Anamit
04-12-2015, 21:14
Phan Chu Trinh, Vĩ nhân ṇi Việt.
http://saigonecho.com/media/system/images/printButton.png (http://saigonecho.com/index.php/lich-su-vn/chien-tranh-vn/cac-nhan-vat/19772-phan-chu-trinh-vi-nhan-noi-viet?tmpl=component&print=1&layout=default&page=)
http://saigonecho.com/media/system/images/emailButton.png (http://saigonecho.com/index.php/component/mailto/?tmpl=component&template=smart_news25&link=e7ba523e32414d5aaf3bde01711b62ad684c7634)
Thứ Sáu, 04 tháng Mười Hai năm 2015 18:11Tác Giả: Hoàng Yên Lưu
http://saigonecho.com/images/2015/LichSuVN/nhanvat_pahnchutrinh.jpg
Trong các chí sĩ vạch ra con đường cứu nguy dân tộc vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, phải kể Phan Chu Trinh là vĩ nhân có tư tưởng tiến bộ và đề ra đường lối thích hợp nhất cho sự tồn vong của dân tộc ta về lâu dài.
Điều hậu thế cảm phục ông, không những v́ ông hy sinh danh lợi bản thân v́ đại nghĩa cho tới lúc lâm chung, mà c̣n v́ viễn kiến của ông mà ngày nay người Việt mới ư thức rơ ràng cần tự cường, tự chủ như thế nào trước sự bành trướng của phương Bắc luôn luôn đe dọa nền độc lập của ṇi Hồng Lạc.
Các nhà nghiên cứu phong trào Đông du và Duy tân trong lịch sử cận đại ở VN thường nhận định là do phong trào duy tân ở Á đông bùng nổ, và do ảnh hưởng của tư tưởng cải cách từ tác phẩm được gọi là “tân thư” từ Nhật bản và của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đời Văn Thanh du nhập vào nước ta..
Nh́n chung không sai, v́ triều đ́nh Huế đi tới suy tàn gần như đồng thời với triều Quang Tự và đế chế Măn Thanh tiến dần tới mạt vận trong khi Nhật bản hùng cường dưới thời Minh trị.
Tuy nhiên, khuyến cáo của Khang- Lương chỉ đề ra một số thay đổi cần thiết mà chế độ Măn Thanh hủ bại phải theo, nhắm khuyến khích Quang Tự “biến pháp” để đối phó với nguy cơ bị liệt cường áp bức và xâu xé, chứ không đưa ra sách lược cứu dân chúng ra khỏi ṿng đói khổ và đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc Âu Mỹ và Nhật bản.
Riêng ở VN biện pháp thay đổi ôn ḥa, tạm bợ của Khang-Lương càng không phải liều thuốc có thể chữa được căn bệnh trầm kha của một quốc gia bị trị, từ triều đ́nh tới xă hội đang ch́m đắm trong hủ tục và nghèo đói. T́m biện pháp nào đây để cứu nguy tổ quốc?
Hẳn nhà Nho họ Phan thức thời đă tiếp xúc với tư tưởng của Montesquieu và J. J. Rousseau qua tân thư, và cũng đă đọc Thiên diễn luận xuất bản 1898 của Nghiêm Phục (1854-1921), một trí thức TQ đă có cơ hội sang Anh để t́m hiểu văn hóa Âu Mỹ và lược dịch tác phẩm của triết gia chủ trương tiến hóa luận của Darwin là Thomas Henry Huxley (1825-1895). Sau này Phan Chu Trinh đi Pháp vào 1905, đă thấy sự thực hùng mạnh ở những quốc gia tân tiến. Từ đó, ông t́m ra phương thuốc cứu nguy dân tộc và trở thành một nhà ái quốc tiền phong chống chế độ quân chủ, chống Khổng giáo lạc hậu và cảnh tỉnh quốc dân trước nguy cơ từ phương Bắc tới nếu cứ tiếp tục ôm lấy giáo lư Khổng Mạnh đă lỗi thời nhưng luôn luôn bị Bắc đ́nh lợi dụng làm sức mạnh xâm lược mềm..
Phan Chu Trinh, mạnh dạn chỉ trích chế độ chuyên chế trong khi triều đ́nh phong kiến c̣n có khả năng, dựa vào thực dân, nhân vụ Kháng thuế ở Quảng Nam chém Trần Quư Cáp năm 1908 và trước phong trào yêu nước bừng sôi khắp ba miền, đă đày những chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Tiểu La và Dương Bá Trạc…ra Côn đảo.
Trong thư Thất điều kể tội Khải định sang Pháp du hư vào năm 1922, Phan Chu Trinh đă hạch tội nhà vua bằng những lời, vào thời đại ông, chưa nhà Nho khoa bảng nào dám dùng v́ có thể bị khép vào tử tội “phản nghịch.”
“C̣n nước Nam ta, từ xưa đến nay, vẫn là một nước chuyên chế, trăm việc chínhtrị vào một tay vua; công việc Triều đ́nh cấm không do dân nói đến (luật ta cấmkhông cho học tṛ và dân gửi thư cho vua nói chính trị). Đă 70, 80 năm nay,trên vua thời hèn, dưới tôi thời nịnh; pháp luật thời nghiêm nhặt, dân mất cảtự do (từ thời Gia Long đem luật Thanh về trị dân Việt Nam, là một sự lầm, v́ luật đó là luật người Măn Châu lập ra để trị Trung Quốc, trong luật ấy lắm phép không công b́nh; xem như khi luật ấy bắt đầu thi hành trong nước ta, ông NguyễnVăn Thành là một người khai quốc công thần, chỉ v́ cớ con ông ta đặt một bài thơ chơi, vậy mà các quan nịnh thần, đem thêu dệt ra, giết cả nhà ông ấy! Thế thời bộ luật ấy độc dữ biết chừng nào!).
Từ đó nước ta, dân với vua cách nhau xa quá; các quan ở giữa muốn làm chi thời làm, dân không chỗ kêu ca. Từ triều Minh Mạng về sau, giặc giă nổi lên luôn; đến đời Tự Đức, Tây qua là mất nước, ông bà nhà Nguyễn, trong 200 năm mở mang gần nửa nước Nam, công đức lớn biết là bao nhiêu mà con cháu làm vua chỉ chưa đầy 50 năm, đă bị họa mất nước, là bởi cớ đó, thảm thay! Việc học hành thời hủ bại, nên học tṛ dốt nát, chỉ biết thi đậu làm quan để ăn cướp của dân, chẳng biết nước nhà là ǵ.
Vậy cho nên đến nay nước nhà một ngày một sa sút, càng ngày càng tàn mạt,chẳng c̣n đứng vào bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời cũng không biết nước ta trôi nổi vào tay ai!
Cứ sự đă qua đó mà buộc tội, chẳng vua thời ai? Dẫu có anh thầy kiện miệnglưỡi giỏi thế nào, cũng không căi cọ ǵ được.
Vậy nước ta từ nay về sau, c̣n nên tôn quân quyền nữa không? Không, chẳng những là vua không nên tôn, mà ngôi vua cũng nên cất đi kia. Vậy mà vua đến nay cũng c̣n, thương ôi! Cái trí khôn dân ta lu lấp, thua kém cả người thiên hạ, đă đành nên thương hại, mà cái ḷng trung hậu nhịn nhục của nó cũng nên chuộngvậy!
Vậy thời đáng lẽ vua phải hết ḷng lo lắng làm việc ǵ lợi ích cho thỏa ḷng chúng nó một tí mới phải. Nay Bệ hạ thời không: lúc chưa làm vua, chẳng nghe có một điều ǵ là hay, mà sự xấu xa thời đă chán chường trước mắt thiên hạ, chỉ lo chạy ngược, chạy xuôi để lên làm vua cho được; đến lúc làm vua được rồi, chỉ làm việc cho nhân dân oán thán mà thôi. Vậy mà nay c̣n dựa hơi quyền nọ quyền kia, bắt buộc dân c̣n phải tôn ḿnh nữa kia!
Chiếu theo luật xưa nay, dân Âu Á chúng nó bắt tội các vua của chúng, mà xử Bệ hạ, thời một cái giết, hay một cái đuổi, hai cái đó Bệ hạ không thể tránh được.”
Mở rộng nghiên cứu về Phan Chu Trinh, hậu thế c̣n thấy ở ông nhiều thể hiện phản ảnh tinh thần dân tộc son sắt mà ngày nay chúng ta phải cố gắng noi theo.
Trong một thiên nghị luận về mối bang giao giữa ta với cường quốc phương Bắc, Phan Tây Hồ đă viết:
“Tổ tiên ta, không biết mấy ngàn, trăm năm nay đă tất bật lam lũ gian nan cùng quẫn để xây dựng, mở mang, lấy làm căn cứ cho có nơi trú ẩn. Cũng là muốn ta tự sinh, tự phát triển cho tới con tới cháu; rồi con cháu cũng làm như vậy; rồi từ nay về sau con cháu ta được ca ở đó, khóc ở đó, tụ tộc ở đó, sinh trưởng ở đó.”
Tiếp đó ông chỉ trích tham vọng xâm lược của Trung hoa:
“ Trung Quốc đă cậy mạnh hiếp yếu, tham lam không chán, vô cớ mà xâm chiếm đất nước người ta, vô cớ mà tàn sát sanh mạng người ta, vô cớ mà trói buộc nhân dân người ta, vô cớ mà bóc lột máu mỡ người ta. Than ôi! Con người không phải là gỗ đá, t́nh ấy làm sao chịu nổi.”
Và phân tích, đồng thời ca ngợi, tinh thần quật cường của ṇi Việt trong mấy ngàn năm xây dựng nước và giữ ǵn non nước:
“Tiên dân của tổ quốc ta lúc bấy giờ cũng quật cường vĩ đại, trăm lần bẻ không cong, chẳng như một động vật không xương, không máu, không năo, khí, gân. Cho nên các thủ đoạn đối đăi cũng rất kịch liệt: Hoặc khi nó lành th́ ta phục tùng, hoặc khi nó dữ th́ ta phản đối; khi ta thua th́ nó ra tay chém giết chẳng chịu buông tha, khi ta thắng th́ máu xương sông núi lấy đó báo phục. Tuy nó từ cao xuống thấp như thế vạc ba chân, lấy lớn hiếp nhỏ như h́nh đá chọi trứng, khiến ta không thể thoát ngay sự giàm buộc, và nó chỉ lấy lớn mạnh trị ta quá dữ, kềm ta quá gắt, cách mạng nổi lên luôn, chết hại quá nhiều, mà cảm t́nh oán hận được nung nấu trong năo quốc dân không phá được, càng truyền càng lớn, càng thịnh. Nhưng dân tộc ta cũng lấy đó mà khuyến khích đặc tính, nuôi dưỡng tinh thần, ngầm dựng thế lực, không chịu khuất phục, càng thêm gắng gổ, thề lấy mạng sống lấp nơi đồng ruộng, lấy máu đỏ bôi cả núi sông, để bày ra cái cảnh đau buồn sống động rất thảm rất mạnh cùng với dân tộc Trung Quốc ngàn trăm lần to lớn không thể sánh được, cùng nhau xung đột đua tranh trong cảnh thiên diễn ưu thắng liệt bại này. Nó chết ta sống; nó tiến ta lùi. Kể từ sau trước được trên ngàn năm, nó cũng không làm ǵ được ta v́ sao?
Ôi! Xứ Giao Chỉ cỏn con, một vùng đất nhỏ không bằng huyện lớn, mà xem nó ngang hàng, muốn đuổi nó đi, đuổi mấy vạn của dân tộc hùm sói Trung Quốc, không đoái đến nó văn minh hay dă man, không kể mạnh yếu, liều chết mà giành, không chịu lùi một chút, cuối cùng có thể thắng được, giành giật sinh tồn cho đến ngày nay, ngang nhiên là một nước lớn ở phương nam! Than ôi! Trời thương chăng? Thần giúp cho chăng? Không thể bàn bạc được, không thể qui công cho ai. Th́ lớn lời nói: Đó chỉ là đặc tính trầm nghị kiên nhẫn, độc lập bất khuất của dân tộc đời trước của Tổ quốc ta mà thôi.”
Không những tinh thần độc lập dân tộc là bài học quư báu mà chí sĩ để lại cho chúng ta, Phan Tây Hồ c̣n xướng xuất tinh thần dân chủ như con đường duy nhất chúng ta phải theo nếu muốn dân giàu nước mạnh. Ông từng hô hào:
“Dân tộc ta, ngàn năm trước đây đă có cái đặc tính vĩ đại kia, nếu như lấy học thuyết hoạt bát ngày nay của châu Âu phê b́nh khuyến khích làm cho lớn mạnh, mở mang t́m ṭi làm cho rạng rỡ, th́ tiền đồ của dân tộc ta tốt lắm thay!”
Chí sĩ cũng cả quyết “đem văn minh Tây phương về là mang Khổng học về.”
Quan niệm bài Nho thủ cựu và chống tệ đoan mà ông xướng xuất hồi đầu thế kỷ trước quả là mới mẻ, nhất là xuất phát từ một sĩ phu thành danh. Chủ trương này c̣n là lời khuyên chúng ta cảnh tỉnh trước mưu đồ của phương Bắc toan lợi dụng Khổng học làm phương tiện xâm lăng đất đai:
“Xét cho cái lịch sử quân chủ ở Á Đông này th́ chúng ta biết rằng từ Tần Thủy Hoàng trở về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật trong nước không thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ c̣n sót lại một hai điều ở gia đ́nh mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén dân.”
Tâm sự thống thiết, nghị lực vô biên, với tầm nh́n xa rộng và tiến bộ, với công lao toan “vá trời lấp biển,” đă tạo cho Phan Chu Trinh, cùng với Phan Bội Châu trở thành những là nhà ái quốc vĩ đại nhất trong lịch sử VN cận đại.
Ngày nay đọc lại bài Đập đá tại Côn lôn và một câu chí sĩ từng nói, hậu thế càng thêm ngưỡng mộ vị chí sĩ đă hy sinh trọn đời cho độc lập và canh tân đất Việt:
“Đă v́ nước đem thân trôi nổi thế này th́ không bao giờ sự phú quư làm mờ tối ḷng ta được. Nếu một ngày kia dân VN sẽ hóa ra ù ĺ cả, ta đă cùng thế hết sức rồi, th́ ta c̣n cách cắt đầu quẳng xuống đất không chịu để ai vày đạp ta, mà cũng không cho ai cướp tự do của ta.”
Hoàng Yên Lưu
http://saigonecho.com/media/system/images/printButton.png (http://saigonecho.com/index.php/lich-su-vn/chien-tranh-vn/cac-nhan-vat/19772-phan-chu-trinh-vi-nhan-noi-viet?tmpl=component&print=1&layout=default&page=)
http://saigonecho.com/media/system/images/emailButton.png (http://saigonecho.com/index.php/component/mailto/?tmpl=component&template=smart_news25&link=e7ba523e32414d5aaf3bde01711b62ad684c7634)
Thứ Sáu, 04 tháng Mười Hai năm 2015 18:11Tác Giả: Hoàng Yên Lưu
http://saigonecho.com/images/2015/LichSuVN/nhanvat_pahnchutrinh.jpg
Trong các chí sĩ vạch ra con đường cứu nguy dân tộc vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, phải kể Phan Chu Trinh là vĩ nhân có tư tưởng tiến bộ và đề ra đường lối thích hợp nhất cho sự tồn vong của dân tộc ta về lâu dài.
Điều hậu thế cảm phục ông, không những v́ ông hy sinh danh lợi bản thân v́ đại nghĩa cho tới lúc lâm chung, mà c̣n v́ viễn kiến của ông mà ngày nay người Việt mới ư thức rơ ràng cần tự cường, tự chủ như thế nào trước sự bành trướng của phương Bắc luôn luôn đe dọa nền độc lập của ṇi Hồng Lạc.
Các nhà nghiên cứu phong trào Đông du và Duy tân trong lịch sử cận đại ở VN thường nhận định là do phong trào duy tân ở Á đông bùng nổ, và do ảnh hưởng của tư tưởng cải cách từ tác phẩm được gọi là “tân thư” từ Nhật bản và của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đời Văn Thanh du nhập vào nước ta..
Nh́n chung không sai, v́ triều đ́nh Huế đi tới suy tàn gần như đồng thời với triều Quang Tự và đế chế Măn Thanh tiến dần tới mạt vận trong khi Nhật bản hùng cường dưới thời Minh trị.
Tuy nhiên, khuyến cáo của Khang- Lương chỉ đề ra một số thay đổi cần thiết mà chế độ Măn Thanh hủ bại phải theo, nhắm khuyến khích Quang Tự “biến pháp” để đối phó với nguy cơ bị liệt cường áp bức và xâu xé, chứ không đưa ra sách lược cứu dân chúng ra khỏi ṿng đói khổ và đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc Âu Mỹ và Nhật bản.
Riêng ở VN biện pháp thay đổi ôn ḥa, tạm bợ của Khang-Lương càng không phải liều thuốc có thể chữa được căn bệnh trầm kha của một quốc gia bị trị, từ triều đ́nh tới xă hội đang ch́m đắm trong hủ tục và nghèo đói. T́m biện pháp nào đây để cứu nguy tổ quốc?
Hẳn nhà Nho họ Phan thức thời đă tiếp xúc với tư tưởng của Montesquieu và J. J. Rousseau qua tân thư, và cũng đă đọc Thiên diễn luận xuất bản 1898 của Nghiêm Phục (1854-1921), một trí thức TQ đă có cơ hội sang Anh để t́m hiểu văn hóa Âu Mỹ và lược dịch tác phẩm của triết gia chủ trương tiến hóa luận của Darwin là Thomas Henry Huxley (1825-1895). Sau này Phan Chu Trinh đi Pháp vào 1905, đă thấy sự thực hùng mạnh ở những quốc gia tân tiến. Từ đó, ông t́m ra phương thuốc cứu nguy dân tộc và trở thành một nhà ái quốc tiền phong chống chế độ quân chủ, chống Khổng giáo lạc hậu và cảnh tỉnh quốc dân trước nguy cơ từ phương Bắc tới nếu cứ tiếp tục ôm lấy giáo lư Khổng Mạnh đă lỗi thời nhưng luôn luôn bị Bắc đ́nh lợi dụng làm sức mạnh xâm lược mềm..
Phan Chu Trinh, mạnh dạn chỉ trích chế độ chuyên chế trong khi triều đ́nh phong kiến c̣n có khả năng, dựa vào thực dân, nhân vụ Kháng thuế ở Quảng Nam chém Trần Quư Cáp năm 1908 và trước phong trào yêu nước bừng sôi khắp ba miền, đă đày những chí sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Tiểu La và Dương Bá Trạc…ra Côn đảo.
Trong thư Thất điều kể tội Khải định sang Pháp du hư vào năm 1922, Phan Chu Trinh đă hạch tội nhà vua bằng những lời, vào thời đại ông, chưa nhà Nho khoa bảng nào dám dùng v́ có thể bị khép vào tử tội “phản nghịch.”
“C̣n nước Nam ta, từ xưa đến nay, vẫn là một nước chuyên chế, trăm việc chínhtrị vào một tay vua; công việc Triều đ́nh cấm không do dân nói đến (luật ta cấmkhông cho học tṛ và dân gửi thư cho vua nói chính trị). Đă 70, 80 năm nay,trên vua thời hèn, dưới tôi thời nịnh; pháp luật thời nghiêm nhặt, dân mất cảtự do (từ thời Gia Long đem luật Thanh về trị dân Việt Nam, là một sự lầm, v́ luật đó là luật người Măn Châu lập ra để trị Trung Quốc, trong luật ấy lắm phép không công b́nh; xem như khi luật ấy bắt đầu thi hành trong nước ta, ông NguyễnVăn Thành là một người khai quốc công thần, chỉ v́ cớ con ông ta đặt một bài thơ chơi, vậy mà các quan nịnh thần, đem thêu dệt ra, giết cả nhà ông ấy! Thế thời bộ luật ấy độc dữ biết chừng nào!).
Từ đó nước ta, dân với vua cách nhau xa quá; các quan ở giữa muốn làm chi thời làm, dân không chỗ kêu ca. Từ triều Minh Mạng về sau, giặc giă nổi lên luôn; đến đời Tự Đức, Tây qua là mất nước, ông bà nhà Nguyễn, trong 200 năm mở mang gần nửa nước Nam, công đức lớn biết là bao nhiêu mà con cháu làm vua chỉ chưa đầy 50 năm, đă bị họa mất nước, là bởi cớ đó, thảm thay! Việc học hành thời hủ bại, nên học tṛ dốt nát, chỉ biết thi đậu làm quan để ăn cướp của dân, chẳng biết nước nhà là ǵ.
Vậy cho nên đến nay nước nhà một ngày một sa sút, càng ngày càng tàn mạt,chẳng c̣n đứng vào bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời cũng không biết nước ta trôi nổi vào tay ai!
Cứ sự đă qua đó mà buộc tội, chẳng vua thời ai? Dẫu có anh thầy kiện miệnglưỡi giỏi thế nào, cũng không căi cọ ǵ được.
Vậy nước ta từ nay về sau, c̣n nên tôn quân quyền nữa không? Không, chẳng những là vua không nên tôn, mà ngôi vua cũng nên cất đi kia. Vậy mà vua đến nay cũng c̣n, thương ôi! Cái trí khôn dân ta lu lấp, thua kém cả người thiên hạ, đă đành nên thương hại, mà cái ḷng trung hậu nhịn nhục của nó cũng nên chuộngvậy!
Vậy thời đáng lẽ vua phải hết ḷng lo lắng làm việc ǵ lợi ích cho thỏa ḷng chúng nó một tí mới phải. Nay Bệ hạ thời không: lúc chưa làm vua, chẳng nghe có một điều ǵ là hay, mà sự xấu xa thời đă chán chường trước mắt thiên hạ, chỉ lo chạy ngược, chạy xuôi để lên làm vua cho được; đến lúc làm vua được rồi, chỉ làm việc cho nhân dân oán thán mà thôi. Vậy mà nay c̣n dựa hơi quyền nọ quyền kia, bắt buộc dân c̣n phải tôn ḿnh nữa kia!
Chiếu theo luật xưa nay, dân Âu Á chúng nó bắt tội các vua của chúng, mà xử Bệ hạ, thời một cái giết, hay một cái đuổi, hai cái đó Bệ hạ không thể tránh được.”
Mở rộng nghiên cứu về Phan Chu Trinh, hậu thế c̣n thấy ở ông nhiều thể hiện phản ảnh tinh thần dân tộc son sắt mà ngày nay chúng ta phải cố gắng noi theo.
Trong một thiên nghị luận về mối bang giao giữa ta với cường quốc phương Bắc, Phan Tây Hồ đă viết:
“Tổ tiên ta, không biết mấy ngàn, trăm năm nay đă tất bật lam lũ gian nan cùng quẫn để xây dựng, mở mang, lấy làm căn cứ cho có nơi trú ẩn. Cũng là muốn ta tự sinh, tự phát triển cho tới con tới cháu; rồi con cháu cũng làm như vậy; rồi từ nay về sau con cháu ta được ca ở đó, khóc ở đó, tụ tộc ở đó, sinh trưởng ở đó.”
Tiếp đó ông chỉ trích tham vọng xâm lược của Trung hoa:
“ Trung Quốc đă cậy mạnh hiếp yếu, tham lam không chán, vô cớ mà xâm chiếm đất nước người ta, vô cớ mà tàn sát sanh mạng người ta, vô cớ mà trói buộc nhân dân người ta, vô cớ mà bóc lột máu mỡ người ta. Than ôi! Con người không phải là gỗ đá, t́nh ấy làm sao chịu nổi.”
Và phân tích, đồng thời ca ngợi, tinh thần quật cường của ṇi Việt trong mấy ngàn năm xây dựng nước và giữ ǵn non nước:
“Tiên dân của tổ quốc ta lúc bấy giờ cũng quật cường vĩ đại, trăm lần bẻ không cong, chẳng như một động vật không xương, không máu, không năo, khí, gân. Cho nên các thủ đoạn đối đăi cũng rất kịch liệt: Hoặc khi nó lành th́ ta phục tùng, hoặc khi nó dữ th́ ta phản đối; khi ta thua th́ nó ra tay chém giết chẳng chịu buông tha, khi ta thắng th́ máu xương sông núi lấy đó báo phục. Tuy nó từ cao xuống thấp như thế vạc ba chân, lấy lớn hiếp nhỏ như h́nh đá chọi trứng, khiến ta không thể thoát ngay sự giàm buộc, và nó chỉ lấy lớn mạnh trị ta quá dữ, kềm ta quá gắt, cách mạng nổi lên luôn, chết hại quá nhiều, mà cảm t́nh oán hận được nung nấu trong năo quốc dân không phá được, càng truyền càng lớn, càng thịnh. Nhưng dân tộc ta cũng lấy đó mà khuyến khích đặc tính, nuôi dưỡng tinh thần, ngầm dựng thế lực, không chịu khuất phục, càng thêm gắng gổ, thề lấy mạng sống lấp nơi đồng ruộng, lấy máu đỏ bôi cả núi sông, để bày ra cái cảnh đau buồn sống động rất thảm rất mạnh cùng với dân tộc Trung Quốc ngàn trăm lần to lớn không thể sánh được, cùng nhau xung đột đua tranh trong cảnh thiên diễn ưu thắng liệt bại này. Nó chết ta sống; nó tiến ta lùi. Kể từ sau trước được trên ngàn năm, nó cũng không làm ǵ được ta v́ sao?
Ôi! Xứ Giao Chỉ cỏn con, một vùng đất nhỏ không bằng huyện lớn, mà xem nó ngang hàng, muốn đuổi nó đi, đuổi mấy vạn của dân tộc hùm sói Trung Quốc, không đoái đến nó văn minh hay dă man, không kể mạnh yếu, liều chết mà giành, không chịu lùi một chút, cuối cùng có thể thắng được, giành giật sinh tồn cho đến ngày nay, ngang nhiên là một nước lớn ở phương nam! Than ôi! Trời thương chăng? Thần giúp cho chăng? Không thể bàn bạc được, không thể qui công cho ai. Th́ lớn lời nói: Đó chỉ là đặc tính trầm nghị kiên nhẫn, độc lập bất khuất của dân tộc đời trước của Tổ quốc ta mà thôi.”
Không những tinh thần độc lập dân tộc là bài học quư báu mà chí sĩ để lại cho chúng ta, Phan Tây Hồ c̣n xướng xuất tinh thần dân chủ như con đường duy nhất chúng ta phải theo nếu muốn dân giàu nước mạnh. Ông từng hô hào:
“Dân tộc ta, ngàn năm trước đây đă có cái đặc tính vĩ đại kia, nếu như lấy học thuyết hoạt bát ngày nay của châu Âu phê b́nh khuyến khích làm cho lớn mạnh, mở mang t́m ṭi làm cho rạng rỡ, th́ tiền đồ của dân tộc ta tốt lắm thay!”
Chí sĩ cũng cả quyết “đem văn minh Tây phương về là mang Khổng học về.”
Quan niệm bài Nho thủ cựu và chống tệ đoan mà ông xướng xuất hồi đầu thế kỷ trước quả là mới mẻ, nhất là xuất phát từ một sĩ phu thành danh. Chủ trương này c̣n là lời khuyên chúng ta cảnh tỉnh trước mưu đồ của phương Bắc toan lợi dụng Khổng học làm phương tiện xâm lăng đất đai:
“Xét cho cái lịch sử quân chủ ở Á Đông này th́ chúng ta biết rằng từ Tần Thủy Hoàng trở về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật trong nước không thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ c̣n sót lại một hai điều ở gia đ́nh mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén dân.”
Tâm sự thống thiết, nghị lực vô biên, với tầm nh́n xa rộng và tiến bộ, với công lao toan “vá trời lấp biển,” đă tạo cho Phan Chu Trinh, cùng với Phan Bội Châu trở thành những là nhà ái quốc vĩ đại nhất trong lịch sử VN cận đại.
Ngày nay đọc lại bài Đập đá tại Côn lôn và một câu chí sĩ từng nói, hậu thế càng thêm ngưỡng mộ vị chí sĩ đă hy sinh trọn đời cho độc lập và canh tân đất Việt:
“Đă v́ nước đem thân trôi nổi thế này th́ không bao giờ sự phú quư làm mờ tối ḷng ta được. Nếu một ngày kia dân VN sẽ hóa ra ù ĺ cả, ta đă cùng thế hết sức rồi, th́ ta c̣n cách cắt đầu quẳng xuống đất không chịu để ai vày đạp ta, mà cũng không cho ai cướp tự do của ta.”
Hoàng Yên Lưu