tcl
20-11-2015, 02:30
Tưởng niệm Anh Bằng
TRỊNH THANH THỦY
Tôi không biết t́nh yêu đầu đời của người con trai tuổi mười tám cuồng nhiệt như thế nào, chứ riêng tôi lúc mới mười lăm, trong mắt đă bắt đầu có khói, th́ t́nh yêu tuổi mười tám nếu bị tan vỡ, hẳn là một điều kinh khủng lắm. Đă mất t́nh yêu lại c̣n cách xa, đứt ĺa cuống rốn, nơi chốn đầm đ́a tuổi thơ và mật ngọt hoa niên, th́ phải buốt đau lắm. Tôi nhắc tới nỗi đau ḷng này, v́ khi nghe bài hát “Nỗi ḷng người đi”, tôi bỗng h́nh dung h́nh ảnh một Anh Bằng trong gịng người chen chúc vo khăn tay, nhầu nước mắt, trong những ngày tản cư thập niên năm tư, năm lăm. Ẩn hiện trong đoạn phim đen trắng quay chậm, có dáng chàng thanh niên tay đàn, tay sách, ngơ ngác trông vời tít tắp bóng người con gái mịt mờ xa chân chiều, cuối ga khói.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-01.jpg
Tôi được biết nhạc sĩ Anh Bằng từ ngày Câu Lạc Bộ T́nh Nghệ Sĩ ở hải ngoại mới thành lập, mà ông là một trong các vị nhạc sĩ cố vấn lăo thành. Tôi thường gọi ông bằng chú với ḷng quư mến. Tôi chia sẻ vui buồn đời thường và những bài viết của tôi với ông. Ông hay gởi các CD hay DVD của ông cho tôi và những ḍng thư khích lệ, góp ư về lănh vực âm nhạc.
Một lần gặp ông, tôi hỏi về cảm nghĩ phút ông rời xa Hà Nội, về khắc chia tay với ánh mắt người yêu đầu đời ấy, tâm trạng ông ra sao? Ông chỉ vào tai ḿnh nói “Chú điếc đặc rồi, chẳng nghe được ǵ.” Tôi lại hỏi “Chú c̣n nhớ bài “Nỗi ḷng người đi”, c̣n nghe được tiếng đàn không?” Ông mỉm cười khi nghe tôi hét to. “Chú chỉ nghe được tiếng rè rè thôi.” Tôi không hỏi nữa, v́ biết có hỏi cũng không nhận được câu trả lời. Nh́n nụ cười hiền lành của ông, ḷng tôi bùi ngùi nhưng ấm sáng nỗi niềm an lạc. Nụ cười của người đă mút xa Hà Nội hàng mấy mươi năm ấy, vẫn không xóa mờ được tiếng “khóc tơ duyên ĺa tan” thuở xưa. Ngày người giă từ Hà Nội, ngày gió mùa đông bắc thổi buốt má, khô môi, thông thốc rải lá khô đầy những gờ mái cong hàng phố cổ. Hai mươi mấy năm sau, người thanh niên đó đă ngũ tuần, lại mang thêm một nỗi ḷng mới, dứt áo ra đi xa ĺa đất tổ. Hà Nội giờ là bên này của kư ức, Sài G̣n là bên kia của hồi tưởng, tiếng đàn xưa có trổi, người nhạc sĩ cũng không c̣n nhận được điệu t́nh tang thấm thía mịt mù.
Hơn sáu mươi năm âm nhạc, nhạc sĩ Anh Bằng đă để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm. Tuy nhiên “Nỗi ḷng người đi” đă khắc một dấu ấn sâu đậm và làm nên tên tuổi một Anh Bằng trong ḷng người yêu nhạc. Người Bắc di cư hầu như không ai không biết bài hát này, v́ nó không chỉ là nỗi ḷng riêng ông, mà c̣n là nỗi ḷng thắm thiết bao người với mảnh đất thân yêu đă sinh ra và nuôi họ lớn lên. Xa Hà Nội là xa trời, xa đất, xa người, xa tất cả, là để lại phân nửa h́nh hài của chính ḿnh.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-03.jpg
Ca sĩ Sĩ Phú và nhạc phẩm “Nỗi ḷng người đi” (trước 75)
Người ta thường ví von cuộc đời người nghệ sĩ như kiếp con tằm, “rút ruột, nhả tơ” cho đến chết. Tôi cảm phục người xưa, so sánh sao mà khéo lắm vậy. H́nh ảnh một con tằm uốn người xoay tṛn nhả tơ để tự giam nhốt chính nó, như một vũ công. Và cứ thế, nó múa vũ điệu của tằm, nhả cho đến hết tơ trong bụng mới thôi. Hệt như người nghệ sĩ say sưa đi t́m cái hay, cái đẹp để cống hiến cho đời. Họ mải mê sáng tác, tận tụy, vất vả theo đuổi nghiệp nhả tơ cho đến lúc sức tàn, lực kiệt. Nhạc sĩ Anh Bằng cũng vậy, suốt cuộc đời ông, từ khi bắt đầu sáng tác, đến khi di cư vào Nam, di tản qua Hoa Kỳ, tới lúc nằm xuống, ông chưa từng ngơi nghỉ. Kể cả khi mất đi thính giác là tài sản quư báu nhất của một người viết nhạc, ông vẫn tiếp tục đắm say trong vũ điệu tơ tằm.
Từ khi vào Nam phục vụ trong ngành chiến tranh tâm lư, ông hoạt động như một nghệ sĩ trong Đại Đội 2 văn nghệ, sáng tác nhạc, kịch. Ông đoạt “Giải văn học nghệ thuật toàn quốc” thời Đệ Nhất Cộng Ḥa với vở kịch “Đứa con nuôi”. Sau khi giải ngũ năm 1962, ông hoạt động trong đài truyền thanh VTVN và phụ trách ban Sóng Mới. Ông thường kư nhiều tên khác nhau như Lê Minh Bằng do sự hợp tác với Lê Dinh và Minh Kỳ, hay nhiều tên khác như Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,Vương Đức Long v..v…Có lẽ ông thích khoác cho ḿnh bộ áo muôn màu, đủ sắc như sự đa dạng trong tác phẩm của ông.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-02.jpg
Khi c̣n bé ở trong nước, tuổi thơ của tôi lớn lên bằng tiếng ru vọng cổ của cô người làm, tiếng ư ử xuyên vách “Hai mùa mưa” của chị bán chè đậu kế bên nhà. Chị tâm sự với tôi, chị ghiền nghe Trang Mỹ Dung nức nở bài này lắm. Sau này lớn lên, tôi cũng đồng ư với chị không ai ăn đứt được tiếng hát TMD khi tŕnh bày bài này. Sáng tác “Hai mùa mưa” của Lê Minh Bằng đến với tôi từ đó. Thêm một lư do nữa, tôi may mắn được quen nhỏ bạn cùng trường là em gái Trang Mỹ Dung, khiến “Hai mùa mưa” đi vào trí nhớ tôi như một kư ức ấm vui. Có lần tôi ghé nhà nhỏ trong một ngơ hẻm ở Phú Nhuận, nhưng không gặp chị Dung, v́ chị vắng nhà. Tôi chỉ được thấy TMD qua tấm h́nh đen trắng, có nụ cười buồn mênh mông giữa tường vôi trắng.
Tôi c̣n thích bài hát “Nó” của Lê Minh Bằng khi mường tượng ra thằng bé đánh giày hay ngủ trước hiên cửa nhà tôi. “Nó” thường đánh thức tôi bằng những tràng chửi thề liên tục hằng đêm. “Nó” của các em bé tay gầy quắt queo, x̣e rộng bàn tay xin tiền ở chợ, đ́nh, chùa, quán ăn, lề đường, góc phố. “Nó” đói lạnh, bị hắt hủi, xua đuổi, bị bọn bất lương đánh đập gây thương tật để gợi ḷng thương của khách cho tiền. Ở góc nh́n mẫn cảm của người nghệ sĩ, “Nó” đă chạm tới một góc khuyết của tâm hồn, một phía khuất của xă hội.
Tác phẩm của Anh Bằng rất đa dạng. Có dạo tôi rất thích điệu Tango và say đắm tiếng hát Khánh Ly trong bài hát “Người thợ săn và đàn chim nhỏ”. Ca khúc này được kư tên Vương Đức Long, cũng là tên của nhóm Lê Minh Bằng, ca từ do Anh Bằng viết. Nhạc sĩ Lê Dinh kể: “Nhằm nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người sử dụng công lộ và nhất là những phụ nữ buôn gánh bán bưng... Trong óc tưởng tuợng của anh - người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng trên tay, như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn chim, để rồi anh viết lời ca:
Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
C̣n một bầy chim vô t́nh vẫn hót líu lo đùa chơi
Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
Chim chết chim lạc bầy...”
Riêng tôi và đa số người nghe không biết nghĩa bóng và câu chuyện liên hệ nhưng mỗi khi hát đến câu “Rồi người thợ săn âm thầm mang súng mang chim trở về, lề đường bầy chim không thù không oán, hót cho người nghe” lại thấy rưng rưng thương cảm đàn chim vô tội bị thảm sát. Tôi cảm nhận được tính nhân bản trong ca khúc như một đóa mai từ bi.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-04.jpg
Ca sĩ Trang Mỹ Dung và nhạc phẩm “Hai mùa mưa” (trước 1975)
Sống trong thời ly loạn hầu hết những ca khúc của ông thấp thoáng màu áo trận của người lính chiến, của những biệt ly và lên đường như “Căn nhà ngoại ô”, Lẻ Bóng”, “Sầu lẻ bóng”, Đường khuya” hay “Nếu hai đứa ḿnh”, “Giấc ngủ cô đơn”... Ông c̣n đề cao t́nh chiến hữu trong “Huynh đệ chi binh” hoặc vui buồn đời quân ngũ “Binh méo, cai tṛn” hay hóm hỉnh như “Đánh cờ người”, tếu táo trong “Tập lái vespa” mà ban AVT thường tŕnh diễn. Nhạc của ông không dừng lại ở tầng lớp những người b́nh dân mà c̣n ngưng đọng ở một tầng lớp chọn lọc khác, ở lănh vực thơ phổ nhạc. Có những bài thơ đă được ông phổ nhạc như các bài “Khúc thụy du” của Du Tử Lê, “Trúc đào” của Nguyễn Tất Nhiên, “Ai bảo em là giai nhân” của Lưu Trọng Lư, “Anh biết em đi chẳng trở về” của Thái Can, “Hoa học tṛ” của Nhất Tuấn. Khi phổ nhạc các bài thơ, ông thường lấy ư, mượn ư, và dùng ca từ riêng của ḿnh. Khi dịch lời nhạc ngoại quốc qua Việt ngữ cũng vậy, ông tạo một ngôn ngữ riêng mà vẫn giữ ư chính, như trong bài “T́nh nồng cháy”, nguyên tác “Over and over”, do Cornell Haynes Jr, Jayson “KoKo” Bridges & James D. Hargrove sáng tác.
Khi qua Hoa Kỳ, ông tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981-1990), và cộng tác với Trung tâm Asia. Những nhạc phẩm sau này nói lên tâm sự, nỗi ḷng hoài hương và những sinh hoạt của người Việt lưu vong như “Căn gác lưu đày”, “Nước mắt quê hương”. Xúc động và phẫn uất trước thảm họa xâm lăng của Trung quốc, ông hăng say sáng tác những ca khúc khơi dậy ḷng ái quốc, đấu tranh cho quê hương, dân tộc như “Phải lên tiếng”, “Cả nước đấu tranh”, “Hăy đứng lên”, “Tuổi trẻ Việt Nam” v.v...
Hôm nay tôi viết những ḍng tưởng niệm nhạc sĩ Anh Bằng với niềm thương kính như với một người cha, người chú hiền từ, đầy ḷng nhân ái. Sự ra đi của ông khó mờ phai trong tâm tưởng những người từng mến mộ những ca khúc của ông.
Bao nhiêu năm góp phần xây dựng cho kim tự tháp âm nhạc Việt Nam, đáy kim tự tháp hẳn nhiên có tên ông - nhạc sĩ Anh Bằng.
TTT ( THÁNG 11, 2015)(baotreonline)
TRỊNH THANH THỦY
Tôi không biết t́nh yêu đầu đời của người con trai tuổi mười tám cuồng nhiệt như thế nào, chứ riêng tôi lúc mới mười lăm, trong mắt đă bắt đầu có khói, th́ t́nh yêu tuổi mười tám nếu bị tan vỡ, hẳn là một điều kinh khủng lắm. Đă mất t́nh yêu lại c̣n cách xa, đứt ĺa cuống rốn, nơi chốn đầm đ́a tuổi thơ và mật ngọt hoa niên, th́ phải buốt đau lắm. Tôi nhắc tới nỗi đau ḷng này, v́ khi nghe bài hát “Nỗi ḷng người đi”, tôi bỗng h́nh dung h́nh ảnh một Anh Bằng trong gịng người chen chúc vo khăn tay, nhầu nước mắt, trong những ngày tản cư thập niên năm tư, năm lăm. Ẩn hiện trong đoạn phim đen trắng quay chậm, có dáng chàng thanh niên tay đàn, tay sách, ngơ ngác trông vời tít tắp bóng người con gái mịt mờ xa chân chiều, cuối ga khói.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-01.jpg
Tôi được biết nhạc sĩ Anh Bằng từ ngày Câu Lạc Bộ T́nh Nghệ Sĩ ở hải ngoại mới thành lập, mà ông là một trong các vị nhạc sĩ cố vấn lăo thành. Tôi thường gọi ông bằng chú với ḷng quư mến. Tôi chia sẻ vui buồn đời thường và những bài viết của tôi với ông. Ông hay gởi các CD hay DVD của ông cho tôi và những ḍng thư khích lệ, góp ư về lănh vực âm nhạc.
Một lần gặp ông, tôi hỏi về cảm nghĩ phút ông rời xa Hà Nội, về khắc chia tay với ánh mắt người yêu đầu đời ấy, tâm trạng ông ra sao? Ông chỉ vào tai ḿnh nói “Chú điếc đặc rồi, chẳng nghe được ǵ.” Tôi lại hỏi “Chú c̣n nhớ bài “Nỗi ḷng người đi”, c̣n nghe được tiếng đàn không?” Ông mỉm cười khi nghe tôi hét to. “Chú chỉ nghe được tiếng rè rè thôi.” Tôi không hỏi nữa, v́ biết có hỏi cũng không nhận được câu trả lời. Nh́n nụ cười hiền lành của ông, ḷng tôi bùi ngùi nhưng ấm sáng nỗi niềm an lạc. Nụ cười của người đă mút xa Hà Nội hàng mấy mươi năm ấy, vẫn không xóa mờ được tiếng “khóc tơ duyên ĺa tan” thuở xưa. Ngày người giă từ Hà Nội, ngày gió mùa đông bắc thổi buốt má, khô môi, thông thốc rải lá khô đầy những gờ mái cong hàng phố cổ. Hai mươi mấy năm sau, người thanh niên đó đă ngũ tuần, lại mang thêm một nỗi ḷng mới, dứt áo ra đi xa ĺa đất tổ. Hà Nội giờ là bên này của kư ức, Sài G̣n là bên kia của hồi tưởng, tiếng đàn xưa có trổi, người nhạc sĩ cũng không c̣n nhận được điệu t́nh tang thấm thía mịt mù.
Hơn sáu mươi năm âm nhạc, nhạc sĩ Anh Bằng đă để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm. Tuy nhiên “Nỗi ḷng người đi” đă khắc một dấu ấn sâu đậm và làm nên tên tuổi một Anh Bằng trong ḷng người yêu nhạc. Người Bắc di cư hầu như không ai không biết bài hát này, v́ nó không chỉ là nỗi ḷng riêng ông, mà c̣n là nỗi ḷng thắm thiết bao người với mảnh đất thân yêu đă sinh ra và nuôi họ lớn lên. Xa Hà Nội là xa trời, xa đất, xa người, xa tất cả, là để lại phân nửa h́nh hài của chính ḿnh.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-03.jpg
Ca sĩ Sĩ Phú và nhạc phẩm “Nỗi ḷng người đi” (trước 75)
Người ta thường ví von cuộc đời người nghệ sĩ như kiếp con tằm, “rút ruột, nhả tơ” cho đến chết. Tôi cảm phục người xưa, so sánh sao mà khéo lắm vậy. H́nh ảnh một con tằm uốn người xoay tṛn nhả tơ để tự giam nhốt chính nó, như một vũ công. Và cứ thế, nó múa vũ điệu của tằm, nhả cho đến hết tơ trong bụng mới thôi. Hệt như người nghệ sĩ say sưa đi t́m cái hay, cái đẹp để cống hiến cho đời. Họ mải mê sáng tác, tận tụy, vất vả theo đuổi nghiệp nhả tơ cho đến lúc sức tàn, lực kiệt. Nhạc sĩ Anh Bằng cũng vậy, suốt cuộc đời ông, từ khi bắt đầu sáng tác, đến khi di cư vào Nam, di tản qua Hoa Kỳ, tới lúc nằm xuống, ông chưa từng ngơi nghỉ. Kể cả khi mất đi thính giác là tài sản quư báu nhất của một người viết nhạc, ông vẫn tiếp tục đắm say trong vũ điệu tơ tằm.
Từ khi vào Nam phục vụ trong ngành chiến tranh tâm lư, ông hoạt động như một nghệ sĩ trong Đại Đội 2 văn nghệ, sáng tác nhạc, kịch. Ông đoạt “Giải văn học nghệ thuật toàn quốc” thời Đệ Nhất Cộng Ḥa với vở kịch “Đứa con nuôi”. Sau khi giải ngũ năm 1962, ông hoạt động trong đài truyền thanh VTVN và phụ trách ban Sóng Mới. Ông thường kư nhiều tên khác nhau như Lê Minh Bằng do sự hợp tác với Lê Dinh và Minh Kỳ, hay nhiều tên khác như Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường,Vương Đức Long v..v…Có lẽ ông thích khoác cho ḿnh bộ áo muôn màu, đủ sắc như sự đa dạng trong tác phẩm của ông.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-02.jpg
Khi c̣n bé ở trong nước, tuổi thơ của tôi lớn lên bằng tiếng ru vọng cổ của cô người làm, tiếng ư ử xuyên vách “Hai mùa mưa” của chị bán chè đậu kế bên nhà. Chị tâm sự với tôi, chị ghiền nghe Trang Mỹ Dung nức nở bài này lắm. Sau này lớn lên, tôi cũng đồng ư với chị không ai ăn đứt được tiếng hát TMD khi tŕnh bày bài này. Sáng tác “Hai mùa mưa” của Lê Minh Bằng đến với tôi từ đó. Thêm một lư do nữa, tôi may mắn được quen nhỏ bạn cùng trường là em gái Trang Mỹ Dung, khiến “Hai mùa mưa” đi vào trí nhớ tôi như một kư ức ấm vui. Có lần tôi ghé nhà nhỏ trong một ngơ hẻm ở Phú Nhuận, nhưng không gặp chị Dung, v́ chị vắng nhà. Tôi chỉ được thấy TMD qua tấm h́nh đen trắng, có nụ cười buồn mênh mông giữa tường vôi trắng.
Tôi c̣n thích bài hát “Nó” của Lê Minh Bằng khi mường tượng ra thằng bé đánh giày hay ngủ trước hiên cửa nhà tôi. “Nó” thường đánh thức tôi bằng những tràng chửi thề liên tục hằng đêm. “Nó” của các em bé tay gầy quắt queo, x̣e rộng bàn tay xin tiền ở chợ, đ́nh, chùa, quán ăn, lề đường, góc phố. “Nó” đói lạnh, bị hắt hủi, xua đuổi, bị bọn bất lương đánh đập gây thương tật để gợi ḷng thương của khách cho tiền. Ở góc nh́n mẫn cảm của người nghệ sĩ, “Nó” đă chạm tới một góc khuyết của tâm hồn, một phía khuất của xă hội.
Tác phẩm của Anh Bằng rất đa dạng. Có dạo tôi rất thích điệu Tango và say đắm tiếng hát Khánh Ly trong bài hát “Người thợ săn và đàn chim nhỏ”. Ca khúc này được kư tên Vương Đức Long, cũng là tên của nhóm Lê Minh Bằng, ca từ do Anh Bằng viết. Nhạc sĩ Lê Dinh kể: “Nhằm nói lên việc đối xử không mấy tốt đẹp - đôi khi hơi tàn bạo - của một vài cảnh sát viên, tuy nói là bạn dân, nhưng thường hay có thái độ hằn học, không đẹp với dân chúng, đặc biệt là người sử dụng công lộ và nhất là những phụ nữ buôn gánh bán bưng... Trong óc tưởng tuợng của anh - người cảnh sát không phải là bạn dân - khi có cây súng trên tay, như người thợ săn và hà hiếp dân chúng mà anh so sánh như đàn chim, để rồi anh viết lời ca:
Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng
C̣n một bầy chim vô t́nh vẫn hót líu lo đùa chơi
Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây
Chim chết chim lạc bầy...”
Riêng tôi và đa số người nghe không biết nghĩa bóng và câu chuyện liên hệ nhưng mỗi khi hát đến câu “Rồi người thợ săn âm thầm mang súng mang chim trở về, lề đường bầy chim không thù không oán, hót cho người nghe” lại thấy rưng rưng thương cảm đàn chim vô tội bị thảm sát. Tôi cảm nhận được tính nhân bản trong ca khúc như một đóa mai từ bi.
http://baotreonline.com/images/stories/BAOTREONLINE/TINTUC/Tin-anh/nhacsi-anhbang-04.jpg
Ca sĩ Trang Mỹ Dung và nhạc phẩm “Hai mùa mưa” (trước 1975)
Sống trong thời ly loạn hầu hết những ca khúc của ông thấp thoáng màu áo trận của người lính chiến, của những biệt ly và lên đường như “Căn nhà ngoại ô”, Lẻ Bóng”, “Sầu lẻ bóng”, Đường khuya” hay “Nếu hai đứa ḿnh”, “Giấc ngủ cô đơn”... Ông c̣n đề cao t́nh chiến hữu trong “Huynh đệ chi binh” hoặc vui buồn đời quân ngũ “Binh méo, cai tṛn” hay hóm hỉnh như “Đánh cờ người”, tếu táo trong “Tập lái vespa” mà ban AVT thường tŕnh diễn. Nhạc của ông không dừng lại ở tầng lớp những người b́nh dân mà c̣n ngưng đọng ở một tầng lớp chọn lọc khác, ở lănh vực thơ phổ nhạc. Có những bài thơ đă được ông phổ nhạc như các bài “Khúc thụy du” của Du Tử Lê, “Trúc đào” của Nguyễn Tất Nhiên, “Ai bảo em là giai nhân” của Lưu Trọng Lư, “Anh biết em đi chẳng trở về” của Thái Can, “Hoa học tṛ” của Nhất Tuấn. Khi phổ nhạc các bài thơ, ông thường lấy ư, mượn ư, và dùng ca từ riêng của ḿnh. Khi dịch lời nhạc ngoại quốc qua Việt ngữ cũng vậy, ông tạo một ngôn ngữ riêng mà vẫn giữ ư chính, như trong bài “T́nh nồng cháy”, nguyên tác “Over and over”, do Cornell Haynes Jr, Jayson “KoKo” Bridges & James D. Hargrove sáng tác.
Khi qua Hoa Kỳ, ông tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassette Dạ Lan (1981-1990), và cộng tác với Trung tâm Asia. Những nhạc phẩm sau này nói lên tâm sự, nỗi ḷng hoài hương và những sinh hoạt của người Việt lưu vong như “Căn gác lưu đày”, “Nước mắt quê hương”. Xúc động và phẫn uất trước thảm họa xâm lăng của Trung quốc, ông hăng say sáng tác những ca khúc khơi dậy ḷng ái quốc, đấu tranh cho quê hương, dân tộc như “Phải lên tiếng”, “Cả nước đấu tranh”, “Hăy đứng lên”, “Tuổi trẻ Việt Nam” v.v...
Hôm nay tôi viết những ḍng tưởng niệm nhạc sĩ Anh Bằng với niềm thương kính như với một người cha, người chú hiền từ, đầy ḷng nhân ái. Sự ra đi của ông khó mờ phai trong tâm tưởng những người từng mến mộ những ca khúc của ông.
Bao nhiêu năm góp phần xây dựng cho kim tự tháp âm nhạc Việt Nam, đáy kim tự tháp hẳn nhiên có tên ông - nhạc sĩ Anh Bằng.
TTT ( THÁNG 11, 2015)(baotreonline)