Anamit
04-11-2017, 20:25
Những Ông Chồng Tội Lỗi
Tác Giả: Tràm Cà Mau
Hơn một chục bà sồn sồn họp mặt, tranh nhau xôn xao cười nói ồn ào như chim vỡ tổ, ăn uống liên miên không dứt, tâm sự dông dài. Nói qua đủ các đề tài trên trời dưới đất. Rồi chuyển qua chuyện chồng con.
Chị Xuân “khai hỏa”:
- Ông chồng em lười như hủi mấy chị ơi. Không biết tại sao ông trời lại sinh ra được một kẻ lười đến như vậy. Không làm được việc ǵ nên thân. Nhờ đi mua mấy bó rau răm th́ đem về rau húng. Mua trái cây, không khi nào chịu lựa, tḥ tay bốc đại, đem về toàn cả đồ hư thối. Ngay cả việc đổ rác cũng không xong.
http://saigonecho.com/images/2017/Phiem/chongluoi.jpg
Ảnh minh họa
Chị Hạ phụ họa lời chị Xuân:
- Đàn ông, theo em định nghĩa, là một giống vật lười. Chị đừng than thở chi cho mất công. Cứ thử hỏi các chị quanh đây, có ông chồng nào không lười? Thôi, trách móc kết án chỉ là thừa. Tôi hỏi thật chị nhé, ông xă chị lười, nhưng có lười trong chuyện… chuyện pḥng the hay không? Đó mới là điều quan trọng nhất.
Các bà ngồi quanh cười hi hi.
Chị Xuân đỏ mặt. Nói lí nhí:
- Lười th́ mọi việc đều lười.
- Hừ, lười chuyện pḥng the … mà quần nhau có đến sáu đứa con? Nếu không lười e có hai chục đứa hay sao?”
Chị Hạ nói tiếp: “Ông chồng chị đâu có lười bằng chồng chị Hương? Nghe nói ông nầy lười đến độ những khi nào vợ chồng ‘vui vẻ’ cũng vẫn c̣n để nguyên cả áo quần. Thế mà chị Hương có bao giờ than ông ấy lười đâu? Nầy chị Xuân ơi, chị nói chồng chị lười, mà có lười việc sở không? Có lần nào bị đuổi việc v́ tội lười biếng chưa?
Chị Xuân cao giọng:
- Việc sở, ông ấy đâu có dám lười? Lười để bể nồi cơm sao? Lười để cả nhà dắt nhau đi ăn mày? Ở sở, ông ấy chăm chỉ, đi sớm về muộn, đôi khi làm việc sở quên cả giờ ăn trưa đó! Thỉnh thoảng lại c̣n mang công việc sở về nhà nữa!
Chị Hạ hỏi dồn:
- Về nhà, ông ấy có dạy và kiểm soát việc học của các con hàng ngày không? Có cắt cỏ, tưới cây không? Có sửa chữa nhà cửa điện nước không?
Chị Xuân hừ một tiếng dài:
- Các việc đó mà lười nữa, th́ ai lo cho!
Chị Thu lớn tiếng xen vào:
- Tôi th́ chỉ mong có ông chồng lười cho đỡ mệt. Ông chồng tôi ham làm vườn quên ăn quên ngủ, quên giải trí, quên hết. Ai đời đi làm việc về, vội vă thay áo quần, chạy mau ra vườn, xới đất trồng cây cho đến khi trời tối mịt th́ thắp đèn lên làm tiếp. Măi cho đến chín mười giờ mới chịu vào ăn tối. Cơm canh nguội lạnh. Thứ bảy chủ nhật, cũng loay hoay ngoài vườn từ sáng sớm cho đến khuya. Vợ con không nhờ được việc ǵ cả. Quanh năm bốn mùa lăn lóc trong khu vườn. Những khi mưa đổ như trút, gió thét ầm ầm, th́ co ro che dù, mang áo mưa, tưởng như bị trời hành. Tôi kêu gào rát cả cổ, cũng không suy suyển, chán quá, tôi cũng không thèm nói năng chi nữa!
- Vườn có rộng không? Ông ấy trồng ǵ mà quanh năm không hết việc?” Một bà ṭ ṃ hỏi.
- Khá rộng. Ông ấy cứ bứng cây nầy, trồng cây kia. Làm non bộ, đắp núi giả, gầy uốn cây bonsai, bắt ống nước, chạy dây điện. Cứ thế mà từ ngày nầy qua ngày khác, năm nầy qua năm kia, không bao giờ xong. Những khi đau yếu chưa lành bệnh hẳn, c̣n ho hen, xịt mũi, cũng ra vườn không kể chi đến nắng gió. Ông ấy c̣n bảo, nếu không ra làm vườn, bệnh càng khó thuyên giảm, lâu b́nh phục.
Bà bạn cười cười:
- Chị có biết không, làm vườn cũng là một lối thiền cao độ. Hầu như tất cả các đại thiền sư Nhật Bản, đều say mê việc tạo cảnh. Thiền là đó, chứ không phải đâu cả. Hay là, hay là… chị cằn nhằn quá, nói nhiều quá, nên ông ấy lấy cớ ra vườn lánh nạn. Cho đỡ khổ cái lỗ tai, đỡ phiền muộn chăng?
- Vô duyên chưa? - Chị Thu gắt – Chị cứ suy bụng ta ra bụng người. E rằng, ông chồng của chị cũng không khỏi khổ v́ cái miệng hay chót chét của chị đó! Chị Thu thở dài chán nản tiếp: - Ông ấy mê cái vườn c̣n hơn mê vợ con, mê công việc. Tôi thù ghét cái vườn. Không thèm nh́n đến, có khi cả tháng không bước chân ra vườn, Cái vườn dành mất t́nh yêu của vợ chồng tôi.
Người bạn vỗ vai chị Thu, dịu dàng nói:
- Có được ông chồng không ham chơi, chẳng rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn địch, chỉ ham làm vườn, lành mạnh như thế, mà vẫn chưa bằng ḷng, th́ đ̣i ǵ nữa? Chị muốn có ǵ hơn? Chị Thu đáp: - Hạnh phúc. Chị bạn cười mũi: - Hạnh phúc? Hạnh phúc th́ phải do chị tự tạo lấy. Cứ ngồi không mà chờ, th́ khó có, rồi trách móc người nầy, kẻ kia. Sao chị không ra vườn, tiếp tay với ông ấy, cùng cuốc xới, trồng trọt, tưới nước, chăm sóc cây trái. Rồi tâm sự, chuyện tṛ, th́ hạnh phúc tự nhiên tới. Chị cứ thử trong vài ba tháng xem sao? Có mất ǵ đâu. Không chừng rồi chị cũng say mê làm vườn như ông ấy, và từ đó, thuận vợ thuận chồng th́ tát biển đông cũng cạn.
Chị Hạ lắc đầu nói ngang:
- Kế sách đó cũng hay. Nhưng tôi có một mưu chước khác, làm ông chồng chị không dám ra vườn nữa. Nếu chị chịu, tôi bày cho. Nhưng sau nầy xong việc, phải trả công cho tôi hậu hĩ đấy! Nầy nhé, chị cứ giả vờ yêu mến cây cỏ, thiên nhiên, ra vườn cùng ông chồng, cứ đứng chống nạnh chỉ tay. Đ̣i cây nầy phải bứng qua góc vườn, cây kia phải phải chuyển lại gần hàng rào, vồng hoa nọ không thích hợp với vị trí đó, nhổ hết trồng loại hoa khác, cái ṿi phun nước phải để qua góc bên trái mới mỹ thuật, cứ thế mà đ̣i hỏi phê b́nh đủ thứ chuyện, lải nhải măi. Tôi đoán, ban đầu ông ấy cũng sẽ làm vài việc theo lời yêu cầu cho vợ vui ḷng. Nhưng rồi càng ngày càng mệt, và cứ bị đ̣i hỏi măi, ông ấy cũng sẽ chán nản, bực ḿnh và không dám ra vườn nữa. Mấy chị nghe kế sách nầy có cao không?
Một chị la lớn:
- Không đựợc đâu! Lải nhải và yêu sách măi, lỡ ông ấy nổi nóng, phang cho một cán cuốc vào đầu th́ uổng đời. Đừng có dại. Mấy bà cùng cười vang.
Chị Hạ cười nói tiếp:
- Ông ấy có ăn học đàng hoàng, đứng đắn, đâu phải bọn ba trợn vũ phu mà làm càn! Trong đám chị em chúng ta ở đây, coi bộ chỉ có ông chồng chị Hạ là không có vấn đề. Gia đ́nh vui vẻ hạnh phúc nhất.
Chị Hạ phản đối liền:
- A! Phải ‘nằm trong chăn, mới biết chăn có rận’. Trông như không có vấn đề ǵ cả, mà sự thực lại trầm trọng. Ông chồng tôi là một nhà giáo nghiêm nghị, nghiêm nghị trong lớp học, tại trường, nghiêm nghị ngoài xă hội và nghiêm nghị cả với gia đ́nh, vợ con. Lấy nhau mấy chục năm mà chưa bao giờ thấy ông ấy cười. Nụ cười hiếm hoi c̣n hơn nàng Bao Tự* đời xưa trong truyện Tàu, mà U-Vương phải đốt phong hoả đài, gạt chư hầu về cứu giá, mới có được nụ cười của người đẹp. Ông chồng tôi, chẳng có đẹp ǵ cho cam. Mẹ tôi nói đùa rằng, hôm nào cả nhà đè ông ra mà thọc lét, để xem ông có biết cười hay không! Người ta bảo, một nụ cười bằng mười thang thuốc Nụ cười quư lắm. Mấy chục năm chưa lần thấy nụ cười trên môi ông chồng. Tôi cũng biết vui, biết buồn, chứ phải gỗ đá đâu mà cứ trơ trơ.”
Chị Đông năy giờ chưa nói, bây giờ hứng chí cũng góp chuyện:
- Không biết cười c̣n đỡ. Ông chồng tôi th́ mít ướt, thấy chuyện ǵ cũng cảm động mà khóc được. Những khi xem phim bộ Đại Hàn, cứ khóc thút thít măi như con nít bị đánh đ̣n, lau hết cả hộp khăn giấy. Đọc truyện cũng thế, khi đọc đến những đoạn lâm ly, th́ khóc oà, bỏ sách xuống, không đọc tiếp được nữa. Đi đám ma bạn bè, gia đ́nh người chết th́ tỉnh khô, mà mắt ông th́ ướt nhẹp, đỏ ḷm, xụt xịt mũi nước. Tưởng như đóng kịch. Có lần trong bữa cơm, ông kể chuyện hai vợ chồng bên Tàu thời Cách Mạng Văn Hoá, đói quá, bà vợ đồng ư để chồng gả bà cho người khác, để có cơm ăn, cho bà vợ khỏi chết đói. Mới kể nửa chuyện, ông khóc oà ra, để chén cơm xuống. Khóc như cha mẹ chết. Đứa con gái nói: “Ơ ḱa Ba, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” Mỗi lần nghe chuyện gia đ́nh nào tan vỡ, mắt ông cũng đỏ hoe. Ḷng ông ấy mềm nhũn, yếu x́u, nên chẳng bao giờ nói ‘không’ với người khác được. Bởi thế cho nên các cô thư kư trong sở tranh nhau, đánh ghen nhau tơi bời. Ông chẳng dám binh ai, bỏ ai. Tôi cũng khổ v́ cái t́nh cảm yếu mềm sướt mướt của ông. Tôi cũng biết sôi máu ghen lên chứ! Đàn bà mà! Chồng của ḿnh, chứ đâu phải là của chung thiên hạ, dù biết ông chẳng bao giờ đủ can đảm để bỏ bê gia đ́nh.
Một bà nói:
- Tôi cứ tưởng ông ấy hiền lành, chứ đâu ngờ đào hoa đến thế!
Chị Đông đáp lại:
- Đúng,ông hiền lành! Nhưng nếu có ai thương, th́ ông không nỡ từ chối. Không nỡ̃ làm mất ḷng ai. Khi nào tôi cũng cứ dặn ḷng, cứ b́nh tâm mà hưởng hạnh phúc dành riêng cho ḿnh. Không thể nào thay đổi cái mềm yếu của ông chồng, th́ cứ chấp nhận. V́ ông rất trân quư gia đ́nh, chăm sóc con cái hết ḷng, hy sinh mọi thứ cho vợ, con, và cả người ngoài nữa. Câu nói của chị Đông như găi đúng chỗ ngứa của chị Hoa. Chị bắt đầu nở máy thở than: - Tôi khổ và giận nhất là chuyện ông chồng bao đồng lo việc bên ngoài. Ăn cơm nhà, vác ngà voi. Bất cứ chuyện ǵ, có ai kêu, vội nhảy nhổm lên mà chạy đến cho kịp. Ai giao việc ǵ cũng ôm vào làm ‘chùa’ không công, ngày đêm. Rồi tụ họp nhau ăn uống, cà phê, cà pháo liên miên. Lấy tiền nhà chi tiêu cho việc chung thiên hạ. Không có tiền th́ cà thẻ tín dụng.Việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng. Mấy cái bóng đèn ở nhà đứt dây tối thui, kêu gào rát cả cổ mới chịu thay. Cái ṿi nước cứ ri rỉ long tong hoài, nghe bực đến nhức đầu, không bao giờ chịu sửa. Những người như ông nầy, có lẽ đừng bao giờ lập gia đ́nh, để sức lực, thời gian mà lo cho việc thiên hạ.”
- Thế th́ sao chị lại chịu lấy ông, để rồi bây giờ than van?”
- Tôi đâu có biết. Ngày xưa mới quen nhau, đến nhà chơi, ông làm đủ thứ việc, nào là sửa điện, đóng lại cái bàn long chân, bắt ống khóa, mở cái đồng hồ chết ra mà vô dầu, quét vôi tường ngày tết, cưa cây, trồng hoa, chỉ dạy bài học cho các em tôi, đến cả nấu cơm, kho cá, làm đủ việc hằm bà lằng. Chịu khó giống như các cụ ngày xưa đi ở rể. Tôi cảm động lắm, nhưng không ngờ, ở đâu ông ấy cũng hăng hái nồng nhiệt làm việc như vậy cả. Ông ấy sống cho thiên hạ, chứ không sống cho gia đ́nh. Tôi xét đoán sai, chọn lầm người. Đáng ra ông phải dành mọi sự ưu tiên cho gia đ́nh, vợ con đă, rồi nếu dư năng lực, th́ giờ, mới lo cho việc chung của thiên hạ.”
Một chị la lớn:
- Nghĩ cho cùng, ông ấy là người tốt, có tấm ḷng. Đáng khen, không đáng trách. Nếu ai cũng lơ là việc chung, th́ xă hội nầy đi đến đâu? Làm chi có những sinh hoạt xă hội?”
Chị Nguyệt có chồng thi sĩ tiếp lời:
- Ông chồng chị Đông, làm việc c̣n ích lợi thiết thực cho thiên hạ. Chứ như ông chồng em, suốt ngày mơ mơ màng màng, tỉnh không ra tỉnh, say không ra say. Cứ suy nghĩ vẫn vơ t́m vần dệt thơ, quên trước, quên sau. Không nhờ được việc ǵ. Ban đêm đang ngủ, nằm mơ hay chợt t́m ra một câu thơ lạ, th́ vội vàng bật dậy chép liền. Có khi ngồi bóp đầu, bóp trán từ nữa khuya đến sáng, làm được mấy câu thơ. Buổi sáng mặt mũi bơ phờ như người bệnh. Đem ra khoe. Không cần biết hay hay dở, em chê liền. Rồi có trách móc, dằn vặt, th́ ông ấy nói rằng ngày xưa, có ông Giả Đào nào đó viết: ‘Ba năm mới làm được hai câu thơ, ngâm lên một tiếng, hai gịng lệ rơi không cầm được, người tri âm nếu không cùng hưởng, mùa thu sang ta về núi nằm.’ (**) Chưa hết đâu nghe các chị. Lại véo vào ngân quỷ tiết kiệm của gia đ́nh mà in thơ, chất đống trong nhà. Rồi ra mắt sách, tốn thêm tiền thuê hội trường, mua nước ngọt, thức ăn, phải có ǵ cho người ta ăn uống mới chịu khó ngồi lại nghe. C̣n phải gởi thơ mời, tốn thêm tiền in thiệp, tiền bưu phí. Cũng phải chi chút chút cho ban nhạc phụ giúp vui, năn nỉ ca sĩ hát ‘chùa’. Đáng ra em phải tránh xa các nơi ra sách nầy cho đỡ buồn, tủi, nhưng thấy ông chồng hăm hở tội nghiệp quá, em đi theo ủng hộ. Lại càng buồn hơn. Khách tham dự th́ lèo tèo mấy chục người nói chuyện riêng ồn ào, không thèm để ư đến diễn giả đang nói ǵ, ca sĩ đang hát ḥ ǵ. Chỉ bán được mười mấy cuốn thơ cho đám bạn bè thương t́nh mua ủng hộ. Buổi ra mắt chưa xong, mà khách đă về gần hết.
Đáng ra, họ đă đến, th́ ráng chịu khó thêm một chút, ở lại cho đến khi kết thúc, nó lịch sự hơn. Cũng tốn bộn tiền đấy chứ! Cái giống thi sĩ, xem tiền như rơm, như rác, nhẹ bấc. Nhưng ḿnh là con vợ, th́ phải xem tiền là cơm, là gạo, là điện, nước. Tiền là mồ hôi nước mắt. Chưa xong, đi đâu cũng lè kè mấy tập thơ, gặp ai cũng hí hửng kư tặng. Ông ấy đâu có biết người ta đem về nhà, vất lăn lóc đâu đó, không đọc, hoặc thương t́nh lắm, th́ đọc phớt một hai bài. Thời buổi nầy ai rỗi mà đọc thơ?”
Chị Hạ khoa tay nói lớn:
- Đáng ra chị Nguyệt phải hănh diện có ông chồng thi sĩ chứ! Ngày xưa, tôi cứ mơ có được một chàng thi sĩ đem tôi vào thơ, để ngàn năm sau, h́nh bóng ḿnh cứ thấp thoáng măi trong văn chương. Chị Nguyệt ơi, ông chồng chị làm văn hoá, đóng góp, thêu gấm dệt hoa cho đời, c̣n quư gấp trăm, gấp ngàn lần làm ra tiền bạc.Tiền bạc chỉ có ḿnh tiêu xài, và tiêu đi là hết. Văn hóa c̣n đó, c̣n măi măi, phục vụ cho bây giờ và cho cả ngàn sau. Chị nghĩ sao?”
Chị Nguyệt lắc đầu:
- Không, tôi thực tế, tôi chỉ muốn có cơm gạo. C̣n mai sau, có xui mà được lưu truyền tán tụng, tôi đă ra ma rồi, đâu biết chi nữa! Ông chồng nhiều lần làm tôi sượng mặt, ông nghe thiên hạ xúi dại, trong các bữa tiệc, ngâm thơ. Đă già rồi mà lời thơ cứ anh anh, em em, khổ đau thất t́nh, lửa yêu cháy bỏng, quằn quại, trái tim máu me, thân xác vật vă. Toàn cả những h́nh ảnh ướt át thương đau. Anh em, khổ đau, da diết, với ai đó, chứ đâu phải với tôi! Thử hỏi, bây giờ chúng ta cứ làm thơ thương tiếc người t́nh xưa, công khai phô diễn cái đớn đau, xót xa cho mối t́nh cũ, th́ các ông có chịu hay không?”
- Thôi thôi, đủ rồi. Lư do nào cũng đúng.” Một chị lớn tuổi cắt ngang. Rồi chị tiếp lời: “Khổ đau của các chị là chuyện nhỏ, như đi đường đạp gai. Đáng ra phải nhổ cái gai ra, các chị không chịu, để thế mà đi, gai cứ làm nhức nhối măi. Tôi c̣n nghe chị Hồng, chị Lê, chị Huệ than thở các ông chồng cứ ôm chặt lấy cái computer suốt ngày suốt đêm, bỏ bê việc nhà. Chồng chị Phương, chị Dung th́ say mê thể thao, cá độ, mất hết tiền bạc, nợ nần. Chồng chị Thành tối ngày say sưa bí tỉ, nhậu nhẹt t́ t́ từ khi mở mắt cho đến khi đi ngủ. Lái xe trong khi say rượu, bị bắt c̣ng tay. C̣n chồng chị An, chị Bích, chị Chi th́ đóng đinh ở quán cà phê, đánh cờ tướng, nói chuyện chính trị suốt ngày quên ăn trưa, ăn tối. Nào chị Giang, kể cho các bà nghe về nỗi khổ v́ chồng con của chị đi nào!”
Chị Giang trẻ nhất trong đám các bà. Mặt mày thanh tú. Nét đẹp kiêu sa của thời con gái chưa phai tàn. Chị b́nh tĩnh vuốt tóc và thong thả kể:
- Ông chồng em sáu mươi chin tuổi rồi, gặp lại một bà bạn học chung lớp ngày xưa. Bà nầy là cô giáo cũ của em thời trung học. Khi đi học, chồng em và bà cũng chẳng có t́nh ư chi với nhau. Có lẽ học cùng lứa, th́ các cô xem bọn con trai như em út, và các anh nhỏ cũng không dám chơi leo tơ tưởng tới các đàn chị. Năm trước họ vô t́nh gặp nhau, cả hai tuổi đều đă xấp xỉ bảy mươi. Thế mà họ lại yêu nhau mê mệt. Em có thể hiểu được ông chồng ḿnh, thứ đàn ông mà trẻ không tha, già không kiêng, vốn tính trăng hoa xưa nay. Em cũng đă chán, hết cả ghen tương từ lâu. Nhưng không hiểu được bà kia, tuổi tác đó, chồng con đề huề, cháu nội cháu ngoại cả chục đứa. Thế mà hai người chơi ngông, mết nhau, say sưa điên cuồng quên hết mọi sự. Ngày nào cũng điện thoại cho nhau vài ba giờ, không biết chuyện đâu ra mà nói nhiều đến thế. Mỗi tuần họ gặp nhau ba lần tại khách sạn, hú hí đú đởn. Em cứ vô t́nh, không hay biết Cho đến một hôm, trong lúc say rượu, ông ủi xe vào hàng cây bên đường, bị thương ngất đi. Cảnh sát chở vào bệnh viện. Em kêu hăng bảo hiểm nhờ kéo xe về nhà. Lục thùng xe t́m giấy tờ, thấy nguyên một bao thư mấy trăm trang, in điện thư thư trao đổi qua lại của hai người nầy. Đọc thư họ, em không khóc, mà chỉ cười, v́ họ viết cho nhau lời lẽ t́nh tứ như c̣n ở tuổi mười sáu, hai mươi. Già tuổi đó, mà viết được cái t́nh cảm yêu đương mê muội của bọn con nít, th́ họ cũng tài t́nh đáng phục. Bà ấy liều mạng, nhiều lần viết rằng: ‘Em sẵn sàng chịu bị cạo đầu bôi vôi, bị lột trần truồng dẫn đi rong bêu rếu và bị ném đá cho đến chết để có được t́nh yêu của anh’. Ghê khiếp chưa, một cô giáo có tŕnh độ đại học mà rồ dại đến thế. Em hẹn gặp bà, ban đầu bà định chối, nói là bạn cũ gặp nhau nhắc chuyện thời đi học xa xưa. Em đưa cả xấp thư cho bà ấy xem. Bà hết hồn, mặt xanh như tàu lá và run rẩy gần ngất xỉu. Thấy thái độ của bà, em cũng thương hại. Em lên mặt dạy đời cô giáo cũ rằng: ‘Thưa cô, ngày xưa em kính trọng cái tư cách và phong thái đứng đắn của cô. Có những điều cô dạy, đến nay em c̣n nhớ. Cô thử nghĩ xem, nếu ông chồng cô, con trai con gái cô, dâu rể và cháu nội ngoại đọc được một phần trong những lá thư nầy, họ sẽ nghĩ ǵ, và đối xử ra sao với cô?’ Cô ngồi run cầm cập, mặt trắng bệch như xác chết, im lặng, điếng người, có lẽ v́ quá xấu hổ, quá sợ, thở dốc từng hồi. Em nói tiếp: ‘Thưa cô, em ước mong rằng, đừng ai gọt đầu bôi vôi, đừng lột trần truồng dẫn cô đi bêu rếu, và đừng ai ném đá cô đến chết. Đây, cô giữ lấy tập điện thư trao đổi nầy. Đây là bản duy nhất, em không muốn giữ làm ǵ. Em thương em, và thương cả cô, v́ chúng ta đều là nạn nhân khốn khổ của một ông chồng mất nết. Xin cô hăy thương thầy, ông chồng già đáng kính của cô, đă chia vui xẻ buồn cùng cô, hy sinh cho cô suốt trong gần nữa thế kỷ dài. Cũng đă đi gần hết đời người rồi. Không c̣n bao lâu nữa.’ Em đứng dậy và bước đi, không quay lại nh́n bà ấy.”
Tất cả các bà nghe đến đó, đều nhao nhao lên phản đối:
- Tại sao ngu vậy? Tại sao không chụp ra vài bản, gởi cho ông chồng và các dâu rể của bà để trừng phạt?”
Chị Giang b́nh tĩnh:
- Để làm chi? Nếu không kéo ai lên được, th́ cũng đừng nên xô họ xuống hố sâu thêm. Người ta đau khổ, xấu hổ, mà ḿnh cũng chẳng được ǵ?” Các bà đồng thanh nói: - Để trả thù, để trừng phạt. Thế th́ bây giờ ông chồng của chị ra sao?”
Chị Giang thở ra:
- Em không thù, th́ trả thù làm chi? Bây giờ ông chồng em vẫn b́nh thường, vào ra trong nhà như con chó cúp đuôi biết lỗi. Con người đó, trăng hoa phóng đăng khó chừa, nhưng ông cũng c̣n khá nhiều cái tốt khác mà ít người có được. Em phải biết tự cứu ḿnh, và cứu gia đ́nh. Chắc các chị mới thấy cái bề mặt cư xử nhân từ của em đối với bà ấy mà thôi, chứ chưa thấy cái thâm độc nham hiểm c̣n hơn cả Hoạn Thư. Nếu em hùng hổ xỉ vả chửi mắng thô tục, th́ bà đó ít đau, ít thấm thiá hơn là những lời nói nhẹ nhàng nhân hậu đó.”
Bà chị lớn tuổi nhất đám đua hai tay lên trời mà than:
- Ôi sao kiếp đàn bà chúng ta chịu lắm khổ đau như thế nầy. Tất cả cũng đều do bọn đàn ông gây ra cả. Thế nhưng, thiếu đàn ông, th́ đâu có sống b́nh thường được, đàn bà sẽ khô héo như đem cây trồng vào sa mạc. Nhưng có phải khổ đau trong đời sống vợ chồng, một phần lớn cũng do chúng ta tự tạo ra chăng? Bởi thế, tôi nhớ có gă triết gia cà chớn nào đó viết đại ư rằng: “Nguyện vọng thiết tha nhất của đàn bà con gái là kiếm cho ra một tấm chống, nhưng khi có một tấm chồng rồi, th́ họ muốn có tất cả. Cũng không phải hoàn toàn sai đâu.
Tràm Cà Mau
Ghi chú
*Bao Tự: một người đàn bà đẹp thời Xuân Thu bên Tàu
** Nhị cú tam niên đắc. Nhất ngâm song lệ lưu. Tri âm như bất thưởng. Quy ngọa cố sơn thu.
Tác Giả: Tràm Cà Mau
Hơn một chục bà sồn sồn họp mặt, tranh nhau xôn xao cười nói ồn ào như chim vỡ tổ, ăn uống liên miên không dứt, tâm sự dông dài. Nói qua đủ các đề tài trên trời dưới đất. Rồi chuyển qua chuyện chồng con.
Chị Xuân “khai hỏa”:
- Ông chồng em lười như hủi mấy chị ơi. Không biết tại sao ông trời lại sinh ra được một kẻ lười đến như vậy. Không làm được việc ǵ nên thân. Nhờ đi mua mấy bó rau răm th́ đem về rau húng. Mua trái cây, không khi nào chịu lựa, tḥ tay bốc đại, đem về toàn cả đồ hư thối. Ngay cả việc đổ rác cũng không xong.
http://saigonecho.com/images/2017/Phiem/chongluoi.jpg
Ảnh minh họa
Chị Hạ phụ họa lời chị Xuân:
- Đàn ông, theo em định nghĩa, là một giống vật lười. Chị đừng than thở chi cho mất công. Cứ thử hỏi các chị quanh đây, có ông chồng nào không lười? Thôi, trách móc kết án chỉ là thừa. Tôi hỏi thật chị nhé, ông xă chị lười, nhưng có lười trong chuyện… chuyện pḥng the hay không? Đó mới là điều quan trọng nhất.
Các bà ngồi quanh cười hi hi.
Chị Xuân đỏ mặt. Nói lí nhí:
- Lười th́ mọi việc đều lười.
- Hừ, lười chuyện pḥng the … mà quần nhau có đến sáu đứa con? Nếu không lười e có hai chục đứa hay sao?”
Chị Hạ nói tiếp: “Ông chồng chị đâu có lười bằng chồng chị Hương? Nghe nói ông nầy lười đến độ những khi nào vợ chồng ‘vui vẻ’ cũng vẫn c̣n để nguyên cả áo quần. Thế mà chị Hương có bao giờ than ông ấy lười đâu? Nầy chị Xuân ơi, chị nói chồng chị lười, mà có lười việc sở không? Có lần nào bị đuổi việc v́ tội lười biếng chưa?
Chị Xuân cao giọng:
- Việc sở, ông ấy đâu có dám lười? Lười để bể nồi cơm sao? Lười để cả nhà dắt nhau đi ăn mày? Ở sở, ông ấy chăm chỉ, đi sớm về muộn, đôi khi làm việc sở quên cả giờ ăn trưa đó! Thỉnh thoảng lại c̣n mang công việc sở về nhà nữa!
Chị Hạ hỏi dồn:
- Về nhà, ông ấy có dạy và kiểm soát việc học của các con hàng ngày không? Có cắt cỏ, tưới cây không? Có sửa chữa nhà cửa điện nước không?
Chị Xuân hừ một tiếng dài:
- Các việc đó mà lười nữa, th́ ai lo cho!
Chị Thu lớn tiếng xen vào:
- Tôi th́ chỉ mong có ông chồng lười cho đỡ mệt. Ông chồng tôi ham làm vườn quên ăn quên ngủ, quên giải trí, quên hết. Ai đời đi làm việc về, vội vă thay áo quần, chạy mau ra vườn, xới đất trồng cây cho đến khi trời tối mịt th́ thắp đèn lên làm tiếp. Măi cho đến chín mười giờ mới chịu vào ăn tối. Cơm canh nguội lạnh. Thứ bảy chủ nhật, cũng loay hoay ngoài vườn từ sáng sớm cho đến khuya. Vợ con không nhờ được việc ǵ cả. Quanh năm bốn mùa lăn lóc trong khu vườn. Những khi mưa đổ như trút, gió thét ầm ầm, th́ co ro che dù, mang áo mưa, tưởng như bị trời hành. Tôi kêu gào rát cả cổ, cũng không suy suyển, chán quá, tôi cũng không thèm nói năng chi nữa!
- Vườn có rộng không? Ông ấy trồng ǵ mà quanh năm không hết việc?” Một bà ṭ ṃ hỏi.
- Khá rộng. Ông ấy cứ bứng cây nầy, trồng cây kia. Làm non bộ, đắp núi giả, gầy uốn cây bonsai, bắt ống nước, chạy dây điện. Cứ thế mà từ ngày nầy qua ngày khác, năm nầy qua năm kia, không bao giờ xong. Những khi đau yếu chưa lành bệnh hẳn, c̣n ho hen, xịt mũi, cũng ra vườn không kể chi đến nắng gió. Ông ấy c̣n bảo, nếu không ra làm vườn, bệnh càng khó thuyên giảm, lâu b́nh phục.
Bà bạn cười cười:
- Chị có biết không, làm vườn cũng là một lối thiền cao độ. Hầu như tất cả các đại thiền sư Nhật Bản, đều say mê việc tạo cảnh. Thiền là đó, chứ không phải đâu cả. Hay là, hay là… chị cằn nhằn quá, nói nhiều quá, nên ông ấy lấy cớ ra vườn lánh nạn. Cho đỡ khổ cái lỗ tai, đỡ phiền muộn chăng?
- Vô duyên chưa? - Chị Thu gắt – Chị cứ suy bụng ta ra bụng người. E rằng, ông chồng của chị cũng không khỏi khổ v́ cái miệng hay chót chét của chị đó! Chị Thu thở dài chán nản tiếp: - Ông ấy mê cái vườn c̣n hơn mê vợ con, mê công việc. Tôi thù ghét cái vườn. Không thèm nh́n đến, có khi cả tháng không bước chân ra vườn, Cái vườn dành mất t́nh yêu của vợ chồng tôi.
Người bạn vỗ vai chị Thu, dịu dàng nói:
- Có được ông chồng không ham chơi, chẳng rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn địch, chỉ ham làm vườn, lành mạnh như thế, mà vẫn chưa bằng ḷng, th́ đ̣i ǵ nữa? Chị muốn có ǵ hơn? Chị Thu đáp: - Hạnh phúc. Chị bạn cười mũi: - Hạnh phúc? Hạnh phúc th́ phải do chị tự tạo lấy. Cứ ngồi không mà chờ, th́ khó có, rồi trách móc người nầy, kẻ kia. Sao chị không ra vườn, tiếp tay với ông ấy, cùng cuốc xới, trồng trọt, tưới nước, chăm sóc cây trái. Rồi tâm sự, chuyện tṛ, th́ hạnh phúc tự nhiên tới. Chị cứ thử trong vài ba tháng xem sao? Có mất ǵ đâu. Không chừng rồi chị cũng say mê làm vườn như ông ấy, và từ đó, thuận vợ thuận chồng th́ tát biển đông cũng cạn.
Chị Hạ lắc đầu nói ngang:
- Kế sách đó cũng hay. Nhưng tôi có một mưu chước khác, làm ông chồng chị không dám ra vườn nữa. Nếu chị chịu, tôi bày cho. Nhưng sau nầy xong việc, phải trả công cho tôi hậu hĩ đấy! Nầy nhé, chị cứ giả vờ yêu mến cây cỏ, thiên nhiên, ra vườn cùng ông chồng, cứ đứng chống nạnh chỉ tay. Đ̣i cây nầy phải bứng qua góc vườn, cây kia phải phải chuyển lại gần hàng rào, vồng hoa nọ không thích hợp với vị trí đó, nhổ hết trồng loại hoa khác, cái ṿi phun nước phải để qua góc bên trái mới mỹ thuật, cứ thế mà đ̣i hỏi phê b́nh đủ thứ chuyện, lải nhải măi. Tôi đoán, ban đầu ông ấy cũng sẽ làm vài việc theo lời yêu cầu cho vợ vui ḷng. Nhưng rồi càng ngày càng mệt, và cứ bị đ̣i hỏi măi, ông ấy cũng sẽ chán nản, bực ḿnh và không dám ra vườn nữa. Mấy chị nghe kế sách nầy có cao không?
Một chị la lớn:
- Không đựợc đâu! Lải nhải và yêu sách măi, lỡ ông ấy nổi nóng, phang cho một cán cuốc vào đầu th́ uổng đời. Đừng có dại. Mấy bà cùng cười vang.
Chị Hạ cười nói tiếp:
- Ông ấy có ăn học đàng hoàng, đứng đắn, đâu phải bọn ba trợn vũ phu mà làm càn! Trong đám chị em chúng ta ở đây, coi bộ chỉ có ông chồng chị Hạ là không có vấn đề. Gia đ́nh vui vẻ hạnh phúc nhất.
Chị Hạ phản đối liền:
- A! Phải ‘nằm trong chăn, mới biết chăn có rận’. Trông như không có vấn đề ǵ cả, mà sự thực lại trầm trọng. Ông chồng tôi là một nhà giáo nghiêm nghị, nghiêm nghị trong lớp học, tại trường, nghiêm nghị ngoài xă hội và nghiêm nghị cả với gia đ́nh, vợ con. Lấy nhau mấy chục năm mà chưa bao giờ thấy ông ấy cười. Nụ cười hiếm hoi c̣n hơn nàng Bao Tự* đời xưa trong truyện Tàu, mà U-Vương phải đốt phong hoả đài, gạt chư hầu về cứu giá, mới có được nụ cười của người đẹp. Ông chồng tôi, chẳng có đẹp ǵ cho cam. Mẹ tôi nói đùa rằng, hôm nào cả nhà đè ông ra mà thọc lét, để xem ông có biết cười hay không! Người ta bảo, một nụ cười bằng mười thang thuốc Nụ cười quư lắm. Mấy chục năm chưa lần thấy nụ cười trên môi ông chồng. Tôi cũng biết vui, biết buồn, chứ phải gỗ đá đâu mà cứ trơ trơ.”
Chị Đông năy giờ chưa nói, bây giờ hứng chí cũng góp chuyện:
- Không biết cười c̣n đỡ. Ông chồng tôi th́ mít ướt, thấy chuyện ǵ cũng cảm động mà khóc được. Những khi xem phim bộ Đại Hàn, cứ khóc thút thít măi như con nít bị đánh đ̣n, lau hết cả hộp khăn giấy. Đọc truyện cũng thế, khi đọc đến những đoạn lâm ly, th́ khóc oà, bỏ sách xuống, không đọc tiếp được nữa. Đi đám ma bạn bè, gia đ́nh người chết th́ tỉnh khô, mà mắt ông th́ ướt nhẹp, đỏ ḷm, xụt xịt mũi nước. Tưởng như đóng kịch. Có lần trong bữa cơm, ông kể chuyện hai vợ chồng bên Tàu thời Cách Mạng Văn Hoá, đói quá, bà vợ đồng ư để chồng gả bà cho người khác, để có cơm ăn, cho bà vợ khỏi chết đói. Mới kể nửa chuyện, ông khóc oà ra, để chén cơm xuống. Khóc như cha mẹ chết. Đứa con gái nói: “Ơ ḱa Ba, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” Mỗi lần nghe chuyện gia đ́nh nào tan vỡ, mắt ông cũng đỏ hoe. Ḷng ông ấy mềm nhũn, yếu x́u, nên chẳng bao giờ nói ‘không’ với người khác được. Bởi thế cho nên các cô thư kư trong sở tranh nhau, đánh ghen nhau tơi bời. Ông chẳng dám binh ai, bỏ ai. Tôi cũng khổ v́ cái t́nh cảm yếu mềm sướt mướt của ông. Tôi cũng biết sôi máu ghen lên chứ! Đàn bà mà! Chồng của ḿnh, chứ đâu phải là của chung thiên hạ, dù biết ông chẳng bao giờ đủ can đảm để bỏ bê gia đ́nh.
Một bà nói:
- Tôi cứ tưởng ông ấy hiền lành, chứ đâu ngờ đào hoa đến thế!
Chị Đông đáp lại:
- Đúng,ông hiền lành! Nhưng nếu có ai thương, th́ ông không nỡ từ chối. Không nỡ̃ làm mất ḷng ai. Khi nào tôi cũng cứ dặn ḷng, cứ b́nh tâm mà hưởng hạnh phúc dành riêng cho ḿnh. Không thể nào thay đổi cái mềm yếu của ông chồng, th́ cứ chấp nhận. V́ ông rất trân quư gia đ́nh, chăm sóc con cái hết ḷng, hy sinh mọi thứ cho vợ, con, và cả người ngoài nữa. Câu nói của chị Đông như găi đúng chỗ ngứa của chị Hoa. Chị bắt đầu nở máy thở than: - Tôi khổ và giận nhất là chuyện ông chồng bao đồng lo việc bên ngoài. Ăn cơm nhà, vác ngà voi. Bất cứ chuyện ǵ, có ai kêu, vội nhảy nhổm lên mà chạy đến cho kịp. Ai giao việc ǵ cũng ôm vào làm ‘chùa’ không công, ngày đêm. Rồi tụ họp nhau ăn uống, cà phê, cà pháo liên miên. Lấy tiền nhà chi tiêu cho việc chung thiên hạ. Không có tiền th́ cà thẻ tín dụng.Việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng. Mấy cái bóng đèn ở nhà đứt dây tối thui, kêu gào rát cả cổ mới chịu thay. Cái ṿi nước cứ ri rỉ long tong hoài, nghe bực đến nhức đầu, không bao giờ chịu sửa. Những người như ông nầy, có lẽ đừng bao giờ lập gia đ́nh, để sức lực, thời gian mà lo cho việc thiên hạ.”
- Thế th́ sao chị lại chịu lấy ông, để rồi bây giờ than van?”
- Tôi đâu có biết. Ngày xưa mới quen nhau, đến nhà chơi, ông làm đủ thứ việc, nào là sửa điện, đóng lại cái bàn long chân, bắt ống khóa, mở cái đồng hồ chết ra mà vô dầu, quét vôi tường ngày tết, cưa cây, trồng hoa, chỉ dạy bài học cho các em tôi, đến cả nấu cơm, kho cá, làm đủ việc hằm bà lằng. Chịu khó giống như các cụ ngày xưa đi ở rể. Tôi cảm động lắm, nhưng không ngờ, ở đâu ông ấy cũng hăng hái nồng nhiệt làm việc như vậy cả. Ông ấy sống cho thiên hạ, chứ không sống cho gia đ́nh. Tôi xét đoán sai, chọn lầm người. Đáng ra ông phải dành mọi sự ưu tiên cho gia đ́nh, vợ con đă, rồi nếu dư năng lực, th́ giờ, mới lo cho việc chung của thiên hạ.”
Một chị la lớn:
- Nghĩ cho cùng, ông ấy là người tốt, có tấm ḷng. Đáng khen, không đáng trách. Nếu ai cũng lơ là việc chung, th́ xă hội nầy đi đến đâu? Làm chi có những sinh hoạt xă hội?”
Chị Nguyệt có chồng thi sĩ tiếp lời:
- Ông chồng chị Đông, làm việc c̣n ích lợi thiết thực cho thiên hạ. Chứ như ông chồng em, suốt ngày mơ mơ màng màng, tỉnh không ra tỉnh, say không ra say. Cứ suy nghĩ vẫn vơ t́m vần dệt thơ, quên trước, quên sau. Không nhờ được việc ǵ. Ban đêm đang ngủ, nằm mơ hay chợt t́m ra một câu thơ lạ, th́ vội vàng bật dậy chép liền. Có khi ngồi bóp đầu, bóp trán từ nữa khuya đến sáng, làm được mấy câu thơ. Buổi sáng mặt mũi bơ phờ như người bệnh. Đem ra khoe. Không cần biết hay hay dở, em chê liền. Rồi có trách móc, dằn vặt, th́ ông ấy nói rằng ngày xưa, có ông Giả Đào nào đó viết: ‘Ba năm mới làm được hai câu thơ, ngâm lên một tiếng, hai gịng lệ rơi không cầm được, người tri âm nếu không cùng hưởng, mùa thu sang ta về núi nằm.’ (**) Chưa hết đâu nghe các chị. Lại véo vào ngân quỷ tiết kiệm của gia đ́nh mà in thơ, chất đống trong nhà. Rồi ra mắt sách, tốn thêm tiền thuê hội trường, mua nước ngọt, thức ăn, phải có ǵ cho người ta ăn uống mới chịu khó ngồi lại nghe. C̣n phải gởi thơ mời, tốn thêm tiền in thiệp, tiền bưu phí. Cũng phải chi chút chút cho ban nhạc phụ giúp vui, năn nỉ ca sĩ hát ‘chùa’. Đáng ra em phải tránh xa các nơi ra sách nầy cho đỡ buồn, tủi, nhưng thấy ông chồng hăm hở tội nghiệp quá, em đi theo ủng hộ. Lại càng buồn hơn. Khách tham dự th́ lèo tèo mấy chục người nói chuyện riêng ồn ào, không thèm để ư đến diễn giả đang nói ǵ, ca sĩ đang hát ḥ ǵ. Chỉ bán được mười mấy cuốn thơ cho đám bạn bè thương t́nh mua ủng hộ. Buổi ra mắt chưa xong, mà khách đă về gần hết.
Đáng ra, họ đă đến, th́ ráng chịu khó thêm một chút, ở lại cho đến khi kết thúc, nó lịch sự hơn. Cũng tốn bộn tiền đấy chứ! Cái giống thi sĩ, xem tiền như rơm, như rác, nhẹ bấc. Nhưng ḿnh là con vợ, th́ phải xem tiền là cơm, là gạo, là điện, nước. Tiền là mồ hôi nước mắt. Chưa xong, đi đâu cũng lè kè mấy tập thơ, gặp ai cũng hí hửng kư tặng. Ông ấy đâu có biết người ta đem về nhà, vất lăn lóc đâu đó, không đọc, hoặc thương t́nh lắm, th́ đọc phớt một hai bài. Thời buổi nầy ai rỗi mà đọc thơ?”
Chị Hạ khoa tay nói lớn:
- Đáng ra chị Nguyệt phải hănh diện có ông chồng thi sĩ chứ! Ngày xưa, tôi cứ mơ có được một chàng thi sĩ đem tôi vào thơ, để ngàn năm sau, h́nh bóng ḿnh cứ thấp thoáng măi trong văn chương. Chị Nguyệt ơi, ông chồng chị làm văn hoá, đóng góp, thêu gấm dệt hoa cho đời, c̣n quư gấp trăm, gấp ngàn lần làm ra tiền bạc.Tiền bạc chỉ có ḿnh tiêu xài, và tiêu đi là hết. Văn hóa c̣n đó, c̣n măi măi, phục vụ cho bây giờ và cho cả ngàn sau. Chị nghĩ sao?”
Chị Nguyệt lắc đầu:
- Không, tôi thực tế, tôi chỉ muốn có cơm gạo. C̣n mai sau, có xui mà được lưu truyền tán tụng, tôi đă ra ma rồi, đâu biết chi nữa! Ông chồng nhiều lần làm tôi sượng mặt, ông nghe thiên hạ xúi dại, trong các bữa tiệc, ngâm thơ. Đă già rồi mà lời thơ cứ anh anh, em em, khổ đau thất t́nh, lửa yêu cháy bỏng, quằn quại, trái tim máu me, thân xác vật vă. Toàn cả những h́nh ảnh ướt át thương đau. Anh em, khổ đau, da diết, với ai đó, chứ đâu phải với tôi! Thử hỏi, bây giờ chúng ta cứ làm thơ thương tiếc người t́nh xưa, công khai phô diễn cái đớn đau, xót xa cho mối t́nh cũ, th́ các ông có chịu hay không?”
- Thôi thôi, đủ rồi. Lư do nào cũng đúng.” Một chị lớn tuổi cắt ngang. Rồi chị tiếp lời: “Khổ đau của các chị là chuyện nhỏ, như đi đường đạp gai. Đáng ra phải nhổ cái gai ra, các chị không chịu, để thế mà đi, gai cứ làm nhức nhối măi. Tôi c̣n nghe chị Hồng, chị Lê, chị Huệ than thở các ông chồng cứ ôm chặt lấy cái computer suốt ngày suốt đêm, bỏ bê việc nhà. Chồng chị Phương, chị Dung th́ say mê thể thao, cá độ, mất hết tiền bạc, nợ nần. Chồng chị Thành tối ngày say sưa bí tỉ, nhậu nhẹt t́ t́ từ khi mở mắt cho đến khi đi ngủ. Lái xe trong khi say rượu, bị bắt c̣ng tay. C̣n chồng chị An, chị Bích, chị Chi th́ đóng đinh ở quán cà phê, đánh cờ tướng, nói chuyện chính trị suốt ngày quên ăn trưa, ăn tối. Nào chị Giang, kể cho các bà nghe về nỗi khổ v́ chồng con của chị đi nào!”
Chị Giang trẻ nhất trong đám các bà. Mặt mày thanh tú. Nét đẹp kiêu sa của thời con gái chưa phai tàn. Chị b́nh tĩnh vuốt tóc và thong thả kể:
- Ông chồng em sáu mươi chin tuổi rồi, gặp lại một bà bạn học chung lớp ngày xưa. Bà nầy là cô giáo cũ của em thời trung học. Khi đi học, chồng em và bà cũng chẳng có t́nh ư chi với nhau. Có lẽ học cùng lứa, th́ các cô xem bọn con trai như em út, và các anh nhỏ cũng không dám chơi leo tơ tưởng tới các đàn chị. Năm trước họ vô t́nh gặp nhau, cả hai tuổi đều đă xấp xỉ bảy mươi. Thế mà họ lại yêu nhau mê mệt. Em có thể hiểu được ông chồng ḿnh, thứ đàn ông mà trẻ không tha, già không kiêng, vốn tính trăng hoa xưa nay. Em cũng đă chán, hết cả ghen tương từ lâu. Nhưng không hiểu được bà kia, tuổi tác đó, chồng con đề huề, cháu nội cháu ngoại cả chục đứa. Thế mà hai người chơi ngông, mết nhau, say sưa điên cuồng quên hết mọi sự. Ngày nào cũng điện thoại cho nhau vài ba giờ, không biết chuyện đâu ra mà nói nhiều đến thế. Mỗi tuần họ gặp nhau ba lần tại khách sạn, hú hí đú đởn. Em cứ vô t́nh, không hay biết Cho đến một hôm, trong lúc say rượu, ông ủi xe vào hàng cây bên đường, bị thương ngất đi. Cảnh sát chở vào bệnh viện. Em kêu hăng bảo hiểm nhờ kéo xe về nhà. Lục thùng xe t́m giấy tờ, thấy nguyên một bao thư mấy trăm trang, in điện thư thư trao đổi qua lại của hai người nầy. Đọc thư họ, em không khóc, mà chỉ cười, v́ họ viết cho nhau lời lẽ t́nh tứ như c̣n ở tuổi mười sáu, hai mươi. Già tuổi đó, mà viết được cái t́nh cảm yêu đương mê muội của bọn con nít, th́ họ cũng tài t́nh đáng phục. Bà ấy liều mạng, nhiều lần viết rằng: ‘Em sẵn sàng chịu bị cạo đầu bôi vôi, bị lột trần truồng dẫn đi rong bêu rếu và bị ném đá cho đến chết để có được t́nh yêu của anh’. Ghê khiếp chưa, một cô giáo có tŕnh độ đại học mà rồ dại đến thế. Em hẹn gặp bà, ban đầu bà định chối, nói là bạn cũ gặp nhau nhắc chuyện thời đi học xa xưa. Em đưa cả xấp thư cho bà ấy xem. Bà hết hồn, mặt xanh như tàu lá và run rẩy gần ngất xỉu. Thấy thái độ của bà, em cũng thương hại. Em lên mặt dạy đời cô giáo cũ rằng: ‘Thưa cô, ngày xưa em kính trọng cái tư cách và phong thái đứng đắn của cô. Có những điều cô dạy, đến nay em c̣n nhớ. Cô thử nghĩ xem, nếu ông chồng cô, con trai con gái cô, dâu rể và cháu nội ngoại đọc được một phần trong những lá thư nầy, họ sẽ nghĩ ǵ, và đối xử ra sao với cô?’ Cô ngồi run cầm cập, mặt trắng bệch như xác chết, im lặng, điếng người, có lẽ v́ quá xấu hổ, quá sợ, thở dốc từng hồi. Em nói tiếp: ‘Thưa cô, em ước mong rằng, đừng ai gọt đầu bôi vôi, đừng lột trần truồng dẫn cô đi bêu rếu, và đừng ai ném đá cô đến chết. Đây, cô giữ lấy tập điện thư trao đổi nầy. Đây là bản duy nhất, em không muốn giữ làm ǵ. Em thương em, và thương cả cô, v́ chúng ta đều là nạn nhân khốn khổ của một ông chồng mất nết. Xin cô hăy thương thầy, ông chồng già đáng kính của cô, đă chia vui xẻ buồn cùng cô, hy sinh cho cô suốt trong gần nữa thế kỷ dài. Cũng đă đi gần hết đời người rồi. Không c̣n bao lâu nữa.’ Em đứng dậy và bước đi, không quay lại nh́n bà ấy.”
Tất cả các bà nghe đến đó, đều nhao nhao lên phản đối:
- Tại sao ngu vậy? Tại sao không chụp ra vài bản, gởi cho ông chồng và các dâu rể của bà để trừng phạt?”
Chị Giang b́nh tĩnh:
- Để làm chi? Nếu không kéo ai lên được, th́ cũng đừng nên xô họ xuống hố sâu thêm. Người ta đau khổ, xấu hổ, mà ḿnh cũng chẳng được ǵ?” Các bà đồng thanh nói: - Để trả thù, để trừng phạt. Thế th́ bây giờ ông chồng của chị ra sao?”
Chị Giang thở ra:
- Em không thù, th́ trả thù làm chi? Bây giờ ông chồng em vẫn b́nh thường, vào ra trong nhà như con chó cúp đuôi biết lỗi. Con người đó, trăng hoa phóng đăng khó chừa, nhưng ông cũng c̣n khá nhiều cái tốt khác mà ít người có được. Em phải biết tự cứu ḿnh, và cứu gia đ́nh. Chắc các chị mới thấy cái bề mặt cư xử nhân từ của em đối với bà ấy mà thôi, chứ chưa thấy cái thâm độc nham hiểm c̣n hơn cả Hoạn Thư. Nếu em hùng hổ xỉ vả chửi mắng thô tục, th́ bà đó ít đau, ít thấm thiá hơn là những lời nói nhẹ nhàng nhân hậu đó.”
Bà chị lớn tuổi nhất đám đua hai tay lên trời mà than:
- Ôi sao kiếp đàn bà chúng ta chịu lắm khổ đau như thế nầy. Tất cả cũng đều do bọn đàn ông gây ra cả. Thế nhưng, thiếu đàn ông, th́ đâu có sống b́nh thường được, đàn bà sẽ khô héo như đem cây trồng vào sa mạc. Nhưng có phải khổ đau trong đời sống vợ chồng, một phần lớn cũng do chúng ta tự tạo ra chăng? Bởi thế, tôi nhớ có gă triết gia cà chớn nào đó viết đại ư rằng: “Nguyện vọng thiết tha nhất của đàn bà con gái là kiếm cho ra một tấm chống, nhưng khi có một tấm chồng rồi, th́ họ muốn có tất cả. Cũng không phải hoàn toàn sai đâu.
Tràm Cà Mau
Ghi chú
*Bao Tự: một người đàn bà đẹp thời Xuân Thu bên Tàu
** Nhị cú tam niên đắc. Nhất ngâm song lệ lưu. Tri âm như bất thưởng. Quy ngọa cố sơn thu.