượng tổng trừ bị cho toàn bộ QLVNCH vào giữa năm 1959. Hai đơn vị này tuy nhỏ nhưng đáng tin cậy đă trở thành lực lượng ứng trực của quốc gia, các Lữ đoàn "lửa" để sử dụng trong trường hợp cực kỳ khẩn cấp và là những đơn vị để được gởi đi hoàn thành các nhiệm vụ khó khăn nhất.

Đơn vị triển khai chính của TQLC là cấp Tiểu đoàn. Được tổ chức tương tự như các Tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ bạn, hoạt động Tiểu đoàn TQLC Việt Nam c̣n mang sắc thái của hệ thống Trung đoàn Anh quốc trong các hoạt động có tính cách lâu dài. Là một nhánh nhỏ của quân đội, chưa có bề dầy lịch sử hoạt động nào đáng kể cho nên điều hiển nhiên là các sĩ quan và quân nhân thường được giữ lại trong đơn vị rất lâu tùy theo nhu cầu thực tế. Tuy chưa có ai đủ thâm niên để có thể coi thời gian phục vụ trong TQLC là một binh nghiệp nhưng điều hợp lư là một quân nhân, nếu sống sót qua các chiến trận, có thể được giữ lại trong cùng một Tiểu đoàn trong suốt thời gian phục vụ của anh. Những người chống đối hệ thống này cho rằng điều này có thể bóp nghẹt sự cải cách và ngăn không cho những nguồn "máu" mới được bổ sung vào. Lập luận ngược lại là mặc dù có sự phân loại về đẳng cấp, một môi trường có tính cách gia đ́nh sẽ đóng góp vào nỗ lực chung và tinh thần đồng đội.

Tinh thần chiến đấu của TQLC là một sự pha trộn nét đặc thù Việt Nam và một phần ảnh hưởng của Hoa Kỳ. TQLC Việt Nam cũng giống như bên phía Hoa Kỳ là không hề có một mẫu người riêng biệt nào khi họ t́nh nguyện vào lính. Tuy vậy cũng có các nhóm người đại diện khác nhau. Chẳng hạn như đối với các giáo phái đặc biệt bị Cộng sản để ư đến như các thanh niên gốc Ḥa Hảo và Cao Đài th́ họ cho việc gia nhập TQLC là một cách để phục thù lại. Và trong khi báo chí Mỹ thường xuyên trong nhiều năm dài nói về các thanh niên Việt Nam t́m cách trốn tránh hoàn toàn nghĩa vụ quân sự hoặc ít nhất là phục vụ trong những vị trí an toàn đến tính mạng th́ không hề thiếu các thanh niên Việt Nam yêu nước khác tin tưởng là chủ nghĩa Cộng sản không phải là câu giải đáp và quan niệm việc nhập ngũ vào TQLC là phương cách tốt nhất để đóng góp cho nền Tự Do của miền Nam Việt Nam.

TQLC Việt Nam là một tổ chức t́nh nguyện. Việc gia nhập thường lệ, tối thiểu lúc tân tuyển, là ba năm. Công tác huấn luyện dài tám tuần được tổ chức tương tự như các phương cách của TQLC Hoa Kỳ. Rất nhiều huấn luyện viên Việt Nam đă từng học tại San Diego và Parris Island.

Các sĩ quan được giao phó trách nhiệm với thời gian lâu dài hơn. Theo ḍng chiến sự, nếu không bị tử trận hay trọng thương th́ họ được giữ quân vụ một cách vô hạn định. Và cũng giống như các cấp bậc đă nhập ngũ khác, sĩ quan TQLC Việt Nam không nằm trong bất cứ nhóm người đặc biệt nào khác. Họ bao gồm những người miền Nam, người Bắc di cư, Phật tử và Công giáo.

Không có nơi nào mà sự tôn trọng Khổng giáo và quyền hành theo cấp bậc rơ ràng hơn là trong TQLC. Trong bốn quân chủng Hoa Kỳ th́ TQLC là tổ chức chú trọng đến sự phục tùng các cấp trên nhiều nhất. Đối với những người không biết hoặc ngoại cuộc th́ họ không hề cảm nhận được cái t́nh cảm sâu sắc thường chỉ biểu hiện dưới bề mặt sự tương quan giữa sĩ quan và các quân nhân hoặc sĩ quan cao cấp và cấp dưới của ḿnh. Tuy các sĩ quan ít khi gọi thuộc cấp của ḿnh bằng tên riêng và ngược lại kẻ dưới luôn xưng hô cấp trên bằng "Thưa (hay tŕnh)..." cùng cấp bậc của họ, t́nh huynh đệ chi binh giữa họ hết sức mạnh mẽ ngay cả trong các đơn vị chiến đấu nhỏ nhất. Và mặc dù cấp bậc và chức vụ phần nào phân chia sĩ quan với thuộc cấp nhưng gian khổ và khó khăn là điều phổ quát chung.

Quân đội Hoa Kỳ, nhất là TQLC đặc biệt nhấn mạnh công việc đào tạo những người có khả năng kế thừa mỗi khi cấp trên bị tử trận hay bất khiển dụng. Đây là một điều gần như là độc đáo trong nền văn hóa của Hoa Kỳ, có thể là một phần của tư tưởng “anh hùng cá nhân” và bản chất thứ hai nữa là nó đă cho các đơn vị này có thể tiếp tục chiến đấu một cách hiệu quả ngay mặc dù cấp chỉ huy chính thức đă ra đi.

Sự phân cấp trong TQLC Việt Nam ít phức tạp hơn quân đội Hoa Kỳ, có vẻ Việt Nam hơn hoặc giống hệ thống Âu Châu trên thực tế. Khi đối diện với cấp trên, điều lịch sự và kính trọng thông thường là không nh́n thẳng vào mắt của người đối diện. Khái niệm sĩ diện hay giữ thể diện là điều tối ưu không thể coi nhẹ được. Đối với các cấp chỉ huy, điều quan trọng nhất là các mệnh lệnh phải được thi hành và mọi hành động phải được chấp thuận trước khi thi hành. Khoảng cách giữa sĩ quan và lính tráng khá rơ ràng ngay từ cấp Thiếu úy trở lên. Mỗi Trung đội trưởng đều có một bộ phận nhỏ trong bộ chỉ huy tí hon của ḿnh, thường là từ một đến ba người để làm những chuyện vặt vănh, phục dịch, đưa tin hay chạy việc cho viên Thiếu úy trẻ. Chức vụ càng cao th́ nhóm quân nhân được giao trách nhiệm phục dịch sĩ quan càng đông hơn. Trong quân đội Hoa Kỳ th́ nhóm người này thường được gọi là “cao bồi.” Đây là một trách nhiệm danh dự chứ không hề là một sự miệt thị khi được làm “cao bồi” cho một sĩ quan nào đó.

Thiếu úy Lê Bá B́nh tŕnh diện “Sói Biển” vào tháng 10 năm 1962, một tháng sau khi chương tŕnh “Beverly Hillbillies” được tŕnh chiếu lần đầu trên truyền h́nh Mỹ, cùng tháng với ca khúc “Monster Mash” do ca sĩ Bobby “Boris” Pickett tŕnh bầy được xếp hạng nhất của nhạc Pop Mỹ, cũng đồng thời cũng là tháng mà “Đại Bàng Hoa Kỳ” và “Gấu Mẹ Liên Sô” suưt nữa đă choảng nhau bằng hỏa tiễn nguyên tử tại Cuba. Trong một chiến dịch gọi là “Operation Shufly” được tiến hành từ đầu năm, các trực thăng TQLC Hoa Kỳ nay được chỉ định yểm trợ không vận cho các đơn vị TQLC cũng như quân đội QLVNCH bay ra bay vào mặt trận.

Phương pháp sử dụng các tân sĩ quan trong TQLC Việt Nam hầu hết là huấn luyện tại chỗ. Ngay sau khi tŕnh diện Tiểu đoàn 3, B́nh được bổ nhiệm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 2. (Khác với TQLC Hoa Kỳ đặt mă chữ cho các Đại đội, phía Việt Nam th́ vẫn sử dụng mă số ở cấp Đại đội).

Kể từ lúc Thiếu úy Lê Bá B́nh tŕnh diện vào tháng 10/1962 cho đến đầu tháng 11 năm 1963, Tiểu đoàn 3 đă được điều động không biết bao nhiêu lần ra mặt trận quần thảo với các đơn vị Việt Cộng từ vùng Trung nguyên mạn bắc Saigon cho đến mỏm Nam bán đảo Cà Mau.

Đối với những người trong cuộc như các TQLC với những người như Lê Bá B́nh đầy kinh nghiệm trận mạc th́ các cuộc tiếp cận với kẻ địch mang tầm ư nghĩa rất quan trọng. Nh́n theo cách vô tư, từ xa và có tầm bao quát hơn th́ có vẻ những cuộc giao tranh này không có ǵ quan trọng lắm. Trong thời gian hai năm thử thách này, Thiếu úy Lê Bá B́nh đă bị thương ba lần khi dẫn Trung đội xung phong tấn công kẻ thù Cộng sản và đă được ghi công trạng anh dũng. Đó là những kinh nghiệm sẽ giúp anh và những binh lính anh sẽ chỉ huy trong các cuộc giao tranh sắp tới. So sánh với những thử thách sau này trong cương vị Đại đội trưởng hay Tiểu đoàn trưởng th́ sự khởi đầu chậm chạp và tương đối nhẹ nhàng lại là cách tốt nhất để nhập cuộc đối với một sĩ quan trẻ.

Do sự t́nh cờ của số mệnh mà vào đầu tháng 11 năm 1963 hầu hết các sĩ quan và quân nhân của Tiểu đoàn 3 đang được nghỉ phép trong khi toàn bộ Sài G̣n cũng như bộ Tư lệnh quân đội Việt Nam lao vào các âm mưu dẫn đến cuộc đảo chánh để thay thế TT Ngô Đ́nh Diệm. Họ đă tŕnh diện lại vài ngày sau khi tướng Dương Văn Minh, được hầu hết người Mỹ biết đến như "Minh cồ", đă nắm quyền lănh đạo và sau này bị thay thế bởi tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ vào cuối tháng Giêng năm 1964, sau một vài thay đổi chính quyền. Đối với các TQLC Sói Biển, công tác chiến đấu chống Việt Cộng đă trở lại b́nh thường.

Trong khi c̣n đang thu thập kinh nghiệm chỉ huy trong cương vị Trung đội trưởng, B́nh được chọn và thông báo sẽ được điều đi học khóa Căn Bản TQLC tại Quantico ở Virginia, Hoa Kỳ. Đối với Lê Bá B́nh, viễn ảnh được đi du học ở Mỹ và thụ huấn một khoá huấn luyện cao hơn là một thử thách mà anh rất hăm hở chờ đợi.

Có một điều ǵ đó không cưỡng lại và né tránh được mà mọi người phải chấp nhận là sự hiện diện và ảnh hưởng toàn diện của nền văn hóa Hoa Kỳ. Trong đề tài này th́ không mấy ai thích tranh luận. Lập luận khởi đầu là liệu cái sức mạnh này có tính cách cố ư và liệu có phục vụ cho lợi ích của người Mỹ hay không?

Thành phần ghét Mỹ tại Âu Châu và Á Châu, nhất là những người có khuynh hướng thiên tả hay thân Cộng th́ luôn luôn lên án Mỹ v́ chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Thành phần khác không phản đối Mỹ th́ đơn giản thích hưởng thụ phim ảnh và nhạc Mỹ mà cả 48 tiểu bang và ngay các tiểu bang Alaska và Hawaii tuôn ra không ngừng.

Có thể nào một người yêu quê hương đất nước của họ, đặc biệt là trong một nước thuộc thế giới thứ ba, vừa có thể giữ lại được những tinh hoa của nền văn hóa ḿnh mà vẫn thấy thích thú trước vẻ đẹp nam tính phổ quát của Burt Lancaster hay Gary Cooper hoặc sức quyến rũ của Esther Williams và Deborah Kerr hay không?

Có khi nào một người b́nh thường, dù chỉ là để giải trí, sau một lần được xem Gene Kelly hay nghe Singin' in the Rain, có thể biến thành Cộng sản được hay không? Có mấy ai có thể cưỡng lại nổi các phản ứng nhún nhẩy tự nhiên của cơ thể khi thưởng thức Temptations hay Four Tops Song? Mặc dù không hiểu tiếng Anh một chút nào, người ta vẫn cảm thấy hạnh phúc và niềm vui khó tả khi được tiếp cận với một nền văn hóa vượt không gian như vậy.

Điều đó đă xảy đến với Lê Bá B́nh, một người Việt Nam yêu nước và một sĩ quan trẻ TQLC. Ngay từ lúc c̣n nhỏ anh đă không hề bị mất gốc hay vọng ngoại. Anh đă hấp thụ ảnh hưởng Tây phương mà không từ bỏ những ǵ tốt đẹp nhất của Việt Nam và thường ư ử nhái lại những nhạc điệu của Nat king Cole. Anh vẫn thường đi đến các rạp hát nhỏ bé của Sài G̣n, tay nắm một đống tiền để mơ màng đến sự bao la của Miền Viễn Tây hoang dă trong những phim như High Noon hay Veracruz. Đến tuổi mới lớn th́ anh chỉ trễ vài tuần lễ sau giới thiếu niên Mỹ khi tiếp xúc với các giai điệu mới của Bill Haley, nhóm tứ ca Danny and the Juniors, cùng tất cả những người sau đó. Cũng nên biết rằng cuộc "xâm lăng của Anh quốc" không chỉ ngừng lại ở Bắc Mỹ sau này. Các ban nhạc the Beatles, the Animals, Herman's Hermits, the Yardbirds, the Rolling Stones cũng đă hạ cánh và chinh phục được Đông Nam Châu Á.

B́nh đă trải qua quá tŕnh thay đổi từ một sinh viên đại học thành một sinh viên sĩ quan rồi tân Trung đội trưởng và trở thành một thanh niên đầy tự tin sau khi đă sống sót qua chiến trận triền miên. Cách huấn lưyện tại chỗ như một tân sĩ quan thật khác xa với phương cách học hỏi lư tưởng về nghệ thuật chỉ huy nhưng lại là sự lựa chọn duy nhất trong điều kiện đất nước vào thời điểm lúc đó. Do đó, cơ hội được du học tại Hoa Kỳ thật là một món quà từ trên rơi xuống. Anh đă tự hiến ḿnh để thu thập phần lớn kinh nghiệm từ khóa học Cơ Bản.

Gánh nặng là phải duy tŕ sự hiện diện thường trực của quân đội Hoa Kỳ ở một cấp độ nào đó về sức chiến đấu đă khiến cho những người Mỹ chào đời sau Thế Chiến Thứ Hai không có sự lựa chọn nào khác. Cho đến tận thời điểm đó, kể từ khi lập quốc cho đến lúc khởi đầu của Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ chỉ động viên cho mục đích chiến tranh, chưa bao giờ phải răn đe ai cả. Với những thay đổi của t́nh thế, tốn phí của Chiến Tranh Lạnh về nhân lực, tài nguyên và của cải đă vượt quá xa kinh nghiệm đất nước nhưng sự cần thiết phải cảnh giác nhằm đẩy lùi hiểm họa Cộng sản đă đặt cho nước Mỹ vào thế không c̣n sự lựa chọn nào khác.

Từ sau Thế Chiến Thứ Hai, người Mỹ nghĩ rằng nếu có một cuộc khủng hoảng nào xẩy ra bất cứ chỗ nào trên thế giới th́ họ chỉ đơn giản gởi TQLC đến, cùng một lực lượng đặc nhiệm với hàng không mẫu hạm gần đó, hoặc máy bay ném bom chiến lược luẩn quẩn đâu đó trên bầu trời sẵn sàng đợi lệnh Tổng thống để xung kích là đủ.

Thế Chiến Thứ Hai đ̣i hỏi quá nhiều nơi mức sản xuất và nỗ lực của quốc dân tới mức không một bộ phận nào là không bị chiếu cố. Trong bốn năm trời đó, tất cả dồn vào kinh tế. Vào thời kỳ trước khi giành được chiến thắng, sự lựa chọn của kinh tế quốc gia là "bánh ḿ hay khẩu súng." Nói chung dân chúng đă chịu đựng và chấp nhận gian khổ cùng nhau. Ngay cả mặc dù có một số thành phần không phải ra trận phục vụ, nhưng những ngày thứ ba không có thịt và sự hạn chế về xăng nhớt cũng là một cách chia sẻ hy sinh v́ mục tiêu chiến thắng.

Trong hoàn cảnh hậu chiến với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ đă có sự thay đổi quan niệm từ "bánh ḿ hay khẩu súng" thành "bánh ḿ và khẩu súng." Trong khi tốn phí về quốc pḥng vượt xa mức sản xuất quốc gia c̣n hơn thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai nhưng sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật đă đạt tới mức là những chi tiêu thường xuyên cho Chiến Tranh Lạnh vẫn cho phép người dân được tự do hưởng thụ các lợi ích vật chất mà họ không bị đ̣i hỏi phải hy sinh cá nhân như vài năm trước đó.

Tầm cỡ tuyệt đối của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ thật khó mà đo lường được. Từ giai đoạn phác thảo hay tuyển mộ từ tứ phương cho đến lúc huấn luyện các cá nhân thành những quân nhân, thủy thủ, phi công hoặc TQLC, rồi nhiều người trong số đó lại c̣n được huấn luyện thêm về chuyên ngành đặc biệt để bổ nhiệm họ vào các đơn vị mà sau này họ sẽ phải được huấn luyện thêm nữa, cho tới sự trù liệu một uy lực của Hoa Kỳ ở bất cứ nơi nào cần đến th́ quả thật chỉ có một quốc gia thực sự giàu có mới kham nổi. Từ lúc khởi đầu cho đến lúc thật sự tác chiến hay phô trương lực lượng c̣n có vô vàn phí tổn cho việc tích trữ, xây dựng căn cứ và chăm lo cho các nhân viên phục vụ cho nhu cầu quân sự của quốc gia. Các đ̣i hỏi về nghiên cứu và phát triển lại c̣n làm tăng thêm chi phí để bảo đảm cho các chiến đấu cơ Mỹ luôn luôn nắm thế thượng phong đối với các đối phương không thể nào có sức chạy theo cách người Mỹ làm. Thật là không đơn giản chút nào nếu muốn phái một phi đội B.52 đủ sức dội bom trúng mục tiêu, hoặc điều một lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm đến một vị trí chiến lược có tầm ảnh hưởng thuận lợi cho lợi ích của Hoa Kỳ. Người Nga cũng đă cố gắng thực hiện điều đó nhưng họ không bao giờ đạt được chữ "và" trong khái niệm "bánh ḿ và khẩu súng."

Một nước nhỏ như VNCH chắc chắn không có đủ nguồn lực hay hạ tầng cơ sở khả dĩ có thể cưu mang và huấn luyện một đội quân đủ sức để thi hành nhiệm vụ sau này được giao phó. Ở giai đoạn phát triển tiên khởi, quyết định phái các tân sĩ quan TQLC đi thụ huấn Trường Căn Bản ở Quantico dường như là một điều tiên tri đúng đắn. Khi một quân nhân tiến dần lên trong hệ thống quân giai và nếu điều kiện cho phép, người sĩ quan này có thể trở lại Quantico để được huấn luyện thêm với tư cách một Đại úy, Thiếu tá hay cao hơn nữa.

Việc cử Thiếu úy Lê Bá B́nh và bốn sĩ quan TQLC khác theo học tại Trường Căn Bản Quantico tại Virginia thật hết sức đúng lúc. Cả năm anh TQLC Việt Nam đều là các chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm. Các sĩ quan cấp úy này đều đă thực hiện hàng chục chuyến bay chiến đấu bằng trực thăng xâm nhập hoặc máy bay cánh thẳng để nhẩy vào mục tiêu trong nội địa trên những chiếc C-47 hay đủ loại các máy bay quân sự khác. Họ đều quá quen với hiểm nguy nên chuyến đi Mỹ là một giai đoạn nghỉ ngơi, học hỏi và đơn giản là chuyến đi chơi đầy vui thú. Ít nhất là chẳng có ai tại Mỹ, trong tâm trí họ, muốn hại họ cả.

Từ phi trường Tân Sơn Nhất ở ngoại ô Sài G̣n, qua căn cứ không quân Clark tại Philippines, đến Guam, rồi Seattle và căn cứ không quân Travis tại California, chuyến đi thật là dài, buồn tẻ và lạnh lẽo. V́ lư do nào đó công tác chuyển vận lại thay đổi và đoạn đường ba ngàn dặm cuối cùng là một chuyến xe lửa dài ba ngày trời. Chuyến đi mất ba ngày từ Fairfield, thành phố bên ngoài căn cứ Travis cho đến Quantico. Cuối cùng th́ B́nh đă có thể nh́n và gần như là sờ thấy khoảng không gian rộng mở bao la mà anh vẫn mường tượng từ lúc c̣n nhỏ trong những buổi trưa đi coi xi-nê ngay tại Tân Định cách đó không lâu.

Khóa học Căn Bản bắt đầu vào tháng 7 năm 1964 và được đặt tên là khóa Đại đội H, hay Đại đội "Hotel," có khi gọi đơn giản hơn là "Hotel." - là một lớp học đa ngôn ngữ và đa văn hóa. Trong đám sinh viên sĩ quan người Mỹ mới tốt nghiệp mặt c̣n non choẹt c̣n có các sĩ quan cấp úy trẻ người Đại Hàn, Trung Hoa, Indonesia, Venezuela và Tây Ban Nha cũng mới mẻ không kém. Trong cả nhóm chỉ có đám Việt Nam là những người đă từng có kinh nghiệm chiến trường đáng kể.

Trong lúc tầng lớp thiếu niên Hoa Kỳ c̣n bận rộn với giày Beatles, nhạc, thời trang tóc tai th́ B́nh và các bạn trong Đai đội H miệt mài trong Trường Căn Bản để cố gắng học hỏi tất cả những điều học được về chiến thuật bộ binh, thực tập kỹ thuật phối hợp các hỏa lực theo kiểu Mỹ, quân phong quân kỷ, và tất cả những ǵ mà các sĩ quan huấn luyện có thể nghĩ ra được.

B́nh và bốn Thiếu úy Việt Nam khác đều từng là sĩ quan tác chiến. Bạn bè người Mỹ rất kinh ngạc trước những câu chuyện của họ và thường đối xử với họ một cách trân trọng hơn. Thấy trước là không bao lâu nữa sẽ cùng chiến đấu bên nhau thành thử sự quan tâm trên phương diện nghề nghiệp của họ hết sức chân thành.

Đối với các sĩ quan Việt Nam th́ cơ hội được chia sẻ ư kiến với các bạn học và giảng viên rất bổ ích và dễ chịu. Cùng với sự lan rộng của chiến trận, việc được học hỏi chính quy các chiến thuật và áp dụng hỏa lực trong lớp học cũng như ngoài trời là những điều mà các TQLC Việt Nam chưa hề có cơ hội được biết đến. Nhóm Việt Nam do đó thường thảo luận với nhau các lợi ích của từng bài học, đi vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất và trao đổi với nhau sẽ làm sao để áp dụng những điều học hỏi được với đồng đội khi họ trở về nước.

Trong lúc Đại đội H đang ngày đêm thụ huấn trong các cánh rừng Quantico th́ sự tham gia của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từng bước tiến lên cường độ cao hơn. Đúng lúc khóa học vừa hoàn tất xong chương tŕnh tập bắn súng trường th́ Quốc Hội Mỹ thông qua Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ. Mặc dù không chính thức khai chiến nhưng trên thực tế, Hoa Kỳ đă nhập vào cuộc chiến.

Khi mùa Hạ bước sang mùa Thu, các sĩ quan TQLC Việt Nam tận hưởng sự thay đổi màu sắc của đất trời. Và mặc dù họ đều đă biết đến cái lạnh buốt giá thấu xương trong rừng núi Việt Nam nhưng những nụ tuyết đầu tiên rơi xuống là một trải nghiệm như thể là ma thuật, gây ra niềm vui giống như tất cả các trẻ em khi lần đầu tiên được tiếp xúc với một hiện tượng như vậy.

Sự huấn luyện tại Trường Căn Bản rất khắt khe nhưng hoàn toàn không căng thẳng bằng chuyện có thể bị đạn thù thật sự trên chiến trường. Mặc dù đầu bếp nhà trường phải mất nhiều tuần lễ mới t́m ra cách nấu cơm đúng nhất, và dù họ dùng loại hạt gạo dài theo kiểu Mỹ nhưng B́nh không nề hà thưởng thức thịt bí-tết, hamburgers và hotdogs. Cuối tuần thường là thời gian dành cho du ngoạn và đi thăm các thắng cảnh lịch sử và văn hóa trong khoảng cách lái xe được từ Quantico.

B́nh tốt nghiệp vào tháng 12 và có được một tháng phép trước khi phải về nước. Chẳng có ǵ vội vàng cả v́ Cộng sản vẫn c̣n đầy ra đấy để tiễu trừ. B́nh đă đi thăm những nơi có thể đi được trong những buổi cuối tuần và bây giờ trong chuyến hồi hương dài và thong thả. Mặc dù anh đă không để lại trái tim nơi đó nhưng San Francisco và khu phố Tầu là nơi anh thích nhất. Anh đă được một người bạn trong Trường Căn Bản hướng dẫn đi chơi rất rành rọt v́ anh ta vốn sinh trưởng ngay tại vùng Vịnh.

Vào tháng Giêng 1965 Lê Bá B́nh trở về Việt Nam và tái nhậm Tiểu đoàn Sói Biển, giờ đây với cấp bậc Trung úy Đại đội trưởng trung đội cũ của anh. Anh phục vụ tại đó một thời gian nữa trước khi một số bạn học người Mỹ của anh từ trong Trường Căn Bản sẽ đổ bộ xuống phía Bắc gần Đà Nẵng cùng với Sư đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ.

Nguồn : http://svqy.org/

Twelve
08-10-2019, 04:09
(tiếp theo)


Chương 3

Đại úy Ripley - Đại đội Lima 6


https://i.postimg.cc/gkS2ZgG4/cpt-John-Ripley-Lt-Col-Gerald-Turley.jpg (https://postimages.org/)

Khi Đại úy John Ripley đến vùng đất này vào tháng 10 năm 1966, có lẽ ông là người cuối cùng trong số ba anh em nhà Ripley cùng năm đó đă đến để chiến đấu chống kẻ thù Cộng sản. Trong lúc người anh Mike lớn hơn John một tuổi, nhưng là người sau cùng trong ḍng họ Ripley gia nhập vào binh chủng TQLC, đă từng lái chiến đấu cơ A-4 và đă hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu của ḿnh vào tháng 6, th́ người anh cả George, vốn đă “đầu độc” đứa em ruột của ḿnh bằng cách cho đọc "Tiếng thét xung trận" của Leon Uris và do đó củng cố ước vọng trở thành TQLC của cậu ta, lúc đó đă là một Thiếu tá phục vụ với vai tṛ sĩ quan ban 3 cho Trung đoàn 3 TQLC, đơn vị phụ thuộc 3/3. Cũng trong năm đó, người cha Bud Ripley đă viết một bức thư rất xúc động gởi đến Bộ trưởng Hải quân xin cho cả ba đứa con trai của ông cùng lúc được phục vụ trên chiến trường. Lo ngại các điều luật hạn chế sự tổn thất mà một gia đ́nh có thể chịu đựng nổi sẽ không cho phép tất cả các con trai ông được thi hành nghĩa vụ cho tổ quốc, ông đă v́ đất nước thân yêu mà sẵn ḷng phó thác những người con ông yêu thương nhất cho sự may rủi.

Số mệnh của Đại úy John Ripley đă không hề bị ngăn trở bởi điều luật hay bất kỳ ai. John Ripley đă tự nhủ, tính toán và tự nguyện thực hiện ước nguyện ḿnh. Đại đội Lima, gần đây đă thay hai người chỉ huy trong một thời gian ngắn và từ đơn thuần là một Đại đội bộ binh, đă thay đổi trong ṿng vài tuần khi có viên Đại úy mới đến thành một trong những đơn vị tinh nhuệ nhất. Chỉ chưa đầy một tháng khi anh nắm quyền, sự biến chuyển đă trọn vẹn.


https://i.postimg.cc/vZRvbZfr/ttlebadinh.jpg (https://postimages.org/)

Lê Bá B́nh
Sài G̣n
Tháng Hai năm 1965

Nhận xét bên ngoài từ quan điểm của người Mỹ, thật là kỳ lạ khi mà Lê Bá B́nh, mới được thăng chức trung úy gần đây và nắm quyền chỉ huy Đại đội 1 Sói Biển, vừa quay về nhà đă lại phải trở ra mặt trận. Ngoại trừ trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, người Mỹ không có kinh nghiệm nào về chiến tranh trong nội bộ đất nước họ. Đối với những người c̣n sống, trong kư ức chung của họ là các chàng trai Mỹ luôn luôn đi ra mặt trận hay các nơi khác ngoài nước Hoa Kỳ - thường là châu Âu nhưng cũng có ở Thái B́nh Dương hoặc tại châu Á - một nơi nào đó rất xa nhà. Mặc dù viễn cảnh hạt nhân của ngày tận thế luôn ám ảnh trong tâm trí của cả quốc gia, sự kiện một thanh niên trở về quê hương để chiến đấu thật sự là một điều quá khủng khiếp để có thể suy ngẫm một cách cặn kẽ được.

Đối với người dân, nước Mỹ là nhà, nơi mà trái tim họ đang đập, được cô lập và ngăn cách bởi hai bờ đại dương, là một pháo đài hùng vĩ. Binh lính Hoa Kỳ không lo là thành phố hay quê hương họ có thể bị cướp bóc, hay vợ con họ có thể bị xâm hại. Nhưng đối với Lê Bá B́nh và những người lính TQLC th́ không như vậy. Không có những chuyện tương tự như là “Pháo đài Việt Nam.” Ít nhất là chưa có ngày ấy.

Chuyến trở về Việt Nam của B́nh gần như không có ǵ đáng lưu ư. Anh nhớ nhà, nhớ đồ ăn Việt Nam, nhớ những mùi vị và âm thanh thân quen của gia đ́nh. Thật là hạnh phúc khi được trở về nhà và anh hài ḷng khi nghĩ rằng sẽ sớm được đáp ơn những ǵ mà Tổ quốc đă kỳ vọng nơi anh. Anh rất thích nước Mỹ, thích cái vĩ đại và các khoảng không gian mở rộng, thích sự chuyển động không ngừng của người dân tại đó.

B́nh đă học được rất nhiều trong trường Huấn Luyện Căn Bản và kết thân được với một số TQLC Hoa Kỳ, những người sẽ sớm đến cùng sát cánh trong cuộc chiến đấu ngay trên quê hương anh. B́nh rất háo hức được áp dụng những bài vở đă học được với mong muốn, mà theo anh, sẽ cứu sống những người lính của anh, và quan trọng hơn hết, là tiêu diệt thêm nhiều quân cộng sản nữa.

Vào những năm sau khi kết hôn với ông Lê Bá Sách, bà mẹ kế của Lê Bá B́nh đă sinh hạ ra thêm bảy người con, nuôi nấng bốn người con riêng của chồng cũ và tất bật với cửa hàng tạp hóa kiêm luôn gian hàng thực phẩm ở chợ Tân Định. Bà chuyên bán những món ăn bún và gạo miền Bắc và làm ăn khấm khá với sự hỗ trợ của bầy con đến giúp sau khi tan học.

Đối với B́nh, Tân Định là nhà, một ốc đảo yên tĩnh, một nơi trú ẩn, một nơi để luôn luôn quay về vào cuối tuần khi Tiểu đoàn 3 nghỉ hành quân, từ căn cứ bản doanh chỉ cách xa mười lăm cây số ở Thủ Đức. Cuộc sống hàng ngày tại Tân Định dường như không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến đang xảy ra liên tục trong các làng mạc và vùng quê không xa nơi đó mấy. Ngay bên ngoài Sài G̣n, bằng chứng về sự bành trướng của Cộng sản và các vùng kiểm soát của Việt Cộng rất dễ nhận thấy.

Người Mỹ rất khó mà hiểu nổi hoàn cảnh của bạn đồng minh Việt Nam. Đối với họ, ra mặt trận có nghĩa là một chuyến đi dài đằng đẵng bằng máy bay hay tàu thủy. Đối với B́nh và hầu hết các quân nhân TQLC Việt Nam, thường th́ là vài phút rong chơi trên yên một chiếc xe gắn máy.

Vào những lần xuất hành trong các cuộc hành quân thường lệ, các đơn vị chiến đấu TQLC Việt Nam thường mang theo khẩu phần ăn cho sáu ngày gồm có gạo, cá khô, xúc xích, và nước tương. Khẩu phần C-rations cũng được mang theo nhưng chỉ được sử dụng như sự lựa chọn cuối cùng đối với những người lính TQLC Việt Nam với khẩu vị khác với người Mỹ.

Một phương cách ít phức tạp và rườm rà hơn là các Tiểu đoàn trưởng được trợ cấp tiền mặt và ông có thể xuất ra để bổ sung vào khẩu phần ăn cho các binh lính của đơn vị ḿnh.

Mang tiền mặt theo dễ hơn là mang theo cả tấn lương thực. Tiền mặt có khả năng mua được cá, gạo, sản vật và bất cứ thứ ǵ mà quân đội cần thành thử lại khiến cho các đơn vị tạo được ảnh hưởng trong các vùng mà họ hoạt động. Tiền nhẹ nhàng hơn cũng giúp đơn giản hóa các nỗ lực về tiếp vận.

Về nước uống th́ thường được lấy từ các nguồn nước tại địa phương, thường là giếng hay suối. Các quân nhân TQLC Việt Nam, dù là gốc thành thị hay nông thôn, thường có thể tạng phù hợp với các loại nước uống kém tinh khiết hơn là lính Mỹ. Việt Cộng nổi tiếng hay bỏ thuốc độc vào các giếng bất cứ lúc nào họ làm được. Một cách thử tuy thô sơ nhưng hữu hiệu nhằm đối phó với những sự phá hoại ngầm như vậy là nhúng ớt tươi vừa cắt vào nước mới lấy được. Tùy theo sự thay đổi màu sắc của nước mà biết được nước có an toàn để uống hay không.

Một trong những khó khăn lớn nhất khi hoạt động trong hoặc xung quanh khu vực đông dân cư là làm thế nào xác định được ai có cảm t́nh với Cộng sản. Khác với bộ đội Bắc Việt, Việt Cộng không mặc đồng phục. Họ luôn luôn t́m cách khai thác các lợi thế như lén lút và lừa dối, với khả năng có thể trà trộn lại vào đám dân chúng mà họ vừa từ đó chui ra.

Người Mỹ đặc biệt gặp khó khăn khi muốn phân biệt những người dân b́nh thường với kẻ thù mang vũ khí. Sự khác biệt quá lớn về ngôn ngữ và văn hóa cộng lại đă làm cho việc giao tiếp và hiểu biết về những nét tinh tế của lối sống Việt Nam rất khó khăn. Những điều này hoàn toàn ngoài tầm hiểu biết của của người lính Mỹ b́nh thường. Đó là một trở ngại lớn đối với nỗ lực của người Mỹ để đánh bại một kẻ thù mà họ hơn hẳn về hỏa lực nhưng kém hơn trong sự xảo quyệt hay sự quyết tâm.

Lính TQLC Việt Nam không hề bị các rào cản về văn hóa hay ngôn ngữ như vậy nên nói chung dễ phát hiện các khu vực mà Việt Cộng hoạt động hơn là người Mỹ.

Có nhiều phương cách và dấu hiệu để phát hiện ra Cộng quân. Chỉ cần nói chuyện bâng quơ với dân làng là đă có thể nhận ra ḷng dạ hay ư định của họ. Một điều rơ ràng là nếu họ chịu tiết lộ th́ biết ngay họ có chống Cộng hay không v́ nếu giúp chính phủ thường phải trả giá rất cao. Việt Cộng sẵn sàng trả đũa những hành động giúp địch như vậy một cách nhanh chóng và tàn bạo. Trong vùng kiểm soát hay khủng bố của Việt Cộng, người dân thường giữ im lặng và miễn cưỡng trả lời những câu hỏi thông thường nhất.

Chỉ nội sự im lặng cũng đủ báo hiệu cho TQLC biết cần phải thận trọng hơn. Trong các làng mạc và cánh đồng lúa giáp với khu dân cư mà chỉ có lác đác vài người lớn làm việc trong giờ làm đồng vào ban ngày thường có nghĩa là họ phải tham dự các lớp học về tuyên truyền và nhồi sọ. Đôi khi TQLC yêu cầu các ngôi làng nghi ngờ có VC hiện diện phải đốt đèn ban đêm để có thể dễ dàng quan sát mọi sự di chuyển. Đèn tắt chứng tỏ cho TQLC biết có điều ǵ đó ám muội đang xảy ra.

Có một loạt các dấu hiệu riêng rẽ hay liên quan với nhau, có khi rất rơ ràng và đôi khi mù mờ nhưng nếu biết kết hợp lại với nhau th́ có thể xác định mức độ đe dọa của bất kỳ một khu vực cụ thể nào đó. Tuy nhiên có một nguồn tin tức tốt, chắc chắn nhất để biết có Cộng sản chung quanh hay không là hỏi trẻ em. Tách chúng ra khỏi đám đông, ân cần hỏi han và cho bánh kẹo là cách dễ dàng nhất để lấy niềm tin của đám trẻ thơ ngây mà bất cứ sự huấn luyện hay đe dọa nào của cha mẹ chúng đều không ngăn chận được, cho dù là họ có là cán bộ ṇng cốt của Việt Cộng đến đâu đi nữa.

Những điều mà B́nh và số lượng ngày càng đông các sĩ quan trẻ TQLC đă được học thêm tại Quantico rất có ích. Khả năng tác chiến của họ đă được nâng cao và quy mô của TQLC Việt Nam cũng được phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của chiến tranh vào năm 1965 cùng với sự khốc liệt của cuộc chiến đang được tiến hành. Khi B́nh c̣n là một thiếu úy, phần lớn các trận chiến gần Sài G̣n hơn để đối phó với các đơn vị nhỏ của Việt Cộng. Ngay sau khi được thăng chức trung úy và nhận nhiệm vụ Trung đội đội trưởng TĐ1 của TĐ3, đơn vị B́nh được điều ra phía Bắc đánh nhau với các đơn vị VC lớn hơn và cả bộ đội Bắc Việt nữa.

Từ lúc đầu tiên ra mặt trận, ngay trước những ngày tại Quantico, B́nh đă chiếm được cảm t́nh của các cố vấn TQLC Mỹ hiện diện bên cạnh các đồng minh Việt Nam nhằm bảo đảm cung cấp một hỏa lực dồi dào. Sự yểm trợ của không lực nếu được đáp ứng một cách nhanh chóng và tương đối chính xác từ các phi công Việt Nam và Mỹ cùng với yểm trợ pháo binh từ của tiểu đoàn pháo binh TQLC thường đánh dấu sự khác biệt giữa chiến thắng và thất bại, sự sống hay cái chết, đặc biệt là chống lại các lực lượng thù địch Bắc Việt thường có quân số đông hơn.

Địa bàn hoạt động của Đại Đội 1 vào năm 1965 thường diễn ra tại một vùng mà giới quân sự và dư luận Hoa Kỳ gọi là Vùng I (c̣n gọi là Quân Đoàn 1), phát âm là "Ai-Coọc" (I-Corps). Việt Nam Cộng Ḥa được chia ra làm bốn vùng chiến thuật. Vùng I là phần đất nằm phía Bắc của Việt Nam Cộng Ḥa. Vùng chiến thuật này bao gồm biên giới với Bắc Việt (vùng phi quân sự) cũng như tiếp giáp với biên giới Lào nơi quân Bắc Việt duy tŕ đường ṃn Hồ Chí Minh cùng với các căn cứ quan trọng có thể dùng để xâm nhập miền Nam Việt Nam qua nhiều ngả khác nhau. V́ vậy đây là một trong bốn vùng chiến thuật xảy ra các trận đánh khốc liệt và gây nhiều thương vong nhất trong suốt cuộc chiến.

1965 chưa phải là năm đẫm máu nhất cho Tiểu đoàn Sói Biển TQLC Việt Nam. Do nhu cầu chiến sự, khả năng chỉ huy cấp đại đội bộ binh của B́nh đă được nâng cao theo cấp số nhân. Các cuộc đụng độ quan trọng với các đơn vị lớn gấp bội của Việt Cộng tại những nơi như Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, tiếp giáp với Quốc lộ I, cách 60 km về phía nam Đà Nẵng, 570 km về phía bắc Sài G̣n, và chỉ cách bờ biển sáu cây số, đă là nơi Đại đội 1 của B́nh tham gia vào một chiến thắng quan trọng trước một số trung đoàn VC. Các cuộc đụng độ khác, như trận đánh tại Ba Gia và tiến sâu vào nội địa, cách Tam Kỳ 40 km về phía nam, là một bài học đắt giá trong việc tránh bị đánh lừa. Tại Ba Gia, VC đă xuất sắc trong việc chuẩn bị chiến trường trước trận chiến. Mặc dù Đại đội 1 đă tiêu diệt được một số quân Cộng sản đáng kể, sau trận đánh chính kẻ địch đă gây tổn thất nhiều hơn cho quân VNCH trong lần đó.

Bị thương lần thứ tư lúc chỉ huy Đại đội 1 đánh nhau phía Bắc và một lần nữa được công nhận là chiến sĩ anh hùng, danh tiếng của B́nh như một nhà tư tưởng và một chiến sĩ không quản gian nguy chiến đấu chống một kẻ thù dai dẳng đă lan truyền sâu rộng trong giới TQLC tuy c̣n nhỏ bé nhưng đang phát triển lớn mạnh dần. Bố mẹ B́nh, đám em và bạn bè rất ngưỡng mộ ḷng quả cảm của anh và dường như lúc nào anh cũng đang phải hồi phục từ các vết thương do mảnh bom đan hoặc rừng rậm ô nhiễm. Giữa những cuộc hành quân, Tiểu đoàn Sói Biển bổ sung quân số, nghỉ ngơi và tái huấn luyện tại Thủ Đức. V́ vậy B́nh có thời gian rảnh rỗi để thăm gia đ́nh và bạn bè gần đó tại Tân Định.

Trong vùng Tân Định không có vị trí chiến lược nào ngoại trừ một đồn cảnh sát nhỏ cho nên khả năng VC tấn công khủng bố rất xa vời. Đối với B́nh sự thay đổi liên tục giữa chuyện phải điều đi đánh nhau ở bất kỳ nơi nào đó và trở về nơi tạm yên Tân Định đă trở thành một tập quán. Ngày nào Cộng sản bị đánh bại và ḥa b́nh tái lập, họ sẽ trở về cuộc sống mà thực sự chưa có ai từng sống qua nhưng tất cả đều hoài mong chờ đợi. Trong lúc này họ phải chịu những sự hy sinh cần thiết thôi.

Không có nơi nào mà niềm tin tưởng là những sự hy sinh cần thiết ngày nay cho một tương lai tốt đẹp hơn được thể hiển rơ ràng nhất trong âm nhạc của thời đó. Nền tân nhạc cận đại của Việt Nam vào thời kỳ đầu và giữa thập niên 1960 là một sự pha trộn khác thường của nhạc trẻ Mỹ và Pháp cùng với hai ngàn năm văn hóa của đất nước. Nhạc mới Việt Nam có thể được chia ra thành hai giai đoạn chính. Từ 1954 cho đến khoảng 1962, lúc nỗ lực chung được tập trung vào việc xây dựng nội bộ đất nước, các bài hát ghi chép lại các cuộc đấu tranh gần nhất và niềm tự hào về khả năng của nước cộng ḥa. "Chuyến đ̣ vĩ tuyến" nhằm vinh danh hơn 800 ngàn người đă hy sinh rất nhiều để di cư vào Nam bằng đường thủy. "Nắng Đẹp Miền Nam" (The Rising Sun of the South), một giai điệu rất được ưa thích và được phổ biến rộng răi như cái tựa đă nói lên được ư chính, là một trong những bài ca theo chủ đề tương tự tiêu biểu cho thời kỳ đó.

Từ năm 1962 trở về sau, âm nhạc được phát triển cùng với nhịp độ ngày càng tăng của cuộc xung đột. Giọng ca ủy mị và diễn xuất tuyệt vời của Hoàng Oanh trong bản "T́nh Anh Lính Chiến" (The Love of a Fighting Man) đă được biết đến và ghi khắc trong ḷng của mỗi quân nhân cũng như những phụ nữ đang chờ đợi họ. Trong bài hát, người lính chiến đấu ngoài mặt trận và người yêu th́ ở lại hậu phương. Trong màn đêm, chàng trai ngắm trăng tṛn và tự hỏi, giống như mọi chiến binh khắp nơi, không biết người yêu có đang ngắm cùng một vầng trăng và nghĩ đến ḿnh hay không?

Nhiều bài ca khác không ủy mị bằng th́ kêu gọi ḷng ái quốc và gương hy sinh. "Ai Đi Chinh Chiến" đặt và giải đáp câu hỏi "Ai là những người ṭng quân để xây dựng một tương lai ḥa b́nh?" Có thật nhiều các bài hát yêu nước và chống cộng nhưng không phải tất cả các bản nhạc đều như vậy. Miền Nam đă đủ lớn mạnh và an ninh để chấp nhận cả nhạc phản chiến của Phạm Duy rất được phổ biến.

Ngay từ năm 1962, dấu chân của người Mỹ ở Việt Nam là đủ quan trọng và phổ biến, cũng như các chuyến công vụ của họ cũng đủ lâu dài để ảnh hưởng nền văn hóa Mỹ lên nước nhà. Do đó người Mỹ không muốn và cũng không có lư do nào để họ vượt ra ngoài những điều dễ dàng có sẵn. Ngay từ việc chuyển từ tiếng Anh qua tiếng Việt đă không giống như việc học tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Pháp ở trung học. Bạn không thể thêm một "o" ở cuối của mỗi từ và giả bộ đó là tiếng Việt, mặc dù một vài từ tiếng Pháp vẫn c̣n được dùng như vậy. Chẳng lẽ binh sĩ và Thủy quân lục chiến Mỹ lại nói: "Boocoo VC," "boocoo này" và "boocoo đó?” (beaucoup).

Người Mỹ, ngay cả cách sử dụng đôi đũa c̣n nhiều lúng túng, hoàn toàn không hiểu các ngữ điệu tinh tế tựa như tiếng hát của ngôn ngữ địa phương. V́ vậy họ thấy văn hóa Việt Nam có vẻ cầu kỳ ṿng vo và không thích hợp với những phương pháp kinh doanh Tây phương thẳng thắn trực diện mà họ tin là có ưu thế hơn.

Trong đám thương gia Việt Nam có những người đàn ông cũng như đàn bà tham lam và siêu-tư-bản chỉ muốn bám vào sự hào phóng của người Mỹ c̣n chưa biết cả cách đổi tiền ṣng phẳng. Trong phạm vi những khu vực "Hoa Kỳ nhỏ", thường xuất hiện bất kỳ nơi nào có quân đội Hoa Kỳ hoạt động, có đủ các thú vui thể xác mới lạ mà hầu hết những người lính Mỹ trẻ rất muốn thử qua. Do đó, rất ít người Mỹ thật sự hiểu được dân bản xứ và nền văn hóa một cách thân thiện ngoài những ǵ có sẵn trong khu ồn ào, các nhà thổ và các quán ba.

Trong khi chủ nghĩa đế quốc văn hóa Mỹ dường như chừa lại chẳng bao nhiêu cho những ǵ không phải là văn hóa Mỹ th́ B́nh, cũng như đa số bạn bè của anh và gia đ́nh, lại thích loại âm nhạc tổng hợp nhiều màu sắc lúc nào cũng hiện diện trên các làn sóng phát thanh hơn. Mọi người đều thuộc ḷng nhịp điệu bản "C'est Si Bon" và hầu hết đều hiểu “thấu lời bài hát do di sản văn hóa Pháp để lại. Với tŕnh độ tiếng Anh của ḿnh, B́nh c̣n hiểu được lời các bản nhạc của Beatles như "I Saw Her Standing There." Và anh cũng thích những bài hát như vậy, giống như hàng trăm ngàn người Việt Nam thuộc giới trẻ không cần biết và cũng không quen với ư nghĩa lời nhạc nhưng lại được truyền cảm hứng qua các giai điệu. Ít nhất là người Việt Nam và người Mỹ c̣n có chung một thứ ǵ đó để chia sẻ với nhau trong tính phổ quát của nhạc Rốc.

Đối với những người Mỹ yêu nước thuộc thế hệ xưa, những người thích Trung sĩ Barry Sadler với bài "Ballad of the Green Berets" nếu như họ biết th́ có lẽ "T́nh Anh Lính Chiến" sẽ hấp dẫn và quen thuộc với họ hơn.

Với tư cách một Trung úy bộ binh trẻ, Lê Bá B́nh tập trung vào nhiệm vụ chiến đấu và chăm lo đến các binh sĩ trong Đại đội 1 nhiều hơn mọi thứ khác. Tuy anh rất thích âm nhạc thời đó nhưng anh không màng đến ư nghĩa của bất kỳ bài hát đặc biệt nào. May mắn cho anh là có một người phụ nữ trẻ, đặc biệt với một nhận thức sâu sắc hơn về nghệ thuật và thơ văn cũng như tính lăng mạn của thời kỳ độc đáo duy nhất đó. Sau này B́nh có lư do riêng để cảm ơn Hoàng Oanh đă hát bài "T́nh Anh Lính Chiến" ra rả liên tục v́ điều này chính là yếu tố quyết định sau rốt để Cầm Bành nhận lời cầu hôn của anh.

Đại đội Lima 6

Khi John Ripley có mặt tại Việt Nam, ông chỉ có một mục tiêu chuyên nghiệp trong đầu. Mặc dù ḷng thương nồng nàn anh dành cho bà vợ Moline và đứa con trai Stephen, nhưng John Ripley vẫn là một sĩ quan bộ binh thuộc binh chủng TQLC. Anh là một đại úy Thủy quân lục chiến. Cấp bậc Đại úy thuộc binh chủng TQLC, trên danh nghĩa, có nhiệm vụ chỉ huy Đại đội bộ binh để ra mặt trận khi cần thiết. Bất cứ cấp chỉ huy "skipper"* (danh xưng chỉ huy trong TQLC, vốn thuộc vào bộ Hải Quân được gọi là "skipper" tức thuyền trưởng) nào với mức độ nam tính vừa phải hoặc đủ mức gan ĺ thường sẵn sàng vượt chông gai để có cơ hội dẫn dắt đám TQLC đi đánh nhau. Người nào mà không đủ mức độ nhiệt t́nh như vậy thường thất bại khi chỉ huy binh lính của ḿnh. *

Rất ít người sống ngoài quân ngũ hiểu và đánh giá nổi cái quyền quyết định tuyệt đối như ông Trời đă giao cho những thanh niên chỉ ngoài đôi mươi ngoài mặt trận.

Trong chiến sử đầy dẫy các trường hợp những chàng trai mới lớn và quá tŕnh thay đổi nhanh chóng của họ. Bản chất cuộc chiến tại Việt Nam là trên bộ thành thử đă có một số lượng hỏa lực khổng lồ được tập trung vào những tay Đại úy chỉ mới hai mươi bốn, hai mươi lăm, hoặc hai mươi sáu tuổi. Họ thường xuyên dẫn Đại đội hành quân xuyên qua những cánh đồng, những cánh rừng rậm và lên xuống các đường ṃn quanh co. Đối với những sĩ quan bộ binh nào thích được thử sức tới cùng và dứt khoát muốn biết ḿnh có đủ đảm lược để chỉ huy binh sĩ chiến đấu trong t́nh huống tuyệt vọng hay không th́ nhiệm vụ Đại đội trưởng bộ binh chính là cái thử thách đó.

Có nhiều yếu tố kết hợp lại để nhiều người gọi chiến tranh tại Việt Nam là một cuộc chiến "cấp Đại đội." Thế đất và địa h́nh thường giới hạn việc sử dụng các đại đơn vị cũng như các chiến thuật càn quét. Hầu hết các trận đánh xảy ra trong rừng rậm, tầm nh́n bị hạn chế, thông tin liên lạc khó khăn và kẻ thù th́ phải cận chiến. Điều này có nghĩa là những đơn vị lớn hơn cấp Đại đội thường không được sử dụng với một hiệu quả tối đa. Chính v́ những giới hạn về địa lư cho nên các tướng lănh tư lệnh Sư đoàn, các Đại tá chỉ huy Trung đoàn, ngay cả cấp Trung tá Tiểu đoàn trưởng thỉnh thoảng phải chấp nhận quan sát mặt trận từ những hầm chỉ huy ở phía sau hay phải bay trực thăng trên không, rất hiếm khi nào ngay từ tiền tuyến. Cuộc chiến tại Việt Nam được lên kế hoạch tỉ mỉ từ cấp cao và trung b́nh nhưng phần lớn được thực hiện bởi cấp Đại úy trở xuống. Vai tṛ của một "skipper" có một sức hấp dẫn đặc biệt. Nó là điểm tựa, là trung tâm tuyệt đối của thế giới TQLC mà chung quanh đó là một sự pha trộn đặc biệt của tinh thần chỉ huy tại chỗ. Sĩ quan Đại đội trưởng là người điều hành và quyết định tuyệt đối. Tuy nhiên họ cũng có thể gần gũi như một người anh cả đối với các cấp Trung đội trưởng và binh sĩ, có thể nh́n thấy ngay các kết quả tức khắc - thành quả của khả năng đơn vị ḿnh - và đồng thời sử dụng được toàn bộ kỹ năng trí tuệ nhằm phối hợp và hướng dẫn các phương tiện hỏa lực hỗ trợ trong quá tŕnh suy luận có thể thực hiện được.

Trong một trận đánh không có điều ǵ khó khăn hơn là việc gọi hỏa lực khủng khiếp từ các chiến hạm, các đơn vị pháo binh, không lực yểm trợ, để rồi phối hợp thành công và điều chỉnh lại qua những người trên mặt đất. Khi mọi chuyện kết hợp lại với nhau tốt đẹp như vẫn thường xảy ra th́ chiến thắng gần như là chắc chắn. Thỉnh thoảng cũng có những trường hợp mọi chuyện không tốt đẹp như vậy.

Ngay cả những lúc như thế, vẫn luôn luôn có những hành động chung của các TQLC được huấn luyện và chỉ huy đúng mức trong các toán hỏa lực, các Tiểu đội và Trung đội trong thành phần Đại đội vượt qua được các sai lầm về phán đoán, liên lạc bị thiếu sót, những vụ bắn lầm phe bạn, những t́nh huống bất thường và một kẻ thù không kém ngoan cố để tạo nên sự khác biệt giữa thành công và thất bại.

Một giàn hỏa lực có sức tàn phá khủng khiếp chỉ kém vũ khí hạt nhân một mức, được thiết kế bởi những khoa học gia lỗi lạc nhất của các công ty lớn nhất của ngành kỹ nghệ chiến tranh Hoa Kỳ hùng mạnh luôn luôn sẵn sàng chờ đợi sự phán đoán chín chắn đă được giao cho viên chỉ huy "skipper." Anh ta chỉ việc yêu cầu và chỉ định sự tàn phá cần thiết sẽ được thực hiện tại đâu. Tất cả đă được dọn sẵn cho anh ta và các chiến binh TQLC như một mâm cỗ khổng lồ vô hạn định về thời gian. Toàn là những thứ "nặng kư"; một hỏa lực tàn khốc có khả năng xé toạc mặt đất ra từng mảnh, một hỏa lực khốc liệt có thể biến con người thành tro bụi, xóa hết vết tích người đó đă từng hiện hữu. Tất cả sức mạnh đó nằm trong tay một thanh niên trẻ tuổi. Trách nhiệm nặng nề về sự an nguy của hai trăm binh sĩ và khả năng nắm trong tay một hỏa lực vô giới hạn tùy thuộc vào sự quyết đoán của một người c̣n chưa biết cạo râu mà một hay hai năm trước đó c̣n thắc mắc làm sao qua được một kỳ thi đại học hay giường chiếu của một vài cô gái đầy hứa hẹn, hoặc chẳng suy nghĩ ǵ cao xa hơn những bản nhạc như “Who Wrote the Book of Love” hay “Who Put the Bomp in the Bomp Bah Bomp Bah Bomp?”

Không có một nơi nào có thể mang lại một cảm giác kinh sợ, những t́nh cảm cao độ, tinh thần trách nhiệm và cơ hội rủi ro cá nhân và phần thưởng tinh thần và sự mất mát như vậy được. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy Đại đội, người đàn ông sẽ không bao giờ có lại được cái cảm giác tuyệt đối như thượng đế nữa. Sau này nếu có trở về đời sống dân sự, mọi của cải tích lũy được cũng không sánh bằng mức độ trách nhiệm và uy quyền đă từng có được trước kia. Ngay cả nếu có được thăng cấp lên chỉ huy các đơn vị lớn hơn, kinh nghiệm này cũng sẽ làm kém đi t́nh cảm gắn bó với thuộc cấp nơi đầu sóng ngọn gió. Người ta nói rằng hầu hết các tướng lănh TQLC đều sẵn sàng đánh đổi các ngôi sao của ḿnh để làm chỉ huy Đại đội ngoài mặt trận một lần nữa.

Phải mất một chút thủ tục sau khi đến Việt Nam nhưng cuối cùng John Ripley đă được giao nhiệm vụ chỉ huy Đại đội mà anh hằng khao khát. Sự vụ lệnh bổ nhiệm là sĩ quan chỉ huy Đại đội Lima tương đối nhanh chóng. Chẳng là Đại đội đă trải qua nhiều cấp chỉ huy trong một thời gian ngắn v́ những lư do không khác thường lắm. Mặc dù c̣n sót lại một ít chiến binh đầy kinh nghiệm từ những chiến dịch trước, nhiệm vụ này đă có nhiều sự thay đổi. Trước kia đơn vị này được phối trí tại một khu vực gần Đà Nẵng và hoạt động chính của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 3 nhằm chống lại du kích Việt Cộng trong những cuộc đụng độ không thường xuyên và nhanh chóng. Cuộc giao tranh mà họ sắp tham gia ở phía Bắc Vùng I Chiến Thuật sẽ gay go hơn, có tính cách qui ước và liên tục hơn so với những ǵ đă trải qua. Hằng ngày phải chạm trán với các lực lượng Bắc Việt mạnh và được huấn luyện khá hơn (so với Việt Cộng) trên một địa bàn khắc nghiệt đă làm cho cuộc chiến trở nên đẫm máu hơn. Khi Đại úy Ripley nắm quyền chỉ huy Đại đội Lima, anh chưa có kinh nghiệm cá nhân mấy. Nhưng anh cũng không có tật xấu nào cả. Một tâm trí cởi mở đi đôi với ḷng nhiệt thành muốn làm hết khả năng của ḿnh đă là một sự khởi đầu tốt đẹp. Kinh nghiệm Thám Sát kết hợp với sự huấn luyện về Biệt động cùng với nhiệt huyết riêng về Trinh sát, tài năng dọ thám địa h́nh, đồng thời một khái niệm vững chắc làm cách nào tận dụng hỏa lực yểm trợ có sẵn là những yếu tố anh sớm sử dụng với một hiệu quả trông thấy được.

Đại úy Ripley là một người rất khó tính khi huấn luyện lại Đại đội Lima với những chiến thuật bộ binh căn bản nhất. Muốn di chuyển toàn bộ một Đại đội bộ binh cộng thêm mọi trang bị với con số lên tới 225 lính TQLC cùng với lính Hải quân không phải là chuyện đùa, đặc biệt tại phía Bắc của Vùng I Chiến Thuật. Tuy nhiên chỉ trong ṿng hai tuần lễ, Đại đội Lima đă có khả năng thực hiện được điều đó chỉ bằng cách ra dấu 100%.

Không có chuyện lộn xộn hay giỡn chơi được. Mọi giác quan lúc nào cũng phải căng thẳng sẵn sàng. Mỗi TQLC và lính đều phải biết vai tṛ của ḿnh, biết khi nào sẽ có đụng độ. Các chiến binh đều trở thành chó săn, đánh hơi được từng dấu hiệu của sự hiện diện của đối phương trước khi quân Bắc Việt nhận ra họ. Trong những tháng sau đó, Đại đội Lima không bao giờ bị bất ngờ hay bị phục kích bởi kẻ thù. Chính Đại đội Lima chủ động các cuộc chạm trán và không hề thiếu những t́nh huống như vậy. Một người bạn đồng thời là đệ tử của Ripley tên là Ed "Ed mă tấu" McCourt, khi đó là Trung úy của Trung đội 3, Đại đội 3 India, đă nhanh chóng nhận xét về anh: "Rip là một thứ nam châm hút bộ đội Bắc Việt. Đám TQLC chúng tôi thường xin hành quân bên hông của Đại đội Lima v́ chúng tôi luôn luôn thấy chắc chắn là có đánh đấm."

*Danh xưng "skipper" không được gọi một cách dễ dàng. Trong Hải Quân Hoa Kỳ, skipper là sĩ quan chỉ huy của bất cứ loại tầu bè nào; từ cái xuồng thoát hiểm cho đến hàng không mẫu hạm. Trong TQLC Hoa Kỳ, danh xưng này dùng để chỉ người nắm quyền chỉ huy Đại đội - trong trường hợp này là Đại đội bộ binh. Trong mọi trường hợp, đây là một danh xưng để bày tỏ niềm kính nể và sự thân mật.

Nguồn : http://svqy.org/
(C̣n tiếp)

Twelve
14-10-2019, 04:19
(Tiếp theo)


Chương 4

Nhiệm vụ cảm tử

Trung đội 1, Đại đội Lima, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 3 (3/3)
Vùng 1 Chiến Thuật, VNCH
Thứ Năm, ngày 2 tháng 3 năm 1967
4 giờ 30 chiều

Đối với các TQLC Hoa Kỳ thuộc Đại đội Lima 3/3 đă sống sót qua cái trận đánh không tên, mà chỉ được mệnh danh bằng một tọa độ mờ nhạt ở đâu đó trong khu rừng rậm phía Tây Bắc Đông Hà gần khu phi quân sự trong buổi sáng ngày 2/3/1967, th́ đó là thời điểm đă xác định, đă đánh dấu, cũng như đă thử thách xem họ có đủ các đặc tính giúp họ vượt qua được tất cả những ǵ mà chiến tranh có thể giáng lên họ.

Vào khoảng 3 giờ chiều ngày 2/3/1967, Chuck Goggin, mới thăng cấp Hạ sĩ hai ngày trước đó v́ nhu cầu chiến trường đă lên nắm quyền chỉ huy các chiến binh sống sót thuộc Trung đội 1 Đại đội Lima. Chưa đầy 13 tháng trước đó, Chuck Noggin chỉ là một thường dân, một lực sĩ trẻ đầy triển vọng đang sửa soạn vào đội ngoại hạng Liên đoàn bóng chày Mỹ. Là một trong một nhóm nhỏ các TQLC thực sự bị động viên trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Chuck đă được lên binh nhất trong khóa huấn luyện căn bản đă được rút ngắn lại chỉ c̣n tám tuần dođòi hỏi của chiến tranh. Tiếp theo những ngày gian khổ tại Parris Island là trường ITR, (Infantry Training Regiment - Trung đoàn Huấn Luyện Bộ Binh), tức một chương tŕnh huấn luyện bốn tuần lễ dành cho các TQLC sửa soạn lên đường chiến đấu ngoài mặt trận. Vậy mà bây giờ anh đă nắm quyền chỉ huy sinh sát của những binh sĩ sống sót của Trung Đội 1 Đại đội Lima trong một trận đánh sống c̣n của đời anh.

Từ tháng 7 cho đến thượng tuần tháng 12/1966, Chuck là một chú lính quèn thuộc một trong ba Tiểu đội của Trung đội 1 Đại đội Lima. Thời gian đó đủ dài để biến đổi anh từ một người lính ṭ te trở thành một chiến binh dày dạn kinh nghiệm trong rừng rậm. Thời gian 5 tháng đó đă tạo cho anh cơ hội được tham dự chiến trận nhiều hơn là anh tưởng, cho anh chứng kiến quá nhiều đồng đội bị giết hay bị thương, và đã phát triển t́nh đồng đội của anh với các TQLC khác lên tới mức vượt qua tất cả những ǵ mà anh có thể thấy được ở bất cứ nơi đâu.

Thiếu úy John Bledsoe đă chú ư đến sự xông xáo và khả năng chỉ huy của Chuck Noggin nên đă chọn anh, lúc đó là Hạ sĩ, làm nhiệm vụ liên lạc truyền tin cho Trung đội vào đầu tháng 12. Vai tṛ truyền tin hết sức đặc biệt. Thông thường, kẻ địch luôn luôn nhắm bắn đầu tiên vào vị chỉ huy đơn vị, sau đó là binh lính chung quanh và nhân viên truyền tin. Cộng thêm vào chuyện trở thành mục tiêu của kẻ thù là cái thử thách phải đeo thêm khối nặng 30 cân Anh kể cả bộ pin dự bị của máy truyền tin AN/PRC-25’s (gọi là “prick 25”).

Nhiệm vụ truyền tin đ̣i hỏi phải luôn luôn đi sát như bóng và h́nh với sĩ quan chỉ huy mà anh phục vụ. Họ đi tới đâu th́ phải theo sát tới đó. Khi truyền tin chưa cần phải gọi pháo binh, gọi không yểm hay di tản thương binh th́ họ cần phải chú ư tiếp nhận lệnh lạc từ đơn vị trực tiếp cấp trên gọi xuống. Trong trường hợp Hạ sĩ Goggin thì đó chính là các mệnh lệnh từ Đại đội trưởng. Các Trung đội trưởng, Đại đội trưởng thường sống, ăn ngủ và chiến đấu bên cạnh các nhân viên truyền tin riết rồi trở thành đồng cảm với nhau. Cường độ của các trận giao tranh đă làm cho mối tương quan và nhu cầu sống c̣n phát triển mạnh mẽ đến mức một nhân viên truyền tin giỏi có thể đoán được ư xếp của ḿnh để hành động trước và gần như biết hết những ǵ cần làm, phải yêu cầu cái ǵ và khi nào th́ cần xin hỏa lực yểm trợ.

Cơ hội được quan sát thường xuyên các hoạt động của các sĩ quan đă từng được huấn luyện qua trường lớp, được chứng kiến sự phối hợp giữa các đơn vị yểm trợ với nhau để bảo đảm thành công, được thấy từng phầnăn khớp với nhau để kết thành một bức tranh toàn thể rộng lớn như thế không thể có được khi ở vị trí một binh sĩ b́nh thường. Một nhân viên truyền tin đặc biệt sáng suốt c̣n có thể học hỏi thêm khi quan sát các toán quân di hành, phải làm những ǵ để dẫn dắt một đơn vị chạm được địch và điều chỉnh pháo binh vào một mục tiêu di động. Nếu 5 tháng đầu tiên của chu kỳ nhiệm vụ tại Việt Nam là tŕnh độ “cử nhân” về kỹ thuật chiến đấu th́ Hạ sĩ Goggin đă bắt đầu chương tŕnh “thạc sĩ” mà không cần phải tŕnh luận án, kể từ cái ngày anh đeo vào vai cái máy truyền tin PRC-25. May mắn cho các binh sĩ của Trung đội 1 là Hạ sĩ Chuck Goggin đă chứng tỏ nhiều lần anh là một người học rất nhanh.

Không có ǵ bất thường cả, do cách mà những cá nhân được thuyên chuyển qua lại, bị thương hay thiệt mạng mà nhiều đơn vị được chỉ huy bằng những người mang cấp bậc thấp hơn là cấp số chức vụ. Chu kỳ nhiệm vụ của Thiếu úy Bledsoe với Đại đội Lima 3/3 đă chấm dứt vào tháng 12/1966. V́ thiếu sĩ quan cấp úy để nắm quyền Trung đội ngay tức khắc nên chức Trung đội trưởng rơi xuống viên Thượng sĩ của Trung đội 1. Thượng sĩ nhất Gerald Witkowski, lẽ đương nhiên được các TQLC gọi là “Thượng sĩ Ski”, đă đảm nhận nhiệm vụ Trung đội trưởng trong ṿng chín đến mười tuần tiếp đó cho đến khi có một sĩ quan cấp úy khác đến thay. Thiếu úy Terry Heekin, mới tốt nghiệp trường Căn Bản Quantico rốt cuộc là người đến thay vị tiền nhiệm chỉ một vài ngày trước trận đụng độ của Đại đội Lima vào ngày 1 tháng 3/1967.

Trước kia, Chuck Goggin từng là cầu thủ bóng chày. So với đa số các đồng đội trong Trung đội 1 và Đại đội Lima, anh tương đối là một người lớn hơn hết với số tuổi gần hai mươi hai. Anh xong trung học tại trường Pompano Beach năm 1963 và là một ngôi sao trong đội bóng chày. Anh đă theo học một thời gian trong trường Đại học tại Florida trước khi được đội Los Angeles Dodgers chọn vào năm 1964. Trong hai năm trời anh chơi cho các đội hạng A của Dodgers, khởi đầu ở vị trí ngăn chặn với đội Salisbury Dodgers trong Liên đoàn West Carolina và sau đó giữ chân pḥng thủ trong đội St. Petersburg Saints của Liên đoàn Tiểu bang Florida. Trong mùa đầu tiên anh đă bị chấn thương trặc gân chằng ở đầu gối trái, một dạng thương tích cần phải giải phẫu và đă để lại một vết thẹo lớn, một bệnh trạng có thể được hoăn dịch quân sự nếu anh muốn. Tuy nhiên đó không phải là cung cách sống của Chuck Goggin.

Ngoài những thời gian không sao kể siết phải canh điện đàm, đào hầm cá nhân, lội đường ṃn trong rừng rậm, hay đánh nhau với thời tiết và quân Bắc Việt, thỉnh thoảng Hạ sĩ Goggin cũng có những giây phút xa hoa để ngẫm nghĩ về cái thế giới của bóng chày và đau ḷng nhận ra là mọi chuyện vẫn trôi qua mà không cần sự có mặt của anh.

Vào khoảng thời gian Đại đội Lima bận luân chiến với các đơn vị Bắc Việt đang vô vọng cố t́nh muốn tiêu diệt họ bằng mọi giá th́ các bạn thể thao cũ của Chuck chẳng hề quan tâm đến chuyện ǵ đang xảy ra tại phía Bắc Vùng 1 Chiến Thuật mà bắt đầu vào đợt tập dượt mùa Xuân. Họ chỉ lo có được tham gia đội h́nh hay không. Trong khi Đại đội Lima đang bị nung lửa gần khô cháy trong ḷ nung rừng rậm ẩm ướt của Việt Nam lại c̣n bị hạn chế nước uống nữa th́ Goggin biết là nhóm bóng chày bạn cũ hằng đêm vẫn vui chơi với gái tơ có đầy dẫy tại xứ nắng ấm Florida.

Trong nỗ lực liên tục để truyền bá và huấn luyện các cấp chỉ huy, quân chủng TQLC Hoa Kỳ đă thành công trong việc nhấn mạnh các nguyên tắc về chỉ huy, đặc biệt là trong chiến đấu. Trong khi lớp học chỉ tập trung vào những khái niệm căn bản nhất và biến chúng thành các chữ tắt hay mẹo vặt cho dễ nhớ và làm bài tập th́ thực tế ngoài đời thật khó khăn hơn rất nhiều. Khi tất cả các châm ngôn lănh đạo, mà thường có vẻ như một trang cóp nhặt từsách của Hướng đạo sinh được xào nấu cho hợp thực tế, th́ mọi điều có thể được tóm lược là; người chỉ huy thành công là người biết chăm lo cho cả hai việc hoàn thành nhiệm vụ được giao phó và chăm lo cho binh sĩ của ḿnh. Có một câu nói đùa đă lâu đời rằng điểm khác biệt duy nhất giữa Hướng đạo sinh và TQLC là ít nhất Hướng đạo sinh được người lớn đi theo dìu dắt. Nếu một cấp chỉ huy có thể kết hợp lại được tất cả các yếu tố phức tạp cần thiết để thi hành nhiệm vụ mà vẫn chăm sóc thực t́nh cho thuộc hạ th́ cơ hội thành công rất cao. Hoàng đế Napoléon đă từng tuyên bố: "Các Trung đoàn không hề dở mà chỉ có các Đại tá kém." Và có một người Pháp Dutourd vài năm sau Napoléon đă nhận xét tương tự với câu nói bất hủ: "Người lính không phải là những con sư tử hay con cừu. Chính người chỉ huy biến họ thành sư tử hay cừu." Đại úy John Walter Ripley muốn bảo đảm rằng các TQLC của ông sẽ xung trận như những con sư tử. Mục đích của Ripley là Đại đội Lima sẽ trở thành đúng nghĩa của nó là chúa sơn lâm trong chốn rừng xanh.

Công việc xây dựng Đại đội Lima trong đầu viên Đại úy trẻ bao gồm nhiều việc hơn là những chuyện hiển nhiên, ngay cả đối với những người có nhiều kinh nghiệm. Không phải chỉ lo quân trang quân dụng là đủ mà có nhiều chuyện khác nữa phải làm. Những chuyện lắt nhắt. Hàng đống chuyện như thế. Từng chút một gộp lại sẽ hiệp lực trở thành hiện thực. Những chuyện như phái đầu bếp của Đại đội leo tận lên "đồi Đại đội" tại Cà Lũ c̣n hơn là giữ anh ta lại hậu tuyến để binh lính có nước nóng mà cạo râu, nấu súp và pha cà phê nóng. Những cái chuyện nói lên sự lo lắng mà người khác có thể cho rằng vô lư hay không thực tế. Nếu có ai đó ở hậu phương bảo Đại úy là "không" th́ anh có cách để biến thành "có." Trong lúc huấn luyện các TQLC của ḿnh, trong số đó có nhiều người c̣n dồi dào kinh nghiệm chiến đấu hơn anh, Ripley đã mang những kiến thức học được ở trường Biệt Động Quân ra, cũng như nghề thám sát của ḿnh trong thời gian phục vụ trong lực lượng thám báo. Anh luôn giữ vững những điểm căn bản nhất. Nếu trong dă cầu gọi là "chặn và húc" th́ trong TQLC họ gọi là "di chuyển, bắn và liên lạc." Nắm vững được những điều căn bản là bạn làm chủ được chiến trường.

Tất cả mọi thứ phải được diễn tập. Các TQLC đều thông suốt nhiệm vụ của ḿnh và hầu hết phải biết nhiệm vụcủa đồng đội để nếu trong trường hợp họ gục ngă th́ anh có thể thay thế được. Khi hành quân chạm địch th́ cả hơn hai trăm TQLC của Đại đội Lima đều di chuyển không để lại h́nh bóng, mọi liên lạc đều một trăm phần trăm thực hiện bằng thủ hiệu. Khi đụng trận, dĩ nhiên một số mệnh lệnh nào đó phải được tung ra trong sự hỗn loạn và gầm thét của chiến trường. Lúc xung trận các TQLC luôn luôn tin tưởng vào vị chỉ huy của ḿnh. Điều này phát sinh không phải từ t́nh cảm cá nhân mà v́ bản năng sinh tồn thì đúng hơn. Cấp chỉ huy giỏi không bao giờ thí quân của ḿnh một cách điên rồ. Thêm vào các điều trên là niềm tin của binh sĩ Đại đội Lima đặt vào khả năng của Đại đội trưởng có thể gọi yểm trợ thật chính xác. Ngoài chuyện phải bận tâm về một loạt các chuyện mà một cấp chỉ huy ngoài chiến trường phải làm và tự giữ ḿnh, chẳng hạn như tác phong quân cương quân kỷ của TQLC, và có lẽ quan trọng hơn cả là khả năng thực hiện giỏi các cuộc đổ bộ vào đất liền. Cộng vào đó là chuyện di tản thương binh khẩn cấp, gọi và điều chỉnh pháo binh, và nếu gần bờ biển th́ gọi hải pháo, tất cả những điều kể trên chính là tŕnh độ của Đại đội Lima đă thể hiện được trong bất kỳ lúc nào.

Phần lớn các bài học tại Trường Căn Bản chú trọng vào việc nắm vững các khía cạnh trong việc di hành địa h́nh. Các sĩ quan trẻ dành thật nhiều thời gian trong lớp học để xem lại những nguyên tắc căn bản và các điều thiết thực nhằm sử dụng bản đồ và địa bàn một cách đúng nhất. Từ trong lớp học ra đến ngoài trời họ phải khổ nhọc cố gắng di chuyển thật chính xác từ một điểm này đến một điểm kia, sử dụng tất cả khả năng và trau dồi các kinh nghiệm về địa h́nh của ḿnh. Một số người bẩm sinh giỏi hơn những người khác, tương tự như ở bất cứ môi trường nào, nhưng việc nắm vững di hành địa h́nh đ̣i hỏi một sự tập trung và nỗ lực về đầu óc rất nhiều. Một trong những lỗi lầm lớn nhất của một sĩ quan non nớt có thể phạm vào, một cách chắc chắn nhất để phá tan niềm tin của Trung đội hay Đại đội là bị lạc hướng, nhất là nếu nơi ấy là Vùng I Chiến Thuật.

Một trong những chương tŕnh truyền h́nh phổ biến trong thời kỳ đó là chương tŕnh F. Troop. Bộ phim này chế diễu cả hai phía trong thời kỳ Viễn Tây của Hoa Kỳ trong đó lính kỵ binh Mỹ vụng về, đọ sức với mọi Da đỏ cũng vô dụng không kém. Bộ lạc da đỏ gọi là Hekawi có cái tật là hay đi lạc. Do đó cái câu mà Trung sĩ O'Rourke hay Hạ sĩ Agarn trong phim thường hỏi sau này đă trở thành nổi tiếng là: "Bọn Hekawi đâu rồi?" Lính TQLC nói chung không phải là kém văn hóa thành thử mỗi khi bị dắt đi lạc hướng, nếu t́nh h́nh chưa đến nỗi nguy kịch, họ thường hỏi cấp trên bằng câu hỏi ư nhị là: "Bọn chết tiệt Kawi đâu rồi?" Một sĩ quan TQLC không bao giờ muốn và cũng không thể trở thành là mục tiêu của cái câu nói đùa đó hoặc là thủ lănh của một bộ lạc da đỏ như vậy.

Bẩy tuần trước ngày sinh nhật của ḿnh, Thiếu úy Terry Gene Heekin từ Covina, California vừa mới tốt nghiệp khóa Căn Bản Quantico đến nhận nhiệm vụ tại Việt Nam. Được bổ nhiệm về Trung đội 1 Đại đội Lima vào hạ tuần tháng Hai, hoạt động đầu tiên đáng kể nhất của anh là tham gia chiến dịch bắt đầu vào ngày đầu tháng Ba năm 1967.

Áp lực đè lên các tân sĩ quan rất nặng nề. Vốn không được cơ hội thứ hai để gây cảm tưởng ban đầu, các sĩ quan mới ra ḷ đều biết là họ luôn bị các TQLC soi mói bằng kính hiển vi về khả năng chỉ huy của họ. Thật nhanh, các Trung đội trưởng chưa đủ kinh nghiệm và thử thách cần phải xây dựng ḷng tin cậy và sự kính trọng của thuộc hạ, đồng thời phải mau chóng học hỏi nghệ thuật chiến đấu đầy khó khăn. Có vài sĩ quan trẻ, trong sự cố gắng thật t́nh để chứng tỏ bản thân, lại thường hành động quá độ hay áp dụng các điều quá bài bản sách vở.
Thông thường th́ sự chuyển biến từ một người mới thành một người dầy dạn kinh nghiệm chiến trường chỉ đ̣i hỏi một ít thử thách không quan trọng lắm. Thiếu úy Terry Heekin ngay từ đầu đă có vẻ thuộc vào nhóm người này. Anh là một người thông minh, sâu sắc và đàn ông tính đủ để hỏi những câu hỏi đúng, biết dựa vào sự đánh giá của viên Trung sĩ Trung đội giàu kinh nghiệm cũng như tay truyền tin để học hỏi nhanh hơn ai hết.

"Lưỡi lê em chưa găy!"

Khi Đại đội Lima cụ bị hành trang di chuyển vào sáng sớm ngày 1 tháng Ba năm 1967, Đại úy Ripley chỉ định Trung đội 1 đi tiên phong. Trên đường tiến công chạm địch, đặc biệt là trong môi trường rừng rậm, những binh sĩ dẫn đầu hầu như luôn luôn bị đụng độ hay bị lọt vào ổ phục kích trước khi phần c̣n lại của đơn vị tới được chỗ giao tranh. Do đó những khinh binh và đơn vị trinh sát có một nhiệm vụ đặc biệt phải cảnh giác đề pḥng các dấu hiệu chứng tỏ sự hoạt động và hiện diện của kẻ địch, các ḿn bẫy v.v... Toán tiên phong có thể chỉ cần một người, một toán trinh sát, hoặc một trung đội trinh sát hoạt động thật hữu hiệu để bảo đảm kẻ thù không thể sử dụng yếu tố bất ngờ đối với đại đơn vị đi phía sau.

Đại úy Ripley đă cho Trung đội 1 đi đầu v́ nhiều lư do. Ngoài chuyện đă đến phiên họ và mức độ đe dọa khá cao, đi trinh sát cũng là một dịp học hỏi cho Thiếu úy Heekin để ḥa nhập nhanh hơn. Và mặc dù Heekin là một Trung đội trưởng chưa dày dạn lắm nhưng Đại úy Ripley tin tưởng đă có Thượng sĩ Trung đội và các Tiểu đội trưởng mà kinh nghiệm và sự phán đoán có thể bù đắp phần nào cho sự non nớt của viên Thiếu úy.

Cách di chuyển đúng và hiệu quả nhất theo dọc các đựng ṃn trong rừng rậm, đối với một Đại đội bộ binh trang bị đầy đủ trên đường chạm địch không phải là chuyện dễ dàng. Cho dù mọi chuyện suôn sẻ, mà thường th́ hiếm khi như vậy, việc duy tŕ sự tập trung và định hướng cho chính xác đ̣i hỏi khả năng chỉ huy tối đa từ Đại úy Ripley xuống cho đến từng chiến sĩ một.

Đại đội Lima được chuyển vận bằng xe vận tải qua hướng Đông trên đường số 9 từ một căn cứ hỏa lực gọi là Rockpile đến một điểm xuống xe đâu đó giữa căn cứ và thị xă Đông Hà. Tại đó th́ họ bắt đầu hành quân. Hầu hết binh lính đă bắt đầu vă mồ hôi đầm đ́a khi Đại đội di chuyển hơi gấp gáp, nhưng rồi nhịp độ của cuộc di hànhđã được điều chỉnh lại. Có vẻ sẽ lại là một ngày vất vả nữa, họ đoán vậy và vẫn c̣n nhiều giờ nữa trước khi mặt trời nóng cực điểm.

Khi buổi sáng trôi qua và họ chậm chạp tiến lên hướng Bắc, cánh rừng bắt đầu dày lên và các ngọn đồi dần dốc lên nhiều hơn. Một vài tiếng đồng hồ trước ngọ Đại đội Lima có đụng nhẹ với một đơn vị Bắc Việt không rơ bao nhiêu tại một ngă rẽ của con đường ṃn mà kết quả lạ lùng thay là không có nổ súng hay thương vong nào cả. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, trong lúc Trung đội 1 c̣n đi trinh sát, với Binh nhất Taylor đi trước cách đơn vị vào khoảng 20 thước. Ngay lúc anh vượt qua đỉnh đồi với triền đồi bên kia có nhiều trảng trống và trong lúc anh đang t́m cách leo theo đường ṃn xuống đáy một khe núi có rừng phủ dầy đặc th́ một loạt đạn nổ ra. Bị bất ngờ, Taylor trúng đạn vào chân và ngă xuống.

Toán c̣n lại của Trung đội 1 c̣n chưa lên đến đỉnh đồi. Ngay tức khắc, không một lời nói hay chỉ thị của Trung đội trưởng hay Tiểu đội trưởng, mọi người tản ra theo hàng ngang thẳng góc với hướng di chuyển, một nửa bên trái và một nửa bên mặt. Hạ sĩ Goggin băng qua đồi theo Taylor và mang anh về tuyến pḥng thủ mới do các TQLC Trung đội 1 mau mắn dựng lên.

Ngay trước khi Hạ sĩ Goggin kéo Binh nhất Taylor về được chỗ an toàn th́ TQLC bắt đầu bắn trả đũa, dù chưa biết được tiếng súng kẻ thù từ đâu tới. Bụi cây và cỏ dại trong cánh rừng cao gần ngang đầu gối và các TQLC cúi sát đất chỉ có thể bắn trả theo tiếng súng v́ không thấy được mục tiêu bị che khuất. Qua cường độ hỏa lực, họ đoán là kẻ địch có ít nhất hai khẩu liên thanh đang nhả đạn về phía họ. Tuy nhiên đạn đối phương chỉ có hiệu quả làm cho các TQLC không tiến lên phía trước được mà thôi.

Đàng sau lằn lửa của Trung đội 1, phần c̣n lại của Đại đội Lima tản ra dọc đường ṃn, mọi người núp xuống ở tư thế pḥng thủ, súng chĩa ra đàng trước và sẵn sàng nhả đạn. Trong ṿng vài giây đồng hồ sau loạt súng liên thanh đầu tiên của địch nổ ra, Đại úy Ripley lập tức gọi truyền tin yêu cầu Trung đội 1 báo cáo t́nh h́nh. Sau khi kéo Binh nhất Taylor về xong th́ Hạ sĩ Goggin chụp máy truyền tin trả lời viên chỉ huy.

Đại đội TQLC ra trận với ba Trung đội bộ binh và một Trung đội vũ khí. Với quân số tương đương một Trung đội thường, Trung đội vũ khí là "pháo binh riêng" của Đại đội trưởng và là hỏa lực nặng cơ hữu của đơn vị. Trung đội vũ khí được trang bị hai loại vũ khí chính là một số toán sử dụng đại liên M-60 còn một toán khác th́ sử dụng bích kích pháo 60 ly, thường là 3 khẩu. Phải khiêng súng cối cùng với hạ bàn và đồ phụ tùng lỉnh kỉnh ra chiến trường thật khổ nhưng trong những t́nh huống mà Đại đội Lima đang gặp phải ngay lúc này th́ lại rất hữu ích. Với tầm hữu ích tối đa khoảng 800 thước, khả năng bắn cầu vồng với góc độ cao (mà không cần trông thấy mục tiêu), súng cối có thể được đặt thật gần với mục tiêu giống như kẻ địch đang ở ngay bên ngoài bờ pḥng thủ vậy. Súng bích kích pháo thật sự là vật cứu sinh cho đến khi hỏa lực yểm trợ thứ thiệt có thể được mang tới.
Ngay lúc tiếng súng ở tuyến đầu nổ ra là không cần phải đợi có lệnh, đội súng cối bắt đầu dàn đội hình. Theo bản năng họ biết ngay chuyện ǵ sắp tới. Những quả đạn được truyền tay nhau giữa các binh sĩ cũng vui vẻ được cởi bớt gánh nặng phụ trội đeo trên vai. (Đạn súng cối và súng liên thanh thường được chia ra cho tất cả mọi người trong đơn vị phải đeo theo).

Có một thủ tục và thông lệ nhất định cho TQLC trong công việc liên lạc truyền tin. Trong giao tranh, thủ tục này thường phải được tuân theo với hiệu ứng thích hợp. Mỗi đơn vị có một tần số và mật hiệu được thay đổi hàng ngày nhằm tránh kẻ địch nghe lén và nhận diện được ai đang gọi. Để giảm thiểu thời gian phát sóng, các cuộc điện đàm phải thật ngắn. TQLC có lư do chính đáng để làm chuyện này. Quân đội Bắc Việt có khả năng t́m mục tiêu rất nhanh và cho phép họ điều chỉnh pháo binh vào vị trí phát sóng của đối phương trong một khoảnh khắc cấp kỳ. Cho đến năm 1967 TQLC Hoa Kỳ đă thấm thía điều này đủ để giả định rằng phần lớn các cuộc điện đàm của họ đă bị địch nghe lén được.
Trong lúc gọi điện qua lại b́nh thường trong phạm vi đơn vị, người chỉ huy được mệnh danh là "anh Sáu." Đại úy Ripley do đó là "Lima Sáu." Khi Ripley gọi đi hay nhận điện th́ tự xưng hay được gọi là "Đích thân Lima Sáu" hoặc "Đích thân Sáu" cho ngắn gọn. Mỗi Trung đội trưởng được nhận dạng qua một con số và chữ "Đích thân" phía sau. Trung đội 1 như vậy là "Lima Một," và Trung đội trưởng là "Lima Một đích thân," Trung đội 2 là "Lima Hai," và Trung đội trưởng là "Lima Hai đích thân," v.v... Tuy khó tin là quân Bắc Việt có thể bị lừa bởi chuyện này nhưng đó vẫn là một thủ tục tốt hơn là gọi thẳng tên ra.

Trung đội 1 lúc này tiếp tục tưới đạn về hướng bìa rừng dưới chân đồi. Qua nhận định t́nh h́nh chung được báo cáo từ Hạ sĩ Goggin, Đại úy Ripley ra lệnh đội súng cối nã đạn, hi vọng là chỉ một loạt ba quả là có thể làm tắt tiếng súng địch thủ. Trong lúc đó th́ một TQLC của Trung đội 1 bực ḿnh v́ không thấy mục tiêu bèn nhổm lên để bắn. Bạn bè gọi anh là "Vịt Cồ Baby Huey" do cái tướng đồ sộ và sức lực phi thường. Tuy nhiên anh chỉ nhả được vài phát đạn th́ bị địch bắn thủng cho một lỗ ngay trên ngực. Có lẽ chính cái kích thước khổng lồ của ḿnh đă cứu mạng anh ngày hôm đó nhưng anh đă trở thành người thứ hai của Trung đội 1 bị thương trong buổi xếtrưa hôm đó.
Sau loạt đạn bích kích pháo bắn rào đầu tiên, binh sĩ của Trung đội 1 thất vọng là quân Bắc Việt tiếp tục bắn xối xả tuy không chính xác nhưng với hỏa lực tương đối lớn. Trong vài phút đồng hồ tiếp theo, Trung đội 1 duy tŕ bắn trả nhưng cầm chừng hơn để tiết kiệm đạn dược.

Ở phía sau trên đường ṃn, Đại úy John Walter Ripley cùng thành phần c̣n lại của Đại đội Lima bắt đầu hết kiên nhẫn. Với ḷng tự tin tuyệt đối và có lẽ hơi lỗi thời một chút, Ripley tiếp tục đích thân gọi điện đàm. Quân Bắc Việt bắt đầu làm ông bực ḿnh vì đă cản trở bước tiến của lính ông. Lúc này trực thăng cứu thương đang bay tới để di tản Taylor và Vịt Cồ Baby Huey. Quyết định tiếp theo của Ripley đ̣i hỏi truyền tin của Trung đội 1 phải tṛn xoe mắt.

Đại úy Ripley gọi Trung đội 1 trên mạng của Đại đội: "Gọi đích thân Một tới đây." Lúc này Thiếu úy Heekin đang bận chỉ huy binh sĩ như nhiệm vụ anh phải làm như vậy. Tiếng súng bắn mỗi lần chạm địch ở đâu cũng vậy thật là điếc tai.

Hạ sĩ Goggin trả lời Đại úy: "Đích thân Một khá bận, xếp." Lúc này gọi điện đàm cũng rất cực nhọc.

"Tôi muốn anh chuyển lệnh này lại cho đích thân Một." Ngưng một chút. "Tôi ra lệnh cắm lưỡi lê lên súng."

Hạ sĩ Goggin không thể nào tin được tai ḿnh mới nghe cái ǵ. Anh hy vọng nghe lộn hay nhiễu loạn cách nào đó trong cuộc điện đàm. Ngạc nhiên, anh hỏi lại: "Đích thân Sáu, nói lại câu chót."

Đại úy Ripley khẳng định: "Gắn lưỡi lê vào. Tôi sẽ bắn dọn đường một loạt súng cối. Xong phát cuối, đứng dậy xung phong. Gắn lưỡi lê vào."

Vẫn c̣n choáng váng bởi cái lệnh, Hạ sĩ Goggin ḅ lại hướng Thiếu úy Heekin đang chỉ huy tuyến trước. Thiếu úy Heekin biết đúng ngay là Đại đội trưởng đang phát lệnh cho anh. Khi thấy Goggin trườn đến gần vừa đủ để có thể hét lớn hơn là tiếng đạn, anh hỏi: "Ổng muốn cái ǵ?"

"Thiếu úy, ổng muốn lên lưỡi lê và xung phong."

Không chần chừ, Thiếu úy Heekin yêu cầu: "Hỏi lại coi."

"Em hỏi rồi, Thiếu úy."

Sau đó Hạ sĩ Goggin giải thích kế hoạch do Đại úy Ripley chỉ thị. Hạ sĩ Goggin đề nghị với Thiếu úy Heekin: "Thiếu úy truyền lệnh bên trái, để em nhắn bên phải nhe?" Cả hai thầy tṛ chỉ trang bị súng lục.

Trong cảnh ồn ào, la hét và hỗn loạn, thật khó mà ra lệnh lạc. Do đó lệnh phải được truyền dọc theo tuyến pḥng thủ cho từng người một. Ngay bên tay mặt Goggin là một tay lính trẻ từ Louisana đang say sưa chiến đấu, tập trung vào địch ở dưới chân đồi. Mặc dù anh chàng chắc không học trường Harvard hay sẽ chẳng được học tại đó sau khi mãn hạn nhưng đă chứng tỏ là một tay súng cừ khôi. Anh mải bắn nên không nghe Goggin hét ra lệnh. Sau cùng hạ sĩ Goggin phải dùng báng súng lục gơ lên nón sắt hắn để gây chú ư. Mặt sát mặt chỉ cách nhau vài phân, Goggin thét lên, "Gắn lưỡi lê!" (Fix bayonets! - Trong tiếng Anh, fix c̣n có nghĩa là sửa chữa.)

Tay TQLC trẻ ngẩn ngơ một chốc để ngẫm nghĩ về cái lệnh, cố gắng hiểu những điều có vẻ hoàn toàn vô lư đối với anh ta, rồi trả lời một cách thành thực: "Lưỡi lê em đâu có bị găy!" Tạm dừng.

"Bố cắm cái lưỡi lê vào đầu súng cho con đi!!!" và Hạ sĩ Goggin ra hiệu cho hắn.

Lệnh được chuyền từ TQLC này đến TQLC kia và sau đó những người c̣n lại thấy chuyện ǵ sắp xảy ra nên làm theo. Chẳng hề có t́nh cảm lăng mạn ǵ trong cái lệnh này. Cũng chẳng có hào quang Holywood chói sáng hay kèn trống ǵ ráo. Tiếng bập của kim loại khi lưỡi lê được gắn vào đầu họng súng không thể nghe thấy được trong tiếng súng bắn nhau. Không ai biết thời gian trôi qua bao lâu. Có lẽ khoảng một phút th́ tất cả Trung đội 1 gắn xong lưỡi lê. Thiếu úy Heekin liếc nh́n tay truyền tin. V́ là ma mới nên Heekin hỏi một cách thực thà: "Hạ sĩ Goggin, có bao giờ chúng ta làm chuyện này chưa?"

"Thưa Thiếu úy, em nghĩ là chưa hề có chuyện này kể từ thời nội chiến Hoa Kỳ."

Đúng lúc đó th́ Đại úy Ripley gọi tới qua truyền tin: "Sẵn sàng cả chưa?"

"Xong rồi!"

"Chờ đó." Ngay tức thời tiếng đề pa thật nhanh và tiếng nổ của hàng loạt đạn 60 ly từ 100 mét phía sau bắn tới tấp qua đầu.

Chỉ một khoảnh khắc ngắn sau đó, tiếng Đại úy Ripley vang lên qua tần số truyền tin: "Xung phong."

Đầu tiên cả Trung đội 1 đồng loạt đúng dậy không chừa một ai. Khoảng đâu chừng 40 TQLC còn lại dàn hàng ngang. Mọi người đều căng thẳng khô đắng cả miệng nhưng v́ lư do nào đó, dường như được kích thích bởi cái táo bạo tuyệt đối của hành động đó, họ chủ đích xông nhanh lên phía trước. Và họ cũng bắt đầu la hét chửi bới như những gă điên. Tiếng hét của kẻ khởi loạn. Tiếng hét đầy sắt máu. Giống như những người đă từng đi theo Stonewall Jackson và Jeb Stuart. Ngày nay trong khu rừng rậm bị bỏ quên của Việt Nam một trăm năm sau lại có một tay Virginia điên như chó dại ra lệnh thuộc hạ lên lưỡi lê và xung phong. Tưởng chừng như họ nhào vào họng súng sát thủ của súng liên thanh quân đội Bắc Việt. Nhưng khi họ tới cuối chân đồi th́ không bị một phát đạn nào cả. Gần như là rơi vào hầm ngụy trang khéo léo của Bắc quân bỏ chạy mất tiêu, tất cả những ǵ họ thấy là hàng trăm và hàng trăm vỏ đạn. Và một vài vết máu. Với lượng adrenaline tiết ra trong máu ở những mức độ chưa từng thấy dù là đối với những người lính dày dặn nhất, cảm giác c̣n sống thật là dễ chịu. Thật là tốt.

(C̣n tiếp)

Nguồn :http://svqy.org/

Twelve
28-10-2019, 03:42
Cưỡi Ngọn Sấm

Trọn Bộ :


https://pdfhost.io/v/VoRnOhxQq_CI_NGON_SM_Richard_Botkinpdf.pdf